• Trang chủ
  • Hiến pháp
  • Hình sự
  • Dân sự
  • Hành chính
  • Hôn nhân gia đình
  • Lao động
  • Thương mại

Luật sư Online

Tư vấn Pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, ly hôn, thừa kế, đất đai

  • Kiến thức chung
    • Học thuyết kinh tế
    • Lịch sử NN&PL
  • Cạnh tranh
  • Quốc tế
  • Thuế
  • Ngân hàng
  • Đất đai
  • Ngành Luật khác
    • Đầu tư
    • Môi trường
 Trang chủ » Chế định bảo vệ tổ quốc trong Hiến pháp năm 2013

Chế định bảo vệ tổ quốc trong Hiến pháp năm 2013

18/05/2020 21/05/2021 TS. Ngô Hữu Phước Leave a Comment

Mục lục

  • TÓM TẮT
  • 1. Dẫn nhập
  • 2. Những nội dung cơ bản của chế định bảo vệ Tổ quốc trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013 (gọi tắt là Hiến pháp mới)
    • Thứ nhất, về vị trí và số điều của Chương IV Hiến pháp mới.
    • Thứ hai, về tên của Chương IV Hiến pháp mới.
    • Thứ ba, về nội dung của Chương IV Hiến pháp mới.
  • CHÚ THÍCH

Chế định bảo vệ tổ quốc trong Hiến pháp năm 2013

Chế định bảo vệ tổ quốc trong Hiến pháp năm 2013

TÓM TẮT

Bài viết khái quát nội dung của chế định bảo vệ Tổ quốc trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992 đồng thời, phân tích làm sáng tỏ nội dung và những điểm mới của chế định bảo vệ Tổ quốc trong Hiến pháp mới so với Hiến pháp 1992.

Xem thêm:

  • Những điểm mới cơ bản của Hiến pháp nước CHXHCH Việt Nam 2013
  • Hiến pháp 2013 về Mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia với cơ quan hành pháp ở Việt Nam
  • Bàn về mối quan hệ giữa Thủ tướng Chính phủ và Quốc hội trong Hiến pháp 2013
  • Những điểm mới của chương “Chính phủ” trong Hiến pháp 2013
  • Quy định của Hiến pháp năm 2013 về “Quốc hội”

TỪ KHÓA: Hiến pháp 2013,

Xem thêm tài liệu liên quan:

  • Vị trí, vai trò của chế định Chủ tịch nước trong các bản Hiến pháp của Việt Nam (Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013)
  • Chế định Hội đồng bầu cử quốc gia trong Hiến pháp 2013
  • Quy định về Điều ước quốc tế trong năm bản Hiến pháp của Việt Nam từ năm 1946 đến năm 2013
  • Chế định Chủ tịch nước qua các bản Hiến pháp (Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013)
  • Những điểm mới cơ bản của "Chế độ chính trị" trong Hiến pháp 2013 so với Hiến pháp 1992
  • Hoàn thiện một số vấn đề pháp lý nhằm bảo đảm thi hành hiệu quả các quy định về Thủ tướng Chính Phủ trong Hiến pháp năm 2013
  • Sự phát triển chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân qua các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013
  • Đánh giá chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp 2013
  • Chế định Kiểm toán nhà nước trong Hiến pháp 2013
  • Quyền bào chữa trong Hiến pháp 2013 và việc triển khai thực hiện

1. Dẫn nhập

Từ năm 1946 đến 1992, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã xây dựng và ban hành bốn bản Hiến pháp (Hiến pháp 1946[1] , Hiến pháp 1959[2] , Hiến pháp 1980[3] và Hiến pháp 1992[4] ). Ở từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử khác nhau, sứ mệnh của mỗi bản Hiến pháp đều gắn liền và phản ảnh điều kiện chính trị, kinh tế – xã hội trong nước và quốc tế cũng như yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam.

Chế định bảo vệ Tổ quốc trong mỗi bản Hiến pháp tuy có sự khác nhau về câu chữ, cách diễn đạt và kỹ thuật lập hiến nhưng đều chứ đựng nội dung cốt lõi là trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào thì sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước cũng không tách rời sự nghiệp bảo vệ độc lập của dân tộc, chủ quyền của quốc gia cũng như sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Nếu Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 chỉ quy định một vài nội dung đơn giản về bảo vệ Tổ quốc như:“Công dân phải có nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc và nghĩa vụ đi lính”[5] hay,“Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và cao quý nhất của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Công dân có bổn phận làm nghĩa vụ quân sự để bảo vệ Tổ quốc”[6] thì chế định bảo vệ Tổ quốc đã được kế thừa và phát triển thành một chương trong Hiến pháp 1980[7] và Hiến pháp 1992[8] .

