Mục lục
Bình luận án lệ số 12/2017/AL về xác định trường hợp đương sự được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất sau khi Tòa án đã hoãn phiên tòa
TÓM TẮT
Án lệ số 12/2017/AL được ban hành để xác định trường hợp đương sự được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất sau khi Tòa án đã hoãn phiên tòa. Bài viết sẽ bình luận án lệ nêu trên và từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm áp dụng thống nhất trong thực tiễn xét xử.
Xem thêm:
- Bình luận án lệ 13/2017: Giá trị pháp lý của UCP và tính độc lập của L/C – PGS.TS. Đỗ Văn Đại
- Bình luận án lệ số 09/2016/AL – Lãi chậm trả trong quan hệ thương mại – PGS.TS. Đỗ Văn Đại
- Về sự ưng thuận của chủ thể trong giao dịch dân sự – PGS.TS. Đỗ Văn Đại & ThS. Ngô Thị Vân Anh
- Thời hiệu yêu cầu chia di sản đối với thừa kế mở trước khi Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực – PGS.TS. Đỗ Văn Đại
- Đứng tên giùm người nước ngoài mua bất động sản – PGS.TS. Đỗ Văn Đại
TỪ KHÓA: Án lệ số 12/2017/AL, hoãn phiên tòa, triệu tập hợp lệ, phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm,
Tiếp tục thực hiện chủ trương phát triển án lệ trong Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao đã ban hành Quyết định 299/QĐ-CA ngày 28/12/2017, theo đó công bố thêm 06 án lệ mới. Trong đó, Án lệ số 12/2017/AL (Án lệ 12) đã đưa ra đường lối giải quyết trong việc xác định trường hợp đương sự được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất sau khi tòa án đã hoãn phiên tòa.
Để có thể vận dụng Án lệ 12 hiệu quả nhất trong thực tiễn xét xử, một số vấn đề cần được làm rõ như: (i) Một, việc hoãn phiên tòa phúc thẩm với lý do để đương sự cung cấp thêm chứng cứ theo Án lệ 12 có mâu thuẫn với quy định về hoãn và tạm ngừng phiên tòa trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS 2015) hay không? (ii) Hai, việc xác định trường hợp đương sự được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất sau khi Tòa án đã hoãn phiên tòa được áp dụng cho cả phiên tòa sơ thẩm hay chỉ áp dụng cho phiên tòa phúc thẩm?
Trong nội dung bài viết, tác giả sẽ phân tích các vấn đề pháp lý có liên quan xoay quanh Án lệ 12, bao gồm: (1) Hoãn phiên tòa phúc thẩm để đương sự cung cấp thêm chứng cứ; (2) Xác định lần triệu tập hợp lệ đối với đương sự tại phiên tòa phúc thẩm; (3) Áp dụng Án lệ 12 cho các trường hợp tương tự.
1. Hoãn phiên tòa phúc thẩm để đương sự cung cấp thêm chứng cứ
1.1. Quy định của pháp luật hiện hành
Các trường hợp hoãn phiên tòa phúc thẩm được liệt kê tại Điều 296 BLTTDS năm 2015 bao gồm: (i) Kiểm sát viên vắng mặt tại phiên tòa trong trường hợp Viện kiểm sát có kháng nghị phúc thẩm; (ii) Người kháng cáo, người không kháng cáo nhưng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà vắng mặt, trừ trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; (iii) Người kháng cáo được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt vì trở ngại khách quan, sự kiện bất khả kháng.
Ngoại trừ hai căn cứ nêu trên, BLTTDS năm 2015 còn ghi nhận Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể hoãn phiên tòa trong những trường hợp khác. Cụ thể, khoản 2 Điều 56, khoản 2 Điều 62, khoản 2 Điều 84 BLTTDS năm 2015 quy định khi thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa. Đây là những quy định áp dụng chung cho cả phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm nên Hội đồng xét xử phúc thẩm hoàn toàn có thể áp dụng để hoãn phiên tòa. Đồng thời, Điều 297 BLTTDS năm 2015 về thủ tục chuẩn bị khai mạc và bắt đầu phiên tòa phúc thẩm đã dẫn chiếu ngược trở lại Điều 241 BLTTDS năm 2015. Theo đó, khi có người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa mà không thuộc trường hợp Tòa án phải hoãn phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa phải hỏi xem có ai đề nghị hoãn phiên tòa hay không; nếu có người đề nghị thì Hội đồng xét xử xem xét, quyết định và có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận; trường hợp không chấp nhận thì phải nêu rõ lý do. Như vậy, Hội đồng xét xử còn có thể hoãn phiên tòa phúc thẩm trong trường hợp chấp nhận đề nghị hoãn của đương sự theo quy định vừa nêu.
Ngoài những trường hợp này, BLTTDS năm 2015 không còn ghi nhận căn cứ hoãn phiên tòa phúc thẩm nào khác. Tuy nhiên, cũng không có quy định nào nói rõ Hội đồng xét xử chỉ được hoãn phiên tòa phúc thẩm với những căn cứ được liệt kê. Nói cách khác, với quy định hiện hành, chưa thể khẳng định Hội đồng xét xử có được quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm với lý do để đương sự cung cấp thêm chứng cứ nói riêng và các căn cứ khác nói chung hay không.
1.2. Thực tiễn xét xử
Thực tiễn xét xử ghi nhận các Tòa án vẫn ra quyết định hoãn phiên tòa với những lý do không được liệt kê trong các quy định pháp luật như: hoãn phiên tòa để đương sự mời luật sư [1], hoãn theo yêu cầu của đương sự[2], hoãn phiên tòa để làm rõ một số tình tiết của vụ án[3]… Như vậy, các Tòa án đa số đều theo quan điểm có thể hoãn phiên tòa với những căn cứ khác không được đề cập trong quy định của pháp luật nếu xét thấy cần thiết.
1.3. Ghi nhận trong Án lệ 12
Trong phần “Nội dung Án lệ” có ghi nhận “Theo Biên bản phiên tòa phúc thẩm ngày 26-11-2013 thì tại phiên tòa các đương sự có mặt đầy đủ theo giấy triệu tập của Tòa án. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên tòa để các đ??ng s? cung c?p?th?m ch?ng c??? ương sự cung cấp thêm chứng cứ…” Theo đó, việc các đương sự cung cấp thêm chứng cứ là một lý do để Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa phúc thẩm.