Chế định bảo vệ Tổ quốc trong bốn bản Hiến pháp của nước ta đã đi vào cuộc sống, phát huy hiệu quả, góp phần quan trọng vào những thắng lợi to lớn của dân tộc, trong mỗi giai đoạn cách mạng. Hiến pháp 1946 đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử, đúng với tinh thần là Hiến pháp kháng chiến – kiến quốc. Hiến pháp 1959 là Hiến pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn liền với công cuộc kháng chiến, đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Hiến pháp 1980 là Hiến pháp cả nước đồng lòng xây dựng Chủ nghĩa xã hội, đi đôi với bảo vệ thành quả cách mạng và Hiến pháp 1992 là Hiến pháp của thời kỳ đổi mới. Trong đó, Hiến pháp 1992 được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển những ưu điểm của các bản Hiến pháp trước, đặc biệt là những quan điểm đã được xác định trongCương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991) và Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng. Hơn 20 năm qua, Hiến pháp 1992 luôn khẳng định vai trò của một văn bản chính trị – pháp lý, là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc của Nhà nước, phản ánh ý chí, lợi ích của toàn dân tộc. Hiến pháp 1992 đã tạo cơ sở pháp lý đặc biệt quan trọng cho công cuộc đổi mới đất nước và thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, để đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới, thể chế hóa về mặt nhà nước những định hướng chiến lược của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua, việc sửa đổi Hiến pháp 1992 là rất cần thiết[9] .

2. Những nội dung cơ bản của chế định bảo vệ Tổ quốc trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013 (gọi tắt là Hiến pháp mới)

Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là từ ngày Bác Hồ kính yêu khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ngày 02/9/1945 đến nay, “bảo vệ tổ quốc” luôn là nghĩa vụ thiêng liêng, cao quý nhất và cũng là niềm tự hào của mọi người dân Việt Nam. Chính vì vậy, chế định bảo vệ Tổ quốc luôn được xác định là một trong những nội dung, chế định cốt lõi của Hiến pháp. Trên cơ sở kế thừa, chọn lọc và sửa đổi, bổ sung các nội dung về bảo vệ Tổ quốc trong các bản Hiến pháp trước, đặc biệt là Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới tiếp tục dành 01 chương (Chương IV) quy định các nội dung cơ bản, mang tính nguyên tắc về chế định này. Nghiên cứu Chương IV của Hiến pháp mới, chúng tôi thấy có một số nội dung đã được sửa đổi, bổ sung so với Hiến pháp 1992 như sau:

Thứ nhất, về vị trí và số điều của Chương IV Hiến pháp mới.

Hiến pháp mới vẫn giữ vị trícủa chế định bảo vệ Tổ quốc tại Chương IV gồm 05 điều như Hiến pháp 1992. Tuy nhiên, tên của các điều được thay đổi. Cụ thể, nếu Chương IV của Hiến pháp 1992 được quy định từ Điều 44 đến Điều 48 thì Chương IV của Hiến pháp sửa đổi 2013 được quy định từ Điều 64 đến Điều 68.

Chúng tôi cho rằng, việc dành một chương trong Hiến pháp để quy định riêng chế định bảo vệ Tổ quốc là điểm nổi bật và độc đáo nhất của Hiến pháp Việt Nam so với Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới[10] . Chính điều đó đã phản ánh sâu sắc lịch sử và truyền thống dựng nước, giữ nước anh hùng, bất khuất của dân tộc Việt Nam đồng thời, nhấn mạnh vị trí, vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt, không thể tách rời của “sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong bối cảnh quốc tế hiện nay. Ngoài ra, nhằm cụ thể hóa mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo, các nhiệm vụ cơ bản, các giải pháp chủ yếu về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới đã được Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (năm 2003) xác định tại Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Theo đó,công cuộc bảo vệ Tổ quốc phải phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, từ chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành thống nhất của Nhà nước với lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Nội dung và yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là sự kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng và bảo vệ như đã được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) là:“… bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ Xã hội chủ nghĩa…”; “… Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân vững chắc”; “… Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng-an ninh, quốc phòng-an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế-xã hội và trên từng địa bàn”; “… Xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo đảm cho lực lượng vũ trang được trang bị kỹ thuật từng bước hiện đại”[11] .

Mặt khác, xuất phát từ tầm quan trọng đặc biệt và phạm vi rộng lớn của “sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”nên rải rác trong các chương, điều, khoản khác của Hiến pháp đã trực tiếp hoặc gián tiếp quy định các nội dung liên quan đến bảo vệ tổ quốc như: Điều 1( tuyên ngôn của Nhà nước ta về chủ quyền quốc gia và lãnh thổ); Điều 9 (vị trí, vai trò của Ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam); Điều 10 (vị trí, vai trò của Công đoàn Việt Nam); Điều 11 (lời Tuyên thệ về bảo vệ Tổ quốc); Điều 12 (chính sách đối ngoại của Nhà nước); Điều 44, 45, 46 (nghĩa vụ của công dân trung thành với Tổ quốc, nghĩa vụ quân sự, bảo vệ an ninh quốc gia)… hoặc các quy định khác tại Điều 70 khoản 13 (về thẩm quyền quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình; tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh của Quốc hội); Điều 74 khoản 9 (thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội về vấn đề này trong trường hợp Quốc hội không thể họp được); Điều 88 khoản 5 (thẩm quyền của Chủ tịch nước với tư cách là Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh); Điều 96 khoản 3 (thẩm quyền của Chính phủ); Điều 102 khoản 3 (thẩm quyền của Tòa án nhân dân); Điều 107 khoản 3 (thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân ).

Thứ hai, về tên của Chương IV Hiến pháp mới.