Tuy nhiên, nội dung nêu trên mặc dù nằm trong phần “Nội dung án lệ” nhưng không được đề cập trong phần “Khái quát nội dung án lệ”. Theo đó, phần “Khái quát nội dung án lệ” chỉ ghi nhận “Tòa án đã quyết định hoãn phiên tòa và lý do hoãn phiên tòa không phải do lỗi của đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự…”, không đề cập căn cứ hoãn cụ thể là gì.
Như vậy, lý do hoãn phiên tòa phúc thẩm để các đương sự cung cấp thêm chứng cứ được ghi nhận trong phần “Nội dung án lệ” nhưng không được đề cập trong phần “Khái quát nội dung án lệ”. Câu hỏi đặt ra, nội dung nêu trên có được coi là án lệ với giá trị ràng buộc trong nghiên cứu, áp dụng trên thực tế hay không? Phần tiếp theo sẽ phân tích để làm rõ vấn đề này.
1.4. Quan điểm trái chiều
Với vấn đề đặt ra, thực tế hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất trong việc xác định yếu tố bắt buộc của Án lệ nằm ở phần nào. Theo đó, quan điểm thứ nhất cho rằng việc viện dẫn, áp dụng án lệ trong xét xử sẽ dựa vào phần khái quát nội dung của án lệ. Cơ sở của quan điểm này là Công văn số 146/TANDTC-PC của Tòa án nhân dân tối cao ngày 11/7/2017 về việc viện dẫn, áp dụng án lệ trong xét xử. Cụ thể, khi xét xử, giải quyết những vụ việc đã có án lệ thì Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu án lệ đó để quyết định việc viện dẫn, áp dụng hoặc không áp dụng. Trường hợp áp dụng án lệ thì số án lệ, số bản án, quyết định của Toà án có chứa đựng án lệ, tính chất, tình tiết vụ việc tương tự được nêu trong án lệ và tính chất, tình tiết vụ việc đang được giải quyết, vấn đề pháp lý trong án lệ (nội dung khái quát của án lệ) phải được viện dẫn, phân tích trong phần “Nhận định của Tòa án”; tùy từng trường hợp cụ thể có thể trích dẫn nguyên văn những nội dung hạt nhân của án lệ để làm rõ quan điểm của Tòa án trong việc xét xử, giải quyết các vụ việc tương tự. Ví dụ: Theo Án lệ số 07/2016/AL về công nhận hợp đồng mua bán nhà được xác lập trước ngày 01/7/1991 được lựa chọn từ Quyết định giám đốc thẩm số 126/2013/DS-GĐT ngày 23/9/2013 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thì: “Hợp đồng mua bán nhà được lập thành văn bản trước ngày 01/7/1991, có chữ ký của bên bán, ghi rõ bên bán đã nhận đủ tiền, bên mua tuy chưa ký tên trên hợp đồng nhưng là người giữ hợp đồng và đã quản lý, sử dụng nhà ở ổn định trong thời gian dài mà bên bán không có tranh chấp đòi tiền mua nhà. Trường hợp này, hợp đồng có giá trị xác định bên mua đã trả đủ tiền cho bên bán và ý chí của bên mua đồng ý với hợp đồng mua bán nhà đó, hợp đồng mua bán nhà được công nhận…”. Như vậy, Tòa án nhân dân tối cao đã theo hướng áp dụng phần “Khái quát nội dung án lệ” để xác định các tình tiết tương tự trong vụ án.
Ngược lại, có quan điểm khác cho rằng, phần khái quát nội dung của án lệ không phải là “lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án” mà chỉ là nội dung do bộ phận giúp việc của Tòa án nhân dân tối cao xây dựng nên không thể là án lệ. Phần khái quát nội dung án lệ chỉ được đưa vào nhằm giúp người quan tâm dễ hiểu án lệ để áp dụng vào những hoàn cảnh tương tự. Do đó, nội dung trên chỉ mang tính tham khảo, không có giá trị bắt buộc và những vấn đề được đưa vào phần “Nội dung án lệ” mới có tính ràng buộc.[4]
1.5. Xác định dựa vào khái niệm án lệ
Quay trở lại với khái niệm về án lệ, Điều 1 Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28/10/2015 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ (Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP) quy định “Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”.Với định nghĩa này, khái niệm án lệ chưa đủ rõ về mặt nội dung. Do đó, Điều 2 Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP đã tiếp tục cụ thể hóa nội dung của án lệ, theo đó án lệ là “những lập luận làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau; phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng”.[5] Với những quy định này, về cơ bản muốn được coi là án lệ thì đó phải là những “lập luận” của Tòa án nhằm những mục đích nhất định.
Nếu xét tổng quan Án lệ 12, lý do hoãn phiên tòa phúc thẩm để các đương sự cung cấp thêm chứng cứ nêu trên không thật sự là “lập luận” của Hội đồng thẩm phán mà chỉ là nội dung vụ án được viện dẫn lại làm cơ sở cho những nhận định đối với việc đương sự đã được triệu tập hợp lệ bao nhiêu lần. Tuy nhiên, nếu xét ở góc độ khác, cả phần “Khái quát nội dung của án lệ” và “Nội dung án lệ” đều khẳng định được coi là lần triệu tập hợp lệ thứ nhất đối với đương sự nếu việc hoãn phiên tòa trong lần triệu tập trước không phải do lỗi của đương sự. Do đó, cũng có thể nhìn nhận nội dung nêu trên là phần “lập luận” của Tòa án nhằm mục đích chứng minh việc hoãn phiên tòa không xuất phát từ phía đương sự.
1.6. Bất cập nếu coi là án lệ đối với căn cứ hoãn phiên tòa phúc thẩm để đương sự cung cấp thêm chứng cứ
Những phân tích nêu trên cho thấy, căn cứ hoãn phiên tòa phúc thẩm để các đương sự cung cấp thêm chứng cứ có phải là án lệ hay không vẫn chưa thật sự rõ ràng. Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân, việc ghi nhận trường hợp này trở thành án lệ là không hợp lý dưới góc độ quy định của BLTTDS 2015. Bởi lẽ:
Thứ nhất, lý do để đương sự cung cấp thêm chứng cứ là căn cứ tạm ngừng phiên tòa theo BLTTDS năm 2015. Cụ thể, bên cạnh các căn cứ hoãn phiên tòa, BLTTDS 2015 đã bổ sung các căn cứ tạm ngừng phiên tòa, qua đó đã có sự phân biệt rõ ràng căn cứ tạm ngừng phiên tòa và căn cứ hoãn phiên tòa để bảo đảm sự áp dụng thống nhất trong thực tiễn xét xử.[6] Các căn cứ tạm ngừng phiên tòa được áp dụng cho cả phiên tòa sơ thẩm (Điều 259 BLTTDS năm 2015)[7] và phiên tòa phúc thẩm (Điều 304 BLTTDS năm 2015).[8] Trong đó, một trong các căn cứ tạm ngừng phiên tòa được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 259 BLTTDS năm 2015 là “Cần phải xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mà nếu không thực hiện thì không thể giải quyết được vụ án và không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa”. Như vậy, với lý do để đương sự cung cấp thêm chứng cứ, Hội đồng xét xử có thể áp dụng căn cứ nêu trên của BLTTDS năm 2015 để tạm ngừng phiên tòa phúc thẩm. Vì thế, việc thừa nhận nội dung Hội đồng xét xử được quyền hoãn phiên tòa phúc thẩm với lý do để đương sự cung cấp thêm chứng cứ là án lệ sẽ mâu thuẫn với quy định về tạm ngừng phiên tòa khi cùng một trường hợp vừa là căn cứ hoãn phiên tòa vừa là căn cứ tạm ngừng phiên tòa.
Thứ hai, thời điểm phát sinh căn cứ là sau khi phiên tòa đã bắt đầu. Về cơ bản, hoãn và tạm ngừng phiên tòa đều dẫn đến hệ quả pháp lý là phiên tòa không thể diễn ra theo đúng dự tính ban đầu của Tòa án. Tuy nhiên, hoãn phiên tòa và tạm ngừng phiên tòa là hai khả năng khác nhau có thể xảy ra tại phiên tòa. Sự khác biệt này ngoại trừ thể hiện ở căn cứ hoãn và tạm ngừng, còn được thể hiện qua thời điểm áp dụng. Hoãn phiên toà là việc chuyển thời điểm tiến hành phiên toà dân sự đã định sang thời điểm khác muộn hơn, nên về nguyên tắc chỉ khi phiên toà được mở Tòa án mới xác định chính xác có căn cứ hoãn hay không. Mặt khác, chức năng và mục đích của phiên tòa sơ thẩm dân sự là giải quyết toàn bộ nội dung vụ án nên khi hoãn phiên tòa nội dung vụ án chưa được xem xét, tức là thời điểm hoãn phiên tòa chỉ xảy ra ở phần thủ tục bắt đầu phiên tòa.[9] Ngược lại, tạm ngừng phiên tòa được hiểu là phiên tòa không thể tiếp tục vì có những sự kiện phát sinh, cho nên, thời điểm tạm ngừng phiên tòa xảy ra sau khi Tòa án đã đi vào xét xử vụ án. Ở đây, việc xác định vụ án chưa đủ chứng cứ để ra phán quyết chỉ phát sinh khi Tòa án đã bắt đầu xét xử. Do đó, trường hợp này chỉ có thể là lý do để tạm ngừng phiên tòa chứ không thể là căn cứ để hoãn phiên tòa được.[10]
Thứ ba, cách thức giải quyết của Tòa án chỉ phù hợp vào thời điểm xảy ra sự việc. Theo Án lệ 12, phiên tòa phúc thẩm được diễn ra vào ngày 26/11/2013, cho nên, tại thời điểm này, Hội đồng xét xử sẽ giải quyết vụ án theo BLTTDS sửa đổi, bổ sung 2011. Mặt khác, như đã đề cập ở trên, BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 không tách bạch rõ ràng giữa việc hoãn và tạm ngừng phiên tòa, không tồn tại quy định về căn cứ tạm ngừng phiên tòa, thời hạn tạm ngừng phiên tòa tối đa cũng chỉ không quá năm ngày làm việc (khoản 2 Điều 197 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011).[11] Đồng thời, tương tự như BLTTDS năm 2015, BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 cũng không quy định rõ ràng việc có giới hạn hay không các trường hợp được hoãn phiên tòa. Do đó, việc Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định hoãn phiên tòa với lý do để đương sự cung cấp thêm chứng cứ là phù hợp với các quy định pháp luậttại thời điểm giải quyết vụ án. Tuy nhiên, hiện nay BLTTDS năm 2015 đã tách bạch giữa hoãn phiên tòa và tạm ngừng phiên tòa, quy định rõ ràng về căn cứ tạm ngừng phiên tòa. Chính vì thế, việc tiếp tục thừa nhận lý do hoãn phiên tòa như trên là không hợp lý vào thời điểm hiện tại.
Tóm lại, việc thừa nhận nội dung Tòa án hoãn phiên tòa phúc thẩm với lý do để đương sự cung cấp thêm chứng cứ là án lệ không phù hợp với quy định của BLTTDS năm 2015 về hoãn và tạm ngừng phiên tòa.
1.7. Kinh nghiệm nước ngoài
Nghiên cứu so sánh cho thấy, pháp luật tố tụng của các quốc gia trên thế giới mặc dù có cách thức điều chỉnh khác nhau đối với việc hoãn phiên tòa nhưng lý do liên quan đến việc thiếu chứng cứ là một trong những căn cứ thường xuyên được Tòa án áp dụng để tạm hoãn phiên tòa. Chẳng hạn, BLTTDS Nga quy định một trong những căn cứ để việc tạm hoãn phiên tòa được chấp nhận là do sự cần thiết phải xuất trình hoặt cung cấp thêm chứng cứ bổ sung (khoản 1 Điều 169). BLTTDS Trung Quốc cũng ghi nhận trường hợp cần triệu tập các nhân chứng mới ra tòa, thu thập bằng chứng mới, tiến hành đánh giá chuyên gia mới, tổ chức kiểm tra bổ sung, hoặc điều tra bổ sung là căn cứ để Tòa án hoãn phiên tòa (khoản 3 Điều 132).