Nếu Chương IV của Hiến pháp 1992 được đặt tên là: “bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” thì Chương IV của Hiến pháp mới được rút gọn lại (bỏ cụm từ Việt Nam Xã hội chủ nghĩa) và đặt tên là: “bảo vệ Tổ quốc”. Chúng tôi cho rằng, quyết định sửa và đặt lại tên của Chương IV như vậy là rất ngắn gọn, cô đọng và khoa học nhằm tránh sự lặp lại của cụm từ “Việt Nam xã hội chủ nghĩa”nhiều lần trong toàn Hiến pháp. Bởi lẽ, ngay tên của Hiến pháp đã khẳng định là“Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Đồng thời, cụm từ “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”và “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” cũng được quy định trong rất nhiều điều, khoản của Hiến pháp mới[12] . Mặt khác, việc đặt tên Chương IV của Hiến Pháp mới là “ bảo vệTổ quốc” còn có ý nghĩa đặc biệt cả về lịch sử và chính trị. Theo đó, “bảoTổ quốc” được quy định trong Hiến pháp chính là bảo vệ Tổ quốc chung của dân tộc Việt Nam đã được các thế hệ người dân Việt Nam xây dựng, bảo vệ và phát triển trong suốt chiều dài“mấy nghìn năm lịch sử” như đã được long trọng ghi nhận tại Lời nói đầu của Hiến pháp chứ không riêng gì “Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”,Quốc hiệu mới của nước ta từ năm 1976[13] đến nay.

Thứ ba, về nội dung của Chương IV Hiến pháp mới.

Chúng tôi thấy rằng, mỗi điều khoản trong Chương IV đã chuyển tải được tinh thần, nội dung và ý nghĩa chính trị-pháp lý của nó. Cụ thể:

* Điều 64 Hiến pháp mới quy định:“bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân”. Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh”.Về cơ bản, Điều 64 Hiến pháp mới vẫn giữ cấu trúc và cách thể hiện như Điều 44 Hiến pháp 1992[14] nhưng có 03 sửa đổi và bổ sung sau đây:

(1) Bỏ cụm từ “giữ vững an ninh quốc gia”ở đoạn 1. Chúng tôi cho rằng, bỏ cụm từ này là rất cần thiết và khoa học. Vì “An ninh quốc gia”là trạng thái đạt được của các hoạt động bảo vệ Tổ quốc đem lại, là một nội dung của bảo vệ Tổ quốc. Do vậy, nếu đặt cụm từ “giữ vững an ninh quốc gia”sau cụm từ “bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa”như Điều 44 Hiến pháp 1992 sẽ dẫn đến việc hiểu nội dung“an ninh quốc gia”là độc lập, ngang bằng với nội dung “bảo vệ Tổ quốc”. Điều này cũng đã được Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 (khóa IX) của Đảng xác định, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc bao gồm hai lĩnh vực cấu thành là Quốc phòng và An ninh. Mặt khác, quy định“giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân”là không thật chính xác cả về lý luận, pháp lý và thực tiễn. Vì “an ninh quốc gia”được giữ vững hay không chính là do phẩm chất và năng lực của bộ máy Nhà nước quyết định. Nếu trong bộ máy Nhà nước, các tệ nạn nảy sinh như quan liêu, tham nhũng không được phòng, chống có hiệu quả, các chính sách ban hành và triển khai thực hiện không thấu tình đạt lý, gây nên phản ứng rộng rãi, suy thoái kinh tế kéo dài dẫn đến khủng hoảng chính trị – xã hội… thì nhân dân dù có cố gắng đến đâu cũng không giữ vững được nền an ninh quốc gia[15] .

(2) Bỏ từ “các”và thêm cụm từ “góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới”vào đoạn 2. Sửa đổi này làm cho câu văn đúng ngữ pháp và phù hợp với thực tiễn hơn. Theo ngữ pháp tiếng Việt,“các”là từ dùng để chỉ số nhiều nên viết “các lực lượng vũ trang nhân dân”như Điều 44 Hiến pháp 1992 là không chính xác. Bởi vì, ở nước ta chỉ có “một”lực lượng vũ trang nhân dân (bao gồm quân đội nhân dân và công an nhân dân). Mặt khác, việc thêm cụm từ “góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới”vào đoạn 2 để khẳng định vị thế, vai trò, trách nhiệm của Nhà nước Việt Nam nói chung và của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam nói riêng đối với hòa bình, an ninh của khu vực và thế giới.

(3) Bỏ từ “Nhà nước”và từ “do pháp luật quy định”, rút gọn cụm từ “tổ chức kinh tế” và“tổ chức xã hội”thành “tổ chức”, thay từ “làm”bằng từ “thực hiện”ở đoạn 3 nhằm nhấn mạnh, mọi cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam không phân biệt đó là tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội hay tổ chức xã hội nghề nghiệp; mọi công dân Việt Nam không phân biệt nam, nữ, thành phần, nghề nghiệp… đều phải “thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh”. Mặt khác thay từ“làm” bằng từ “thực hiện”sẽ bao quát hơn. Bởi vì, nếu“làm đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh”thì hình như chỉ điều chỉnh đối với những công dân trực tiếp gia nhập lực lượng vũ trang, trong khi đó chúng ta nói thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh lại là nhiệm vụ chung của toàn dân. Với những sửa đổi, bổ sung ở trên, Điều 64 Hiến pháp mới đã khẳng định 03 nội dung cốt lõi sau đây:

Một là, khẳng định bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp chung. Công dân Việt Nam không phân biệt thành phần, dân tộc, giới tính, tôn giáo, nghề nghiệp… đều phải bảo vệ Tổ quốc vì “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân”như đã thể hiện tại Điều 45 khoản 1.