Tuy nhiên, điểm khác biệt với pháp luật Việt Nam là pháp luật các quốc gia khác trên thế giới không phân biệt việc hoãn phiên tòa và tạm ngừng phiên tòa, mà chỉ quy định chung về tạm hoãn phiên tòa hoặc tạm dừng xét xử. Do đó, với quy định của BLTTDS 2015 hiện hành, việc xếp lý do cung cấp thêm chứng cứ là trường hợp tạm ngừng phiên tòa như phân tích ở trên là hợp lý. Nói cách khác, không nên thừa nhận trường hợp này Án lệ.
2. Xác định lần triệu tập hợp lệ đối với đương sự tại phiên tòa phúc thẩm
2.1. Quy định của pháp luật hiện hành
Theo BLTTDS năm 2015, việc xác định lần triệu tập hợp lệ thứ mấy đối với đương sự tại phiên tòa phúc thẩm sẽ ảnh hưởng rất lớn tới cách thức xử lý của Tòa án trong trường hợp đương sự vắng mặt. Cụ thể, Điều 296 BLTTDS năm 2015 quy định:
Trong lần triệu tập hợp lệ thứ nhất, nếu người kháng cáo, người không kháng cáo nhưng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa. Trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt thì Tòa án tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt họ.
Trong lần triệu tập hợp lệ thứ hai: (i) Nếu người kháng cáo vắng mặt thì bị coi như từ bỏ việc kháng cáo và Tòa án đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của người đó, trừ trường hợp người đó đề nghị xét xử vắng mặt thì Tòa án tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt họ. Trường hợp có nhiều người kháng cáo, trong đó có người kháng cáo được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt nhưng không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt thì coi như người đó từ bỏ việc kháng cáo và Tòa án đưa vụ án ra xét xử. Trong phần quyết định của bản án, Tòa án đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo của người kháng cáo vắng mặt đó; (ii) Nếu người kháng cáo vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì phải hoãn phiên tòa; (iii) Nếu người không kháng cáo nhưng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị và những người tham gia tố tụng khác đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án.
Tuy nhiên, BLTTDS năm 2015 chưa có quy định giải thích như thế nào là triệu tập hợp lệ lần thứ nhất và triệu tập hợp lệ lần thứ hai đối với phía đương sự (bao gồm người kháng cáo, người không kháng cáo người không kháng cáo nhưng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ). Điều này đã dẫn đến những cách thức hiểu và giải quyết khác nhau trong thực tiễn xét xử. Cụ thể:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, được coi là triệu tập lần thứ hai đối với đương sự nếu như lần triệu tập trước là hợp lệ. Nói cách khác, chỉ cần lần triệu tập thứ nhất là hợp lệ, không quan tâm Tòa án phúc thẩm hoãn phiên tòa có phải do lỗi từ phía đương sự hay không, lần triệu tập hợp lệ tiếp theo sẽ là triệu tập hợp lệ lần thứ hai đối với đương sự. Đây là hướng xử lý của Tòa án cấp phúc thẩm trong vụ án được nêu ở Án lệ 12.
Quan điểm thứ hai cho rằng, chỉ được coi là triệu tập hợp lệ lần thứ hai đối với đương sự nếu như việc hoãn phiên tòa trong lần triệu tập hợp lệ trước là do lỗi từ đương sự. Ngược lại, nếu việc hoãn phiên tòa do những lý do khác không xuất phát từ đương sự thì lần triệu tập tiếp theo vẫn là triệu tập hợp lệ lần thứ nhất. Đây là hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong vụ việc nêu trên.
2.2. Ghi nhận trong Án lệ 12
Đối với vấn đề nêu trên, phần Nội dung án lệ ghi nhận: “Trường hợp Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên tòa và việc hoãn phiên tòa là do Tòa án, tại phiên tòa được mở lại đương sự hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì được coi là vắng mặt lần thứ nhất. Lẽ ra, Tòa án cấp phúc thẩm phải xác định là bị đơn và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất vắng mặt tại phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 199, khoản 2 Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự để hoãn phiên tòa…”.
Mặt khác, phần Khái quát nội dung án lệ cũng ghi nhận: “Tòa án đã quyết định hoãn phiên tòa và lý do hoãn phiên tòa không phải do lỗi của đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Phiên tòa được mở lại nhưng có đương sự hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được triệu tập hợp lệ vắng mặt. Giải pháp pháp lý là Tòa án phải xác định đây là trường hợp đương sự hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất vắng mặt tại phiên tòa”.
Như vậy, cả phần nội dung án lệ và khái quát nội dung án lệ đều thừa nhận chỉ được coi là lần triệu tập hợp lệ thứ hai đối với đương sự nếu như việc hoãn phiên tòa trong lần triệu tập hợp lệ trước đó xuất phát từ lỗi của đương sự. Nói cách khác, xác định lần triệu tập hợp lệ lần thứ hai đối với đương sự không chỉ dựa vào việc trước đó Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa bao nhiêu lần mà còn phụ thuộc vào lý do hoãn phiên tòa xuất phát từ phía đương sự hay Tòa án.
2.3. Quan điểm cá nhân
Theo quan điểm cá nhân, hướng giải quyết như Án lệ 12 ghi nhận là thuyết phục. Bởi lẽ, theo quy định pháp luật, đương sự được quyền có mặt ở phiên tòa xét xử (khoản 15 Điều 70 BLTTDS năm 2015). Đồng thời, sự có mặt của đương sự tại phiên tòa là cần thiết để bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp cho chính họ cũng như giúp Tòa án giải quyết nhanh chóng, chính xác vụ án.[12] Do đó, Tòa án luôn phải tạo điều kiện cho đương sự có mặt tại phiên tòa và quy định hoãn phiên tòa khi đương sự vắng mặt trong lần triệu tập hợp lệ thứ nhất nhằm hướng tới mục đích này.
So sánh với các quy định về sự có mặt của đương sự trong Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn qua các thời kỳ, việc hoãn phiên tòa nói chung do sự vắng mặt của đương sự đã có sự thay đổi. Cụ thể, BLTTDS năm 2004 quy định việc hoãn phiên tòa dựa trên số lần vắng mặt của đương sự.[13] Nói cách khác, mỗi đương sự được quyền vắng mặt một lần tại phiên tòa và nếu đương sự vắng mặt lần thứ nhất (dù có hay không có lý do chính đáng) thì Tòa án cũng phải hoãn phiên tòa. Tuy nhiên, quy định này dẫn đến thực trạng là có trường hợp các đương sự thay nhau lần lượt vắng mặt tại phiên tòa nhằm mục đích gây khó khăn và kéo dài thời gian giải quyết vụ án[14]. Do đó, BLTTDS sửa đổi bổ sung năm 2011 đã bãi bỏ những quy định của BLTTDS năm 2004 và quy định theo hướng “triệu tập hợp lệ lần thứ nhất” và “triệu tập hợp lệ lần thứ hai”. Đồng thời, lần triệu tập ở đây được hiểu là áp dụng cho tất cả các đương sự chứ không phải tính đối với từng đương sự (Điều 199, Điều 266 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011). Quy định này tiếp tục được BLTTDS năm 2015 kế thừa trọn vẹn trong việc điều chỉnh các trường hợp hoãn phiên tòa do đương sự vắng mặt (Điều 227, Điều 296 BLTTDS năm 2015).
Như vậy, mặc dù pháp luật có sự thay đổi về quy định nhưng về nguyên tắc, các đương sự có quyền vắng mặt một lần khi Tòa án triệu tập hợp lệ. Điều này giúp bảo đảm cho quyền có mặt của đương sự tại phiên tòa để có thể trực tiếp trình bày, tranh luận, phản biện nhằm bảo vệ cho quyền và lợi ích chính đáng của mình. Do đó, trong trường hợp Tòa án hoãn phiên tòa không phải xuất phát từ việc đương sự vắng mặt, không thể xem lần triệu tập hợp lệ tiếp theo là lần triệu tập hợp lệ thứ hai vì đương sự chưa thực hiện quyền năng này. Vì thế, hướng giải quyết mà Án lệ 12 đưa ra là hoàn toàn hợp lý và cần được áp dụng rộng rãi.
2.4. Kinh nghiệm nước ngoài
Nghiên cứu so sánh cho thấy, pháp luật các nước quy định tương đối khác biệt so với nước ta. Chẳng hạn, Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp không phân biệt việc các đương sự vắng mặt khi được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất hay lần thứ hai mà chỉ phân biệt rằng các đương sự vắng mặt có lý do chính đáng hay không có lý do chính đáng. Nếu như vắng mặt có lý do chính đáng thì hoãn phiên tòa, không có lý do chính đáng thì có thể xét xử vắng mặt (Điều 468, Điều 471 Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp). Bộ luật Tố tụng dân sự Nga cũng có quy định tương tự như Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp khi điều chỉnh việc vắng mặt của các bên bằng việc có hay không có lý do chính đáng (Điều 167 Bộ luật Tố tụng dân sự Nga). Tuy nhiên, về cơ bản pháp luật tố tụng dân sự của các nước vẫn hướng đến việc bảo đảm cho sự có mặt của các đương sự tại phiên tòa. Đồng thời, sự khác biệt giữa pháp luật Việt Nam và các nước xuất phát từ hậu quả của việc vắng mặt của bên yêu cầu giữa pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam và pháp luật tố tụng dân sự các nước. Pháp luật Việt Nam quy định nếu như bên yêu cầu vắng mặt mà không có lý do chính đáng thì sẽ bị đình chỉ giải quyết yêu cầu, trong khi đó pháp luật các nước quy định hậu quả đó là xét xử vắng mặt. Chính vì thế, việc cho các đương sự thêm cơ hội để có mặt tại phiên tòa như BLTTDS năm 2015 và hướng xử lý của Án lệ 12 là hoàn toàn hợp lý.
Theo khoản 2 Điều 8 Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP về nguyên tắc áp dụng án lệ trong xét xử, “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc tương tự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau phải được giải quyết như nhau. Trường hợp áp dụng án lệ thì số bản án, quyết định của Tòa án có chứa đựng án lệ, tính chất, tình tiết vụ việc tương tự được nêu trong án lệ và tính chất, tình tiết vụ việc đang được giải quyết, vấn đề pháp lý trong án lệ phải được viện dẫn, phân tích, làm rõ trong bản án, quyết định của Tòa án; trường hợp không áp dụng án lệ thì phải phân tích, lập luận, nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Toà án”. Với quy định này, để áp dụng án lệ cần đáp ứng điều kiện là vụ việc đang giải quyết phải có tình tiết, sự kiện pháp lý tương tự với tình tiết, sự kiện pháp lý trong án lệ. Tuy nhiên, như thế nào là tình tiết, sự kiện pháp lý tương tự và phải đối chiếu với phần nào của Án lệ để thấy được sự tương tự chưa được quy định một cách rõ ràng.
Mặt khác, Án lệ 12 được xây dựng trên những tình tiết diễn ra tại phiên tòa phúc thẩm, cụ thể là việc bị đơn (người kháng cáo) và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm khi được Tòa án triệu tập hợp lệ sau khi đã hoãn phiên tòa với lý do để đương sự cung cấp thêm chứng cứ. Từ đó, có hai vấn đề đặt ra là:
(i) Một, Án lệ 12 có được áp dụng để xác định lần triệu tập hợp lệ đối với đương sự trong trường hợp Tòa án hoãn phiên tòa sơ thẩm hay không?
(ii) Hai, ngoài lý do để đương sự cung cấp thêm chứng cứ, nếu Tòa án hoãn phiên tòa phúc thẩm trong những trường hợp khác, Án lệ 12 có được áp dụng hay không?
3. Áp dụng Án lệ 12 cho các trường hợp tương tự
3.1. Áp dụng Án lệ 12 cho phiên tòa sơ thẩm?