Hai là, khẳng định bản chất của nền quốc phòng và an ninh của nước ta là“nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân”. Đồng thời, khẳng định vai trò “nòng cốt”của nền quốc phòng và an ninh của nước ta là “lực lượng vũ trang nhân dân” (bao gồm quân đội nhân dân và công an nhân dân).

Ba là, khẳng định Nhà nước là chủ thể chịu trách nhiệm“củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân”và “Phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới”. Chúng tôi cho rằng, trong bối cảnh thế giới diễn biến phức tạp, cục diện thế giới thay đổi, lợi ích quốc gia, dân tộc được đề cao, việc nhấn mạnh kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại là cần thiết, nhằm tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, tạo môi trường thuận lợi, tăng thêm nguồn lực cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế Việt Nam, góp phần vào phong trào cách mạng vì hòa bình, hữu nghị và phát triển của thế giới. Đó là phương thức bảo vệ đất nước hữu hiệu bằng cả thế và lực trong thời đại hội nhập[16] . Với nhận thức trên, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến và lập pháp của Việt Nam, Hiến pháp ghi nhận, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam ngoài sứ mệnh thiêng liêng là bảo vệ Tổ quốc Việt Nam còn có trách nhiệm góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Chúng tôi cho rằng quy định này là rất cần thiết và có tính thời sự rất lớn trong bối cảnh quốc tế hiện nay nhằm khẳng định, Việt Nam“tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên” như đã ghi nhận tại Điều 12 của Hiến pháp mới. Chính vì vậy, với tư cách là thành viên của Liên hợp quốc, Việt Nam sẵn sàng tham gia và có trách nhiệm đối với hoạt động bảo vệ, duy trì hòa bình và an ninh trong khu vực và trên thế giới trong khuôn khổ Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Chúng tôi cho rằng, đây là quy định rất quan trọng, có ý nghĩa chính trị- pháp lý quốc tế, phù hợp với quan điểm và chính sách đối ngoại, hội nhập toàn diện, tích cực, chủ động của nước ta với các nước trong khu vực và thế giới trong bối cảnh quốc tế hiện nay, qua đó khẳng định và nâng cao uy tín, vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Về nội dung này, có ý kiến cho rằng, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam có tham gia vào nhiệm vụ giữ gìn hòa bình hay không, có trực tiếp tham chiến để bảo vệ hòa bình ở nước ngoài hay không thì Hiến pháp phải quy định rõ. Chúng tôi cho rằng, Hiến pháp không cần thiết phải liệt kê các hoạt động cụ thể của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam khi tham gia bảo vệ hòa bình và an ninh quốc tế mà tùy vào điều kiện, tình hình, thời điểm, sự kiện và mối quan hệ giữa nước ta với các nước cần phải có “lực lượng bảo vệ hòa bình”của Liên hợp quốc, Nhà nước có quyết định phù hợp nhằm bảo vệ uy tín và lợi ích của nước ta trong quan hệ quốc tế.

* Điều 65 Hiến pháp năm quy định: “Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”.

Về cơ bản, Điều 65 Hiến pháp mới vẫn giữ cấu trúc và cách thể hiện như Điều 45 Hiến pháp 1992[17] nhưng bỏ các từ“các”,“phải”,“sẵn sàng chiến đấu”,“và những thành quả của cách mạng,” nhằm diễn đạt chính xác hơn về ngữ pháp và làm giảm sự “nặng”và “căng”trong cách diễn đạt của Hiến pháp thời kỳ hội nhập.Đồng thời, thêm 02 chủ thể mà lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam phải có nghĩa vụ trung thành tương ứng với cụm từ “với Đảng và Nhà nước”.Như vậy, nếu Điều 45 của Hiến pháp 1992 quy định, “Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốcvà nhân dân” thì theo Điều 65 của Hiến pháp mới, “Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước”. Ngoài ra, Điều 65 Hiến pháp mới đã bổ sung thêm 02 nhiệm vụ của lực lượng vũ trang nhân dân tương ứng với 02 cụm từ “bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước” và “thực hiện nghĩa vụ quốc tế”.