Phần “Khái quát nội dung án lệ” ghi nhận Tòa án đã quyết định hoãn phiên tòa và lý do hoãn phiên tòa không phải do lỗi của đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Phiên tòa được mở lại nhưng có đương sự hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được triệu tập hợp lệ vắng mặt. Giải pháp pháp lý là Tòa án phải xác định đây là trường hợp đương sự hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất vắng mặt tại phiên tòa. Như vậy, phần “Khái quát nội dung của án lệ” không nêu rõ là tình huống sẽ phát sinh tại phiên tòa sơ thẩm hay phiên tòa phúc thẩm mà chỉ giải quyết trường hợp đương sự vắng mặt nhưng việc hoãn phiên tòa lần trước không phải do lỗi của đương sự. Vì thế, trong trường hợp này hoàn toàn có thể áp dụng Án lệ 12 để điều chỉnh các tình huống pháp lý tương tự phát sinh tại phiên tòa sơ thẩm.
Tuy nhiên, phần “Nội dung án lệ” lại ghi nhận tình huống, sự kiện pháp lý trong án lệ phát sinh tại phiên tòa phúc thẩm, thể hiện thông qua nội dung “…Lẽ ra, Tòa án cấp phúc thẩm phải xác định là bị đơn và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất vắng mặt tại phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 199, khoản 2 Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự để hoãn phiên tòa. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai vắng mặt tại phiên tòa, từ đó đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị đơn là không đúng quy định tại Điều 199, 202, 266 Bộ luật Tố tụng dân sự, làm mất quyền kháng cáo, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn”. Do đó, nếu dựa vào phần “Nội dung án lệ” để xem xét tình huống, sự kiện pháp lý tương tự thì những trường hợp phát sinh tại phiên tòa sơ thẩm sẽ không được áp dụng vì tình tiết không giống nhau.
Bên cạnh đó, việc đương sự vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm có hậu quả pháp lý khác nhau. Cụ thể, nếu nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm khi được triệu tập hợp lệ lần thứ hai không có lý do chính đáng hoặc đơn xét xử vắng mặt, Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết yêu cầu của nguyên đơn. Lúc này, nguyên đơn được quyền khởi kiện lại nếu vẫn muốn Tòa án giải quyết tranh chấp (Điều 227, Điều 218 BLTTDS năm 2015). Trong khi đó, nếu Tòa án triệu tập lần thứ hai mà người kháng cáo vắng mặt không có lý do chính đáng và không có đơn xét xử vắng mặt, Tòa án cấp phúc thẩm sẽ đình chỉ xét xử phúc thẩm yêu cầu kháng cáo của người đó. Bản án sơ thẩm trong trường hợp này sẽ có hiệu lực pháp luật nếu như không còn kháng cáo, kháng nghị nào khác và tranh chấp coi như đã được Tòa án giải quyết, các đương sự không được khởi kiện lại (Điều 296, Điều 192 BLTTDS năm 2015). Như vậy, mặc dù đều là phiên tòa xét xử tranh chấp nhưng xét dưới góc độ hệ quả, tình huống phát sinh tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm không hoàn toàn giống nhau.
Mặc dù vậy, quan điểm cá nhân cho rằng nên áp dụng Án lệ 12 cho phiên tòa sơ thẩm vì các lý do:
Một là, quy định về sự có mặt của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm được quy định tương tự như tại phiên tòa phúc thẩm. Cụ thể, BLTTDS 2015 tại Điều 227 cũng sử dụng thuật ngữ triệu tập hợp lệ lần thứ nhất và triệu tập hợp lệ lần thứ hai đối với đương sự. Tuy nhiên, cũng giống như tại phiên tòa phúc thẩm, các quy định về phiên tòa sơ thẩm chưa giải thích rõ khi nào là lần triệu tập hợp lệ thứ nhất và khi nào là lần triệu tập hợp lệ thứ hai đối với đương sự. Mặt khác, lần triệu tập của Tòa án ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích của đương sự, đặc biệt là trong trường hợp đương sự vắng mặt.[15] Đồng thời, việc hoãn phiên tòa sơ thẩm ngoài lý do vì đương sự vắng mặt, còn có thể xuất phát từ các căn cứ khác như thay đổi người tiến hành tố tụng, vắng mặt người làm chứng, người giám định…(khoản 1 Điều 233 BLTTDS 2015). Do đó, việc áp dụng Án lệ 12 cho các tình huống tương tự xảy ra tại phiên tòa sơ thẩm sẽ giúp thống nhất đường lối xử lý của Tòa án trong thực tiễn xét xử.
Hai là, như đã đề cập ở trên, việc quy định Tòa án phải hoãn phiên tòa trong lần triệu tập hợp lệ thứ nhất nếu có đương sự vắng mặt là để đảm bảo quyền có mặt của đương sự tại phiên tòa. Quyền năng này của đương sự được bảo đảm trong cả phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm. Do đó, việc áp dụng tương tự cách thức xác định lần triệu tập hợp lệ thứ nhất đối với đương sự như nội dung của án lệ đối với trường hợp phát sinh tại phiên tòa sơ thẩm là hợp lý, giúp bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Ba là, pháp luật tố tụng dân sự của các nước phát triển trên thế giới như Pháp (Điều 468 BLTTDS Pháp), Nga (Điều 167 BLTTDS Nga) đều không có sự phân biệt trong việc điều chỉnh sự có mặt của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm vì bản chất của hai phiên tòa nhìn chung là giống nhau. Đây là kinh nghiệm mà chúng ta nên học tập để hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam và bảo vệ tốt hơn cho quyền và nghĩa vụ của đương sự.
3.2. Áp dụng Án lệ 12 đối với căn cứ hoãn phiên tòa nào?
Phần “Khái quát nội dung án lệ” ghi nhận Tòa án đã quyết định hoãn phiên tòa và lý do hoãn phiên tòa không phải do lỗi của đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Phiên tòa được mở lại nhưng có đương sự hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được triệu tập hợp lệ vắng mặt. Giải pháp pháp lý là Tòa án phải xác định đây là trường hợp đương sự hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất vắng mặt tại phiên tòa. Như vậy, nội dung nêu trên mang tính khái quát, không đề cập cụ thể căn cứ hoãn phiên tòa là gì. Do đó, hoàn toàn có thể áp dụng Án lệ 12 cho trường hợp Tòa án hoãn phiên tòa với những căn cứ khác ngoài lý do để đương sự cung cấp thêm chứng cứ.
Mặt khác, phần “Nội dung án lệ” trong đoạn đầu ghi nhận cụ thể “Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên tòa để các đ??ng s? cung c?p?th?m ch?ng c??.ương sự cung cấp thêm chứng cứ”. Tuy nhiên, ở phần sau, “Nội dung án lệ” cũng ghi nhận “Trường hợp Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên tòa và việc hoãn phiên tòa là do Tòa án, tại phiên tòa được mở lại đương sự hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì được coi là vắng mặt lần thứ nhất”. Như vậy, phần “Nội dung án lệ” đã khái quát hóa việc hoãn phiên tòa ở đây thành trường hợp chung là do Tòa án, không phải do lỗi của đương sự. Nói cách khác, phần “Nội dung án lệ” cũng cho phép áp dụng Án lệ 12 tương tự cho các trường hợp Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa vì những căn cứ xuất phát từ Tòa án.
Như vậy, cả phần “Khái quát nội dung án lệ” và “Nội dung án lệ” đều ghi nhận khả năng áp dụng Án lệ 12 cho các trường hợp Tòa án hoãn phiên tòa vì các lý do khác bên cạnh căn cứ để đương sự cung cấp thêm chứng cứ. Tuy nhiên, cách thức ghi nhận của hai phần này là có khác nhau. Cụ thể, phần “Khái quát nội dung án lệ” ghi nhận căn cứ hoãn phiên tòa được áp dụng Án lệ 12 không phải do lỗi của đương sự, còn phần “Nội dung án lệ” lại ghi nhận việc hoãn phiên tòa là do Tòa án. Vấn đề đặt ra, căn cứ hoãn phiên tòa nào là do lỗi đương sự, căn cứ nào là do Tòa án và hai khái niệm này có đồng nhất với nhau hay không?
Đối chiếu với BLTTDS 2015, căn cứ hoãn phiên tòa (kể cả sơ thẩm và phúc thẩm) được quy định theo hướng liệt kê, bao gồm: (i) Thứ nhất, hoãn do đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác vắng mặt thuộc các trường hợp phải hoãn (Điều 233, Điều 227, Điều 228, Điều 229, Điều 230, Điều 231, Điều 296 BLTTDS 2015); (ii) Thứ hai, hoãn do thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch (Điều 56, Điều 62, Điều 84 BLTTDS năm 2015); (iii) Thứ ba, hoãn nếu Tòa án chấp nhận đề nghị của đương sự khi có người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa không thuộc trường hợp Tòa án phải hoãn phiên tòa (Điều 241, Điều 297 BLTTDS năm 2015); (iv) Thứ tư, hoãn do Kiểm sát viên vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm trong trường hợp Viện kiểm sát có kháng nghị (Điều 296 BLTTDS năm 2015).
Với các quy định nêu trên, việc hoãn phiên tòa nếu xét dưới góc độ do lỗi của đương sự chỉ có thể là trường hợp đương sự vắng mặt tại phiên tòa mà không có đại diện hợp pháp tham gia. Do đó, nếu Tòa án hoãn phiên tòa vì những căn cứ còn lại sẽ thuộc trường hợp áp dụng Án lệ 12 để xác định lần triệu tập hợp lệ. Ngược lại, nếu xét dưới góc độ hoãn do Tòa án, phạm vi áp dụng Án lệ 12 sẽ hẹp hơn rất nhiều. Bởi lẽ, trong các căn cứ được nêu, chỉ có thể xem là do Tòa án đối với trường hợp thay đổi người tiến hành tố tụng là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên (những người chịu sự chi phối, điều động của Tòa án). Các trường hợp còn lại như hoãn do vắng mặt người làm chứng, người giám định, người phiên dịch hoặc kiểm sát viên (đối với phiên tòa phúc thẩm) không thể xem là do Tòa án được.[16]
Như vậy, các trường hợp Tòa án hoãn phiên tòa không do lỗi của đương sự và hoãn phiên tòa do Tòa án là hoàn toàn khác nhau. Quan điểm cá nhân cho rằng, cần áp dụng Án lệ 12 đối với những trường hợp hoãn phiên tòa không phải do lỗi của đương sự. Bởi lẽ, như phân tích ở trên, mục đích của việc áp dụng Án lệ 12 là đảm bảo cho quyền có mặt của đương sự tại phiên tòa. Do đó, chỉ cần đương sự chưa thực hiện quyền năng này (hoãn phiên tòa không phải do sự vắng mặt của đương sự), lần triệu tập hợp lệ tiếp theo vẫn phải coi là lần triệu tập hợp lệ thứ nhất đối với đương sự.
Tuy nhiên, việc dùng thuật ngữ không phải do lỗi của đương sự như Án lệ 12 cũng có thể gây mâu thuẫn với BLTTDS năm 2015 trong trường hợp đương sự vắng mặt trong lần triệu tập hợp lệ thứ nhất do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan (có lý do chính đáng). [17] Cụ thể, theo quy định của BLTTDS năm 2015, nếu đương sự vắng mặt khi được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, Tòa án phải hoãn phiên tòa cho dù việc vắng mặt là có hay không có lý do chính đáng (khoản 1 Điều 227, khoản 2 Điều 296 BLTTDS năm 2015). Lần triệu tập tiếp theo sẽ là lần triệu tập hợp lệ thứ hai đối với những chủ thể này (khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 296 BLTTDS năm 2015). Trong khi đó, nếu áp dụng Án lệ 12, trường hợp đương sự vắng mặt có lý do chính đáng, việc hoãn phiên tòa lúc này là không phải do lỗi của đương sự, do đó lần triệu tập tiếp theo vẫn là lần triệu tập thứ nhất. Đây là vấn đề cần phải xem xét trong quá trình áp dụng Án lệ 12 vào thực tiễn xét xử.