Với những sửa đổi, bổ sung nói trên, Điều 65 Hiến pháp mới chứa đựng hai nội dung cốt lõi sau đây:

(1) Khẳng định sự trung thành của lực lượng vũ trang đối với Tổ quốc, Nhân dân, Đảng và Nhà nước.Chúng tôi cho rằng, kế thừa quy định này trong Hiến pháp 1992 (Điều 45) là rất cần thiết và đặc biệt quan trọng để lực lượng vũ trang nhân dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội của đất nước. Thực tế đã cho thấy, trong thời gian gần đây, lực lượng vũ trang (quân đội) của một số nước trong khu vực và trên thế giới như ở Liên Xô, các nước Đông Âu, Thái lan[18] , Pakistan, Ai Cập… đã thực hiện các cuộc đảo chính, tranh dành quyền lực làm cho tình hình chính trị tại các nước này ngày càng phức tạp, là nguyên nhân gây ra bạo loạn, mất ổn định đất nước, bị nước ngoài can thiệp và làm sụp đổ cả hệ thống xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, Hiến pháp quy định, lực lượng vũ trang nhân dân trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, Đảng và Nhà nước là điều kiện nền tảng mang tính quyết định để đảm bảo rằng, Tổ quốc, Nhân dân, Đảng và Nhà nước sẽ được bảo vệ vững chắc trước mọi biến động của tình hình trong nước và thế giới. Lịch sử Việt Nam hiện đại đã chứng minh, từ khi ra đời đến nay (quân đội nhân dân Việt Nam năm 1944 và Công an nhân dân Việt Nam năm 1945) lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam luôn tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Nhân dân, với Đảng và Nhà nước. Chính sự trung thành của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đã góp phần xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước hòa bình, ổn định và phát triển như ngày nay.

Mặt khác, chúng tôi cho rằng Hiến pháp xếp sự trung thành của lực lượng vũ trang đối với bốn chủ thể theo thứ tự Tổ quốc, Nhân dân, Đảng, Nhà nước là hoàn toàn chính xác, khoa học, phù hợp với thực tiễn và lịch sử của đất nước. Bởi lẽ, nói đến Tổ quốc và Nhân dân Việt Nam là nói đến tất cả những gì tốt đẹp nhất, thiêng liêng nhất, bao trùm nhất của dân tộc Việt Nam. Tổ quốc và Nhân dân Việt Nam là bất biến, không bao giờ thay đổi. Trong đó, Tổ quốc bao gồm tất cả những gì thuộc về lãnh thổ quốc gia, đất nước, con người, lịch sử và truyền thống văn hiến của dân tộc Việt Nam. Đảng là từ dân mà ra, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân nên Đảng và Nhà nước phải đứng sau Tổ quốc và Nhân dân.

(2) Khẳng định nhiệm vụ thiêng liêng của lực lượng vũ trang là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.Chúng tôi cho rằng, đây là những “đối tượng” quan trọng nhất cần được bảo vệ an toàn tuyệt đối và phải được bảo vệ bởi lực lượng vũ trang nhân dân. Lịch sử của đất nước từ năm 1945 đã chứng minh, gần 70 năm qua, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thiêng liêng này. Do đó, quy định nhiệm vụ và đối tượng mà lực lượng vũ trang bảo vệ như thể hiện ở Điều 65 Hiến pháp mới nhằm khẳng định sự tin tưởng tuyệt đối của Nhân dân, của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân.

(3) Khẳng định vai trò và trách nhiệm của lực lượng vũ trang trong việc xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Chúng tôi cho rằng, kế thừa Hiến pháp 1992 (Điếu 45), Hiến pháp mới tiếp tục khẳng định vai trò và trách nhiệm“cùng toàn dân xây dựng đất nước”bên cạnh nhiệm vụ thiêng liêng là “bảo vệ Tổ quốc” là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Xây dựng và Bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược và không thể tách rời của lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Điều đó đã được chứng minh bằng sự đóng góp to lớn của lực lượng vũ trang trong lĩnh vực kinh tế – xã hội của đất nước trong thời gian vừa qua. Bên cạnh đó, lần đầu tiên Hiến pháp mới quy định, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam có nghĩa vụ “thực hiện nghĩa vụ quốc tế”. Chúng tôi cho rằng, “nghĩa vụ quốc tế”của lực lượng vũ trang chính là sự cụ thể hóa nghĩa vụ “góp phần bảo vệ “hòa bình của khu vực và thế giới”như đã được thể hiện và khẳng định tại Điều 64 trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

* Điều 66 Hiến pháp mới quy định: “ Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng”.

So với Điều 46 Hiến pháp 1992[19] chúng tôi thấy, Điều 66 Hiến pháp có 02 sửa đổi, bổ sung sau đây:

(1) Điều 66 Hiếp pháp mới đã sắp xếp lại nội dung của Điều 46 Hiến pháp 1992 theo hướng ngắn gọn, cô đọng hơn với nội dung, khẳng định rõ mục tiêu xây dựng và phát triển lực lượng Quân đội của Nhà nước ta là “xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”với một cơ cấu phù hợp với đặc thù của nước ta là “có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp”. Bên cạnh đó, Hiến pháp mới khẳng định rõ, Quân đội “làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng”.

(2) Bỏ cụm từ,“trên cơ sở kết hợp xây dựng với bảo vệ Tổ quốc, kết hợp sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân với sức mạnh của toàn dân, kết hợp sức mạnh truyền thống đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm với sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa”.Chúng tôi cho rằng, sự lược bỏ này là cần thiết làm cho Hiến pháp hiện đại hơn, “hòa bình” hơn và tránh sự trùng lắp với các quy định tại Điều 68.

* Điều 67 Hiến pháp mới quy định:“Nhà nước xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm”.

So với Điều 47 Hiến pháp 1992[20] chúng tôi thấy, Điều 67 Hiến pháp có 02 sửa đổi, bổ sung sau đây:

(1) Cũng với phương pháp và cách diễn đạt như Điều 66, Điều 67 của Hiến pháp mới đã sắp xếp lại nội dung của Điều 47 Hiến pháp 1992 theo hướng ngắn gọn và cô đọng hơn với nội dung khẳng định rõ mục tiêu xây dựng và phát triển lực lượng Công an nhân dân của Nhà nước ta theo hướng“chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Đồng thời, khẳng định lực lượng Công an nhân dân là lực lượng “nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm”.

(2) Bỏ các cụm từ “dựa vào nhân dân và ”, “cho phong trào nhân dân để ”, “bảo đảm sự ổn định chính trị và các quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản xã hội chủ nghĩa,”. Chúng tôi cho rằng, việc lược bỏ các cụm từ trên là cần thiết vì thực chất các nội dung được chuyển tải trong các cụm từ này đã được Hiến pháp mới khẳng định một cách tổng quát nhất tại Điều 64 và 65. Do vậy, không cần thiết phải nhắc lại tại Điều 67 nữa.

* Điều 68 của Hiến pháp mớiquy định: “Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của Nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân; xây dựng công nghiệp quốc phòng, an ninh; bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân, kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh; thực hiện chính sách hậu phương quân đội; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sỹ, công nhân, viên chức phù hợp với tính chất hoạt động của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ Tổ quốc”.

So với Điều 48 Hiến pháp 1992[21] , Điều 68 Hiến pháp mới đã bỏ cụm từ “thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự”.Theo chúng tôi, bỏ cụm từ này là khoa học vì thực chất Điều 64 đã ghi nhận nội dung này nhưng với nghĩa rộng hơn là “Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh”. Đồng thời, Điều 68 Hiến pháp mới đã bỏ từ “các” ở ý cuối cùng của Điều 48 Hiến pháp 1992 là chính xác vì, Việt Nam chỉ có “một ” lực lượng vũ trang nhân dân thống nhất. Bên cạnh đó, Điều 68 Hiến pháp mới còn thêm từ“an ninh” và cụm từ“ phù hợp với tính chất hoạt động của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân”. Thaytừ “đất nước” bằng“Tổ quốc”. Chúng tôi cho rằng, việc thêm và thay đổi các từ và cụm từ nói trên đã chuyển tải được nội dung rộng hơn và ý nghĩa lớn hơn của Hiến pháp và là cơ sở để các luật liên quan như Luật Quốc phòng, Luật sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Công an nhân dân Việt Nam, Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Dân quân tự vệ… cụ thể hóa cho phù hợp với tính chất hoạt động của từng lực lượng. Với những sửa đổi trên, Điều 68 Hiến pháp mới đã “hiến định hóa” một cách khoa học Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), làm cho Hiến pháp phù với điều kiện thực tiễn của nước ta với 03 nội dung cốt lõi sau đây:

(1) Hiến định vai trò và trách nhiệm của Nhà nước trong việc “hiệu triệu”, tập hợp trí tuệ và sức mạnh của toàn dân, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;

(2) Khẳng định chính sách nhất quán và trách nhiệm của Nhà nước đối với đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ, công nhân, viên chức công tác trong lực lượng vũ trang;

(3) Khẳng định mục tiêu của Nhà nước trong việc xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân theo hướng ngày càng “hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ Tổ quốc”.

Tóm lại, chế định bảo vệ Tổ quốc trong Hiến pháp mới đã kế thừa tinh hoa, trí tuệ, kinh nghiệm lập pháp của các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta trong gần 70 năm qua. Chính vì vậy, chế định bảo vệ Tổ quốc trong Hiến pháp mới đã được quy định hoàn thiện hơn cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến. Về nội dung, chế định bảo vệ Tổ quốc trong Hiến pháp mới đã thể chế hóa một cách toàn diện và khoa học đường lối, chính sách của Đảng được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện khác của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Các quy định về bảo vệ Tổ quốc trong Hiến pháp mới đã thể hiện được tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân nhằm thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp mới đã khẳng định nghĩa vụ và trách nhiệm của Nhà nước nói chung và lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam nói riêng trong việc bảo vệ hòa bình và an ninh ở khu vực và thế giới. Về kỹ thuật lập hiến, các quy định của chế định bảo vệ Tổ quốc trong Hiến pháp mới được thể hiện rất khoa học dưới dạng nguyên tắc, định nghĩa khái quát có tính pháp lý cao nên đã khắc phục được phương pháp diễn đạt liệt kê, rườm rà, thiếu chặt chẽ của chế định bảo vệ Tổ quốc trong Hiến pháp 1992.

CHÚ THÍCH

[1]  Hiến Pháp năm 1946 được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa thông qua ngày 9/11/1946 gồm 7 chương 70 điều.

[2] Hiến Pháp năm 1959 được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa thông qua ngày 31/12/1959 gồm 10 chương 112 điều.

[3] Hiến Pháp năm 1980 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 18/12/1980 gồm 12 chương 147 điều.

[4] Hiến Pháp năm 1992 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15/4/1992 gồm 12 chương 147 điều.

[5] Điều thứ 4 và Điều thứ 5 Chương II Hiến pháp 1946.

[6] Điều 42 Chương III Hiến pháp 1959.

[7] Trong Hiến pháp 1980, chế định bảo vệ Tổ quốc được quy định tại Chương IV (Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa) gồm 03 điều từ Điều 50 đến Điều 52. Điều 50 quy định: “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện và hiện đại trên cơ sở kết hợp xây dựng Tổ quốc với bảo vệ Tổ quốc, kết hợp sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân với sức mạnh của toàn dân, kết hợp sức mạnh truyền thống đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm với sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa”.Điều 51 quy định:“ Các lực lượng vũ trang nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ những thành quả của cách mạng, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, tự do, hạnh phúc và lao động hoà bình của nhân dân, cùng toàn dân xây dựng nước nhà”. Điều 52 quy định: “Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chăm lo công nghiệp quốc phòng, huy động nhân lực, vật lực nhằm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước. Tất cả các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân phải làm đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do pháp luật quy định”.

[8] Trong Hiến pháp 1992, chế định bảo vệ Tổ quốc được quy định tại Chương IV (Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa) gồm 05 điều từ Điều 44 đến Điều 48. Điều 44 quy định: “ Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân. Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, nòng cốt là các lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân phải làm đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do pháp luật quy định”.Ðiều 45 quy định: “Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và những thành quả của cách mạng, cùng toàn dân xây dựng đất nước”. Ðiều 46 quy định:“ Nhà nước xây dựng quân đội nhân dân cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu trên cơ sở kết hợp xây dựng với bảo vệ Tổ quốc, kết hợp sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân với sức mạnh của toàn dân, kết hợp sức mạnh truyền thống đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm với sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa”.Ðiều 47 quy định:“ Nhà nước xây dựng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, dựa vào nhân dân và làm nòng cốt cho phong trào nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm sự ổn định chính trị và các quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản xã hội chủ nghĩa, đấu tranh phòng ngừa và chống các loại tội phạm”.Ðiều 48 quy định:“ Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân, thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chính sách hậu phương quân đội, xây dựng công nghiệp quốc phòng, bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang, kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ và chiến sĩ, công nhân, nhân viên quốc phòng, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước”.

[9] Xem thêm: Lê Việt Tường (2013), “Chế định bảo vệ Tổ quốc trong Hiến pháp 1992 và những vấn đề cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung”,Tạp chí Quốc phòng Toàn dân, tại địa chỉ website: http://tapchiqptd.vn/vi/tuyen-truyen-ve-thuc-hien-hien-phap/che-dinh-bao-ve-to-quoc-trong-hien-phap-1992-va-nhung-van-de-can-nghien-cuu-sua-doi-bo-sung/3647.html

[10] Chúng tôi cho rằng, không có bản Hiến pháp nào của nước nào trên thế giới dành một chương riêng để quy định chế định bảo vệ Tổ quốc như Hiến pháp Việt Nam.

[11] Xem thêm: Vũ Văn Nhiêm (2013), “Góp ý về chương bảo vệ Tổ quốc và vấn đề liên quan trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992”,Kỷ yếu Tọa đàm về “ Góp ý sửa đổi Hiến pháp năm 1992” của Hội Cựu Chiến binh và Cựu Quân nhân trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh tháng 5/2013.

[12] Cụm từ “Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ” được sử dụng 20 lần tại các Điều: 1, 2, 5, 12, 13 (5 lần), 14, 17, 50, 69, 86, 94, 102, 104, 110, 111, 119 và cụm từ “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” được sử dụng 4 lần tại Điều 2, 17, 18 và 49.

[13] Trong kỳ họp Quốc hội khóa VI, ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội đã quyết nghị đặt tên nước là “ Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”

[14] Điều 44 Hiến pháp năm 1992 quy định:“Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân. Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, nòng cốt là các lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân phải làm đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do pháp luật quy định”.

[15] Xem thêm: Hà Nguyên Cát (2013), “Hoàn thiện hơn nữa chất lượng hiến định về quốc phòng – an ninh”,đăng tải trên website của Tạp chí Quốc phòng toàn dân: http://tapchiqptd.vn/gop-y-kien-ve-du-thao-sua-doi-hien-phap/hoan-thien-hon-nua-chat-luong-hien-dinh-ve-quoc-phong–an-ninh/3603.html

[16] Xem thêm: Vũ Đăng Minh, “ Xây dựng và phát huy sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”,trên website của báo điện tử Quân đội nhân dân Việt Nam ngày 19/12/2013.

[17] Ðiều 45 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốcvà nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và những thành quả của cách mạng, cùng toàn dân xây dựng đất nước”.

[18] Từ năm 1932 đến năm 2006, quân đội Thái lan đã thực hiện 18 vụ đảo chính, gây ra nhiều bất ổn về chính trị, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của đất nước Thái Lan. Xem thêm bài viết, “Thủ tướng Thái Lan tin tưởng quân đội sẽ không tiến hành đảo chính” trên báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam tại địa chỉ website:.http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30127&cn_id=625476ngày 11/12/2013.

[19] Ðiều 46 quy định:“ Nhà nước xây dựng quân đội nhân dân cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu trên cơ sở kết hợp xây dựng với bảo vệ Tổ quốc, kết hợp sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân với sức mạnh của toàn dân, kết hợp sức mạnh truyền thống đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm với sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa”.

[20] Ðiều 47 quy định:“ Nhà nước xây dựng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, dựa vào nhân dân và làm nòng cốt cho phong trào nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm sự ổn định chính trị và các quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản xã hội chủ nghĩa, đấu tranh phòng ngừa và chống các loại tội phạm”.

[21] Ðiều 48 quy định: “ Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân, thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chính sách hậu phương quân đội, xây dựng công nghiệp quốc phòng, bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang, kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ và chiến sĩ, công nhân, nhân viên quốc phòng, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước”.

Tác giả: TS. Ngô Hữu Phước

Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số Đặc san 01/2014, Trang 24-32

Like fanpage Luật sư Online tại: https://www.facebook.com/iluatsu/

Chia sẻ bài viết:
  • Share on Facebook

Bài viết liên quan

[CÓ ĐÁP ÁN] Đề cương ôn tập môn Luật Hiến pháp Việt Nam có đáp án
[CÓ ĐÁP ÁN] Đề cương ôn tập môn Luật Hiến pháp Việt Nam
Chế định Kiểm toán nhà nước trong Hiến pháp 2013
Chế định Kiểm toán nhà nước trong Hiến pháp 2013
Chế định Hội đồng bầu cử quốc gia trong Hiến pháp 2013
Chế định Hội đồng bầu cử quốc gia trong Hiến pháp 2013
Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân
Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến pháp 2013
Các nguyên tắc hiến định về hoạt động của Tòa án nhân dân
Các nguyên tắc hiến định trong Hiến pháp 2013 về hoạt động của Tòa án nhân dân
Nhiệm vụ của Tòa án nhân dân theo Hiến pháp 2013
Nhiệm vụ của Tòa án nhân dân theo Hiến pháp 2013

Chuyên mục: Hiến pháp/ Hiến pháp Việt Nam Từ khóa: Bảo vệ tổ quốc/ Hiến pháp 2013/ Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số Đặc san 01/2014

Previous Post: « Hiến pháp 2013 về Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Next Post: Chương “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường” của Hiến pháp 2013 »

Reader Interactions

Trả lời Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Primary Sidebar

Tìm kiếm nhanh tại đây:

Tài liệu học Luật

  • Trắc nghiệm Luật | Có đáp án
  • Nhận định Luật | Có đáp án
  • Bài tập tình huống | Đang cập nhật
  • Đề cương ôn tập | Có đáp án
  • Đề Thi Luật | Cập nhật đến 2021
  • Giáo trình Luật PDF | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | TRẢ PHÍ
  • Từ điển Luật học Online| Tra cứu ngay

Tổng Mục lục Tạp chí ngành Luật

  • Tạp chí Khoa học pháp lý
  • Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
  • Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
  • Tạp chí Kiểm sát
  • Tạp chí nghề Luật

Chuyên mục bài viết:

  • An sinh xã hội
  • Cạnh tranh
  • Chứng khoán
  • Cơ hội nghề nghiệp
  • Dân sự
    • Luật Dân sự Việt Nam
    • Tố tụng dân sự
    • Thi hành án dân sự
    • Hợp đồng dân sự thông dụng
    • Pháp luật về Nhà ở
    • Giao dịch dân sự về nhà ở
    • Thừa kế
  • Doanh nghiệp
    • Chủ thể kinh doanh và phá sản
  • Đất đai
  • Giáo dục
  • Hành chính
    • Luật Hành chính Việt Nam
    • Luật Tố tụng hành chính
    • Tố cáo
  • Hiến pháp
    • Hiến pháp Việt Nam
    • Hiến pháp nước ngoài
    • Giám sát Hiến pháp
  • Hình sự
    • Luật Hình sự – Phần chung
    • Luật Hình sự – Phần các tội phạm
    • Luật Hình sự quốc tế
    • Luật Tố tụng hình sự
    • Thi hành án hình sự
    • Tội phạm học
    • Chứng minh trong tố tụng hình sự
  • Hôn nhân gia đình
    • Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam
    • Luật Hôn nhân gia đình chuyên sâu
  • Lao động
  • Luật Thuế
  • Môi trường
  • Ngân hàng
  • Quốc tế
    • Chuyển giao công nghệ quốc tế
    • Công pháp quốc tế
    • Luật Đầu tư quốc tế
    • Luật Hình sự quốc tế
    • Thương mại quốc tế
    • Tư pháp quốc tế
    • Tranh chấp Biển Đông
  • Tài chính
    • Ngân sách nhà nước
  • Thương mại
    • Luật Thương mại Việt Nam
    • Thương mại quốc tế
    • Pháp luật Kinh doanh Bất động sản
    • Pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm
    • Nhượng quyền thương mại
  • Sở hữu trí tuệ
  • Kiến thức chung
    • Đường lối Cách mạng ĐCSVN
    • Học thuyết kinh tế
    • Kỹ năng nghiên cứu và lập luận
    • Lý luận chung Nhà nước – Pháp luật
    • Lịch sử Nhà nước – Pháp luật
    • Lịch sử văn minh thế giới
    • Logic học
    • Pháp luật đại cương
    • Tư tưởng Hồ Chí Minh
    • Triết học

Quảng cáo:

Copyright © 2023 · Luật sư Online · Giới thiệu ..★.. Liên hệ ..★.. Tuyển CTV ..★.. Quy định sử dụng