Nhìn chung, Án lệ 12 được áp dụng sẽ mang lại cách giải quyết thống nhất trong một số trường hợp chưa được BLTTDS năm 2015 quy định rõ ràng. Tuy nhiên, việc sử dụng Án lệ 12 vào thực tiễn xét xử cần phải lưu ý một số vấn đề: (i) Một, không áp dụng lý do để đương sự cung cấp thêm chứng cứ để hoãn phiên tòa vì mâu thuẫn với quy định của BLTTDS năm 2015 về hoãn và tạm ngừng phiên tòa. (ii) Hai, cần áp dụng Án lệ 12 cho các trường hợp tương tự xảy ra tại phiên tòa sơ thẩm. (iii) Ba, cần thống nhất các căn cứ hoãn phiên tòa để áp dụng Án lệ 12 là không phải do lỗi của đương sự.
CHÚ THÍCH
[1] Quyết định giám đốc thẩm số 04/2011/DS-GĐT ngày 18/3/2011 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
[2] Quyết định giám đốc thẩm số 10/2011/KDTM-GĐT ngày 17/8/2011 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
[3] Quyết định giám đốc thẩm số 30/2010/DS-GĐT ngày 12/ 7/ 2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
[4] Đỗ Văn Đại, “Nhận diện giá trị của các nội dung trong quyết định tạo lập án lệ”, Trang thông tin điện tử về án lệ của Tòa án nhân dân tối cao, 2017, https://www.toaan.gov.vn/webcenter/portal/anlenew/chitietnghiencuu?dDocName=TAND014234, truy cập ngày 22/1/2018.
[5] Lê Mạnh Hùng, “Áp dụng án lệ trong giải quyết vụ việc dân sự tại tòa án nhân dân”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số 4(289), 2016, tr. 38 – 44.
[6] Nguyễn Thị Hoài Phương (chủ biên), Bình luận những điểm mới trong Bộ luật tố tụng dân sự, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, 2016, tr. 175.
[7] Khoản 1 Điều 259 BLTTDS năm 2015: “1. Trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử có quyền quyết định tạm ngừng phiên tòa khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tiến hành tố tụng không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa, trừ trường hợp thay thế được người tiến hành tố tụng;
b) Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa, trừ trường hợp người tham gia tố tụng có yêu cầu xét xử vắng mặt;
c) Cần phải xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mà nếu không thực hiện thì không thể giải quyết được vụ án và không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa;
d) Chờ kết quả giám định bổ sung, giám định lại;
đ) Các đương sự thống nhất đề nghị Tòa án tạm ngừng phiên tòa để họ tự hòa giải;
e) Cần phải báo cáo Chánh án Tòa án để đề nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại Điều 221 của Bộ luật này.”
[8] Điều 304 BLTTDS năm 2015: “Việc tạm ngừng phiên tòa phúc thẩm được thực hiện theo quy định tại Điều 259 của Bộ luật này.”
[9] Bùi Thị Huyền, “Hoãn và tạm ngừng phiên tòa sơ thẩm”, Tạp chí Luật học, số 6(85), 2007, tr. 33 – 40
[10] Điều này trước đây cũng đã đươc Tòa án nhân dân tối cao khẳng định trong Công văn số 305/ NCPL ngày 22/12/1990 giải thích một số vấn đề về thủ tục tố tụng dân sự: “Trong trường hợp Hội đồng xét xử tiến hành thẩm vấn tại phiên toà, mà thấy cần phải xem xét thêm về chứng cứ, cần phải có thời gian để điều tra, xác minh thêm… mới có thể giải quyết được vụ án thì Hội đồng xét xử không được hoãn phiên toà mà chỉ có thể tạm ngừng việc tiến hành phiên toà để điều tra, xác minh thêm trong thời gian thích hợp do Hội đồng xét xử quyết định. Sau khi đã điều tra, xác minh Hội đồng xét xử tiếp tục mở lại phiên toà để xét xử vụ án.”
[11] Khoản 2 Điều 197 BLTTDS sửa đổi, bổ sung 2011: “…Trong trường hợp đặc biệt do Bộ luật này quy định thì việc xét xử có thể tạm ngừng không quá năm ngày làm việc. Hết thời hạn tạm ngừng, việc xét xử vụ án được tiếp tục.”
[12] Nguyễn Văn Cường, Trần Anh Tuấn, Đặng Thanh Hoa (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, Nxb. Lao động – Xã hội, Hà Nội, 2011, tr. 121.
[13] Điều 199, Điều 200, Điều 201, Điều 266 BLTTDS năm 2004.
[14] Nguyễn Văn Cường, Trần Anh Tuấn, Đặng Thanh Hoa (chủ biên), tlđd, tr. 120.
[15] Theo quy định tại Điều 227 BLTTDS năm 2015, nếu đương sự vắng mặt trong lần triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, Tòa án phải hoãn phiên tòa, dù có hay không có lý do chính đáng. Ngược lại, nếu đương sự vắng mặt trong lần triệu tập hợp lệ lần thứ hai không có lý do chính đáng, Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết yêu cầu (đối với các đương sự có yêu cầu) và xét xử vắng mặt (đối với các đương sự không có yêu cầu).
[16] Như đã đề cập ở trên, BLTTDS năm 2015 chưa quy định rõ ngoài những căn cứ được liệt kê, Tòa án có được hoãn phiên tòa vì những lý do khác hay không. Do đó, đối với những trường hợp Tòa án hoãn phiên tòa với những căn cứ khác, việc đánh giá có phải do Tòa án hay không phải tùy thuộc vào từng tình huống. Chẳng hạn, thực tiễn xét xử ghi nhận có những trường hợp Tòa án phải hoãn phiên tòa vì lý do Hội thẩm nhân dân không tới phiên tòa. Đây là trường hợp hoãn phiên tòa theo quan điểm cá nhân là do Tòa án bởi lẽ Hội thẩm nhân dân hoạt động gắn liền với Tòa án nên Tòa án có trách nhiệm đảm bảo sự có mặt của Hội thẩm nhân dân tại phiên tòa.
[17] Khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015: “…Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình”
- Tác giả: ThS. Huỳnh Quang Thuận
- Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 02(123)/2019 – 2019, Trang 26-36
- Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời