Mục lục
Xác định quan hệ huyết thống thông qua AND
Tác giả: PGS.TS. Đỗ Văn Đại & ThS. Ngô Thị Vân Anh
TÓM TẮT
Xác định quan hệ huyết thống luôn là một trong những chế định quan trọng trong pháp luật hôn nhân và gia đình của bất kì quốc gia nào. Với sự phát triển của khoa học, việc xác định huyết thống (nhất là xác định cha, mẹ, con) thông qua giám định gien được thực hiện một cách khá thuận lợi, nhanh chóng và chính xác. Tuy nhiên, để có giải pháp pháp lý điều chỉnh hài hòa giữa các lợi ích, giá trị khác nhau luôn là một điều rất khó. Việc từ chối xét nghiệm AND khi được Tòa án yêu cầu, cũng như kiểm tra AND với người đã chết chính là hai trong số những trường hợp tiêu biểu đang cần được sự điều chỉnh.
Xem thêm bài viết về “Bình luận bản án”
- Bình luận bản án: Di chúc có công chứng, chứng thực – PGS.TS. Đỗ Văn Đại & TS. Nguyễn Hồ Bích Hằng
- Bình luận bản án: Thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức – PGS.TS. Đỗ Văn Đại
- Bình luận bản án số 42/2010/DS-ST: Sính lễ trong pháp luật Việt Nam – PGS.TS. Đỗ Văn Đại & ThS. Lê Thị Diễm Phương
- Bình luận bản án: Ngôn ngữ trong tố tụng trọng tài thương mại ở Việt Nam – PGS.TS. Đỗ Văn Đại
- Bình luận bản án: Điều kiện từ chối đăng ký, sử dụng tên miền – PGS.TS. Đỗ Văn Đại & ThS. Nguyễn Ngọc Hồng Phượng
NỘI DUNG BẢN ÁN
Bản án số 1393/2012/HC-PT ngày 23/11/2012 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh
XÉT THẤY
Căn cứ di chúc ngày 11/12/1981 của ông Nhiều; Căn cứ văn bản kê khai di sản thừa kế của bà Hoa; Căn cứ giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở của Ủy ban nhân dân Q.3 cấp cho ông Bình, bà Thịnh; Căn cứ văn bản giao ước ngày 17/11/1993, Ủy ban nhân dân P.5, Q.3 chứng thực ngày 22/11/1993, có nội dung: “Bên A: Bà Hoa Bên B: Ông Minh Tâm; Bà Dung; Bà Hường; Ông Văn Tâm; Ông Thành; Ông Hiệp. Chúng tôi đồng ý ký vào bản giao ước trước sự chứng kiến của UBND P.5, Q3. Nội dung giao ước: Chúng tôi bên B đồng xác nhận chỉ có bà Hoa là chủ sở hữu căn nhà 408 Minh Khai, P.5, Q.3, Tp.HCM; Bên B xác nhận hoàn toàn không liên quan gì đến căn nhà trên; Bà Hoa được quyền xây cất, mua bán hoặc sang nhượng, cho thuê mướn bất kỳ ai để được ở trong căn nhà này, bên B không có quyền can thiệp hoặc thưa kiện làm hưởng đến gia đình bà Hoa”.“Bên A giao vàng trước sự chứng kiến của UBND P.5, Q.3 và Công an khu vực P.5, Q.3, Tp.HCM”.
Từ những căn cứ trên có cơ sở xác định; Nhà đất tọa lạc tại số 408 Minh Khai có nguồn gốc do ông Nhiều làm di chúc tặng cho bà Hoa vào năm 1981, bà Hoa bán 1 phần nhà cho ông Bình bà Thịnh nay có số là 408 bis Minh Khai. Vào năm 1993 ông Minh Tâm, bà Dung, bà Hường, ông Văn Tâm, ông Thành, ông Hiệp cho rằng mình có quyền đối với nhà trên nên có làm bản giao ước với bà Hoa thoả thuận nhận 10 lượng vàng và không tranh chấp thưa kiện gì (Văn bản có chứng thực của UBND P.5, Q.3, Tp.HCM).
Vì cho rằng nhà trên có nguồn gốc của vợ chồng ông Lực (chết năm 1920), bà Thanh (chết năm 1928), ông Minh Tâm xác định ông là cháu chắt đời thứ ba của ông Lực, bà Thanh nên ông yêu cầu đòi lại nhà, từ đó các bên đương sự phát sinh tranh chấp.
Xét;
Tại bản giao ước năm 1993 ông Tâm cùng các anh chị em đã thoả thuận với bà Hoa là nhận 10 lượng vàng và cam kết không tranh chấp thưa kiện bà Hoa, giao ước này có chứng thực của UBND P.5, Q.3, Tp.HCM.
Căn cứ vào giấy khai sinh của ông Minh Tâm do chính quyền chế độ cũ cấp, xác định ông Tâm có mẹ là bà Giàu.
Căn cứ vào bản khai nhân khẩu ngày 16/9/1976 được lưu trữ tại Công an Quận 3 cùng biên bản họp tổ dân phố ngày 18/8/2004 do TAND Q.3 lập, xác định bà Giàu có mẹ là bà Lễ. Tuy nhiên căn cứ vào hồ sơ của bà Lễ hiện đang lưu giữ tại Tàng thư Công an Quận 3 thì không có nội dung nào thể hiện bà Lễ là con ruột của ông Lực và bà Thanh.
Căn cứ công văn trả lời xác minh số 3263/STP-HT ngày 03/11/2009 của Sở Tư pháp Tp. Hồ Chí Minh thì bà Lễ không có tên trong sổ bộ khai sinh Sài Gòn chế độ cũ.
Căn cứ công văn trả lời xác minh số 203/PC27 ngày 30/10/2009 của Công an Tp. Hồ Chí Minh thì bà Lễ không có hồ sơ lưu về việc cấp thẻ căn cước chế độ cũ.
Căn cứ công văn trả lời xác minh số 15905/C7 ngày 21/10/2009 của Cục hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát thì bà Lễ không có tài liệu trong tàng thư, cơ sở dữ liệu do cục quản lý.
Toà án nhân dân Q.3 đã yêu cầu nguyên đơn cung cấp chứng cứ để chứng minh bà Lễ là con của vợ chồng ông bà Lực và Thanh. Tuy nhiên, cho đến nay nguyên đơn cũng không xuất trình được giấy khai sinh hoặc chứng cứ khác có tính pháp lý để chứng minh bà Lễ là con của ông Lực với bà Thanh.
Tại điều 79 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Đương sự có yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp… Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ đó.”
Với những chứng cứ trên, Toà án cấp sơ thẩn đã không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tâm là có căn cứ đúng pháp luật.
Tại cấp phúc thẩm ông Minh Tâm yêu cầu khai quật mồ mả, hài cốt của ông Lực, bà Thanh để giám định có liên quan về huyết thống với ông, tuy nhiên yêu cầu trên không được những người thân của ông Lực, bà Thanh đồng ý nên cấp phúc thẩm không có cơ sở chấp nhận yêu cầu này.
Phía ông Minh Tâm kháng cáo nhưng không đưa ra được tài liệu chứng cứ nào mới để chứng minh cho yêu cầu của mình nên không có cơ sở chấp nhận.
Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Tâm chịu án phí DSPT theo luật định.
Các phần quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Bởi các lẽ trên;
Áp dụng điều 275 Bộ luật tố tụng dân sự;
QUYẾT ĐỊNH
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Minh Tâm; Giữ nguyên bản án sơ thẩm;
Áp dụng điều 25, 33, 35, 128, 131, 132 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng điều 256 Bộ luật Dân sự;
Tuyên xử:
1/ Chấp nhận việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đình chỉ giải quyết yêu cầu của nguyên đơn về việc đòi tài sản (…).
2/ Không chấp nhận yêu cầu của ông Minh Tâm về việc đòi tài sản đối với 02 căn nhà gồm: Nhà 408 Minh Khai; Nhà 408 bis Minh Khai, và yêu cầu bà Hoa và ông bà Bình-Thịnh phải trả nhà.
Quyết định số 34/2013/DS-GĐT ngày 30/01/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao
XÉT THẤY
Ngày 19/4/2007, chị Hạnh sinh một bé trai tên Bảo. Theo chị Hạnh, ông Văn là cha của cháu Bảo nên chị đã khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định cha cho con và yêu cầu ông Văn cấp dưỡng nuôi con. Ông Văn không thừa nhận cháu Bảo là con của ông, phản bác tất cả các chứng cứ mà chị Hạnh nêu ra (như năm 2006 chị với ông Văn quen biết nhau và nẩy sinh tình cảm dẫn đến chị có thai; khi chị sinh con ông Văn có thăm chị và cho chị 1.000.000đ, đến chỗ chị ở thuê chăm sóc hai mẹ con và chụp hình với con) nên không đồng ý các yêu cầu của chị Hạnh. Do ông Văn không thừa nhận cháu Bảo là con của ông với chị Hạnh, nên chị Hạnh đã yêu cầu Tòa án cho trưng cầu giám định AND đối với ông Văn và cam kết chịu mọi phí tổn về việc giám định AND.
Theo quy định tại điểm b mục 5 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn Nhân và gia đình năm 2000, thì trong trường hợp này Tòa án cần chấp nhận yêu cầu của chị Hạnh, buộc ông Văn phải cùng đi giám định AND. Nếu ông Văn cố tình không đi giám định thì Tòa án phải chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hạnh để công nhận ông Văn là cha đẻ của cháu Bảo. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm khi chưa thực hiện việc giám định gien theo yêu cầu của chị Hạnh nhưng đã xử bác yêu cầu khởi kiện của chị Hạnh là chưa đủ căn cứ vững chắc.
Bởi các lẽ trên;
Căn cứ khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự
QUYẾT ĐỊNH
Chấp nhận kháng nghị số 67/QĐKNGĐT-V5 ngày 27/7/2012 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với bản án phúc thẩm số 109/2009/HNGĐ-PT ngày 25/12/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang đã xét xử vụ án về “Xác định cha cho con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con” giữa nguyên đơn là chị Hạnh với bị đơn là ông Văn;
Hủy bản án phúc thẩm nêu trên và bản án sơ thẩm (…), giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiển Giang xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
BÌNH LUẬN
1. Dẫn nhập
Trong pháp luật hiện hành có nhiều quy định liên quan đến quan hệ huyết thống. Chẳng hạn, theo khoản 1 Điều 50 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, “nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa vợ và chồng theo quy định của Luật này”. Tương tự, theo điểm a khoản 1 Điều 676 Bộ luật Dân sự, “hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.
Chính vì các quy định như trên cũng như nhu cầu thực tế của con người muốn biết được cội nguồn mà có nhiều yêu cầu xác định quan hệ huyết thống giữa một người và với một người khác[1]. Với sự phát triển của khoa học, việc xác định huyết thống có thể được tiến hành thông qua xét AND giữa hai cá nhân và kinh nghiệm cho thấy việc tiến hành xét AND có thể đưa ra câu trả lời chính xác ở mức 99,99%[2]. Có lẽ vì lý do này mà điểm b mục 5 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định “khi có người yêu cầu Tòa án xác định một người nào đó là con của họ hay không phải là con của họ thì phải có chứng cứ; do đó về nguyên tắc người có yêu cầu phải cung cấp chứng cứ. Trong trường hợp cần thiết thì phải giám định gien”.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng ta sẽ làm rõ hai câu hỏi sau: Thứ nhất, có thể xét AND với người đã chết không? Thứ hai, khi người được yêu cầu xét AND còn sống nhưng từ chối xét AND trong tranh chấp về xác định huyết thống thì Tòa án phải giải quyết như thế nào?
I. Về xét AND với người đã chết
2. Xung đột các giá trị
Thực tế ở Việt Nam cũng như nước ngoài cho thấy yêu cầu xác định AND với người đã khuất là khá phổ biến và vụ việc thứ nhất được bình luận là một trong nhiều ví dụ mà chúng tôi đã gặp. Ở đây, ông Tâm xác định ông là cháu chắt đời thứ ba của ông Lực, bà Thanh và “ông Tâm yêu cầu khai quật mồ mã, hài cốt của ông Lực, bà Thanh để giám định có liên quan về huyết thống với ông”. Trong những hoàn cảnh như vậy, có xung đột về các giá trị khác nhau, nhất là xung đột giữa quyền biết về nguồn gốc của cá nhân và tôn trọng người đã khuất.
Con người sinh ra có nguồn gốc của mình, không cá nhân nào không có nguồn gốc. Từ đó, câu hỏi đặt ra là cá nhân có quyền biết về nguồn gốc của mình hay không? Nghiên cứu cho thấy quyền biết về nguồn gốc của cá nhân được đã được ghi nhận. Cụ thể, Điều 7 Công ước quốc tế về các quyền của người con ghi nhận cho cá nhân “trong chừng mực có thể, quyền biết về cha mẹ của mình”. Trong khuôn khổ bảo vệ quyền con người, Tòa án châu Âu về quyền con người đã “xây dựng quyền được biết về nguồn gốc trong Án lệ Gaskin c/Royaume-Uni ngày 7/7/1989 và Odièvre c/France ngày 13/2/2005”[3] thông qua khái niệm “đời tư” được ghi nhận trong Công ước châu Âu về quyền con người[4]. Trong khuôn khổ này, một tác giả[5] đã khẳng định rằng “quyền được biết về nguồn gốc mới đây được ghi nhận như một quyền cơ bản”[6]. Ở Đức và Thụy sỹ, quyền biết về nguồn gốc huyết thống được Hiến pháp bảo vệ. Tại Đức, Tòa hiến pháp đã ghi nhận quyền này từ năm 1989 và, ở Thụy Sỹ, Hiến pháp liên bang đã ghi nhận từ năm 1992 rằng “tiếp cận của một cá nhân về những thông tin liên quan đến nguồn gốc của mình được bảo đảm”[7]. Ở Việt Nam, quyền biết về nguồn gốc đã được ghi nhận minh thị trong Luật về con nuôi vì khoản 1 Điều 11 của Luật này có tiêu đề Bảo đảm quyền được biết về nguồn gốc quy định “con nuôi có quyền được biết về nguồn gốc của mình. Không ai được cản trở con nuôi được biết về nguồn gốc của mình”. Như vậy, quyền của cá nhân được biết về nguồn gốc của mình là một quyền con người và được ghi nhận một cách minh thị ở Việt Nam đối với con nuôi (và trong tương lai quyền con người này nên được ghi nhận một cách minh thị cho cá nhân nói chung trong Bộ luật dân sự vì đây không chỉ là quyền của con nuôi mà là quyền gắn liền với con người).
Tuy nhiên, việc xác định nguồn gốc như hoàn cảnh của ông Tâm lại ảnh hướng đến một giá trị khác được ghi nhận trong xã hội văn minh. Đó là tôn trọng người đã khuất. Thực ra, tôn trọng người đã chết không là quyền của người đã chết vì năng lực pháp luật của một cá nhân chấm dứt khi người đó chết nhưng đây là một giá trị không nhỏ trong xã hội văn minh, nhất là xã hội quan tâm nhiều tới người đã khuất như Việt Nam chúng ta. Người đã chết không còn có khả năng có quyền, có nghĩa vụ[8] nhưng không vì thế mà người còn sống “lạnh lùng” với họ[9].
3. Giải quyết xung đột các giá trị
Trước xung đột các giá trị như nêu trên, pháp luật (văn bản cũng như án lệ) có những ứng xử khá khác nhau trên thế giới. Nhìn một cách tổng thể, chúng ta thấy có hai hướng giải quyết xung đột nêu trên.
Xu hướng thứ nhất là đề cao giá trị tôn trọng người đã khuất và Pháp là một ví dụ cho xu hướng này. Cụ thể, năm 2004 Pháp đã bổ sung một quy định trong Bộ luật dân sự với nội dung “trừ chấp thuận minh thị của cá nhân khi còn sống, không việc xác định gien nào có thể được tiến hành sau khi cá nhân chết”. Với quy định này, án lệ Pháp còn từ chối cho xét AND để xác định quan hệ huyết thống giữa một người còn sống với một người đã khuất ngay cả khi thành phần để xác định gien của người chết đã được lưu trữ trước khi người này chết (tức không cần phải khai quật mồ của người đã khuất)[10].
Tuy nhiên, Tòa án châu Âu về quyền con người lại theo một hướng rất khác. Cụ thể, trong một tranh chấp, Thụy Sỹ không cho phép khai quật người đã khuất để xét AND khi một người còn sống yêu cầu xác định gen với người đã khuất khi người yêu cầu cho rằng người đã khuất là người sinh ra mình. Tuy nhiên, Tòa án châu Âu về quyền con người đã không đồng ý với việc từ chối của Thụy Sỹ. Ở đây, Tòa án châu Âu về quyền con người đã cho rằng “những người cố gắng xác định nguồn gốc có lợi ích sống còn, được Công ước châu Âu về quyền con người, để đạt được những thông tin cần thiết đối với họ nhằm làm sáng tỏ thực tế về một khía cạnh quan trọng của danh tính của họ”[11]. Từ đó, Tòa án châu Âu về nhân quyền đã thiết lập một nghĩa vụ của các quốc gia thành viên là phải cho phép cá nhân được biết nguồn gốc của mình ngay cả bằng biện pháp xét gien với người đã chết[12]. Bên cạnh đó, pháp luật nhiều bang của Hoa Kỳ không cấm xét nghiệm AND với người đã chết. Chẳng hạn, Luật Gia đình Washington và Luật Gia đình Texas đều ghi nhận nội dung: trong những trường hợp cần thiết thì việc giám định gien có thể được tiến hành với những người đã chết[13].
4. Hướng giải quyết ở Việt Nam
Hiện nay, yêu cầu xác định huyết thống với người đã khuất khá phổ biến, nhất là với mục đích để được hưởng thừa kế. Tuy nhiên, yêu cầu này thường không được Tòa án chấp nhận trong trường hợp gia đình của người đã khuất không đồng ý cho khai quật mồ. Trong vụ việc thứ nhất, Tòa án theo hướng nêu trên khi xét rằng “tại cấp phúc thẩm ông Minh Tâm yêu cầu khai quật mồ mã, hài cốt của ông Lực, bà Thanh để giám định có liên quan về huyết thống với ông, tuy nhiên yêu cầu trên không được những người thân của ông Lực, bà Thanh đồng ý nên cấp phúc thẩm không có cơ sở chấp nhận yêu cầu này”.
Tôn trọng người đã khuất vẫn là một giá trị đáng được bảo vệ trong xã hội hiện nay của Việt Nam. Xét về mặt truyền thống và tâm linh thì việc khai quật mộ để xét AND là một việc làm hi hữu và nên hạn chế tối đa. Việc khai quật mộ để xét AND có tác động lớn về mặt tâm lý đối với những người thân còn sống. Người yêu cầu xác định huyết thống nên cung cấp những chứng cứ liên quan khác (ảnh, thư từ, người làm chứng…) thay vì yêu cầu khai quật mộ để xác định AND. Ngoài ra, việc xác định huyết thống có thể được thực hiện thay thế bằng AND của anh chị em hoặc những người thân thích khác và việc xét nghiệm AND này cũng có thể cho kết quả chấp nhận được[14]. Do đó, mặc dù hướng giải quyết trên của Tòa án chưa được nêu trong văn bản nhưng, theo chúng tôi, là chấp nhận được trong hoàn cảnh hiện nay của Việt Nam.
Tuy nhiên, nếu trước khi chết, một cá nhân đã để lại những thành phần cho phép xét AND thì chúng ta vẫn cho phép xét gen để xác định huyết thống với người còn sống để tôn trọng quyền biết về nguồn gốc của mỗi cá nhân (thực ra hướng của pháp luật Pháp nêu trên đang bị phê bình rất nhiều khi loại trừ khả năng xét gen với người đã khuất trong mọi trường hợp). Hy vọng rằng vấn đề nhạy cảm này sẽ được luật hóa để tạo cơ sở pháp lý cho Tòa án giải quyết khi có yêu cầu xét AND với người đã khuất.
II. Về xét AND với người còn sống
5. Từ chối xét AND
Trong thực tế, chúng ta thường gặp một người còn sống bị yêu cầu tiến hành xét AND để xác định quan hệ huyết thống với người khác nhưng người được yêu cầu từ chối hay tìm cách từ chối tiến hành xét AND.
Trong vụ việc thứ hai được bình luận, chị Hạnh khởi kiện ông Văn để yêu cầu Tòa án xác định cha cho con chị Hạnh là cháu Bảo. Ở đây, chị Hạnh đã yêu cầu Tòa án cho trưng cầu giám định AND đối với ông Văn và cam kết chịu mọi phí tổn về việc giám định AND. Tuy nhiên, ông Văn cho rằng “năm 2006 chị Hạnh có thuê nhà trọ sát nhà vợ chồng ông, chị nói là chị có chồng Việt kiều, nên việc có con là đương nhiên. Ông không có quan hệ gì với chị Hạnh, chị Hạnh đặt điều vu khống ông, Bảo không phải là con ông nên không đồng ý theo yêu cầu của chị Hạnh”.
Trong vụ việc sau đây, người được yêu cầu tiến hành AND còn sống và từ chối tiến hành xét AND. Cụ thể, bà Loan cho rằng trẻ Huy là con của ông Hưng nhưng từ khi Toà án thụ lý giải quyết vụ án đã triệu tập ông Hưng nhiều lần, nhưng ông Hưng đều vắng mặt không rõ lý do. Tòa án đã tống đạt trực tiếp cho ông Hưng Quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ và triệu tập nhằm tiến hành lấy mẫu để giám định AND giữa ông Hưng và trẻ Huy nhưng ông Hưng không chấp hành[15].
6. Kinh nghiệm của nước ngoài
Hoàn cảnh như nêu trên không chỉ tồn tại ở Việt Nam mà cũng tồn tại trong thực tiễn nước ngoài. Xin trình bày dưới đây kinh nghiệm của nước ngoài về trường hợp người được yêu cầu xét AND còn sống từ chối tiến hành xét AND.
Theo Điều 57 Luật Tố tụng gia đình New Zealand (Refusal of parentage tests), một người có quyền từ chối kiểm tra AND, tuy nhiên việc từ chối này có thể được xem xét như là một bằng chứng trước tòa. “Tùy vào quyền của mỗi người mà người này có thể đưa ra lời giải thích cho việc từ chối hợp tác của mình, cùng với việc đối chất giữa các nhân chứng, việc triệu tập nhân chứng, tòa án có thể đưa ra kết luận phù hợp theo từng hoàn cảnh”. Theo pháp luật Ohio, nếu như người đàn ông được cho là cha của đứa trẻ cố tình không thực hiện bài kiểm tra về di truyền, thì Tòa án sẽ ra một lệnh xác định tồn tại mối quan hệ cha con giữa người đàn ông đó và đứa trẻ (trừ trường hợp người này đưa ra được lý do chính đáng để không phải thực hiện giám định gien)[16]. Tuy nhiên, kèm theo nội dung trên, nội dung của án lệ cho thấy rằng, trước khi ra quyết định Tòa án có nghĩa vụ thông báo để một người có thể thấy trước hậu quả pháp lý (bất lợi) khi từ chối kiểm tra AND.
Thực tiễn xét xử Pháp theo hướng có thể suy luận tồn tại quan hệ cha con khi người được yêu cầu từ chối xét AND. Chẳng hạn, bà T yêu cầu Tòa án xác định ông Y là cha cho con của mình. Tòa án đã ra quyết định buộc ông Y tiến hành xét gen nhưng ông Y từ chối và từ đó Tòa án đã xác định ông Y là cha của con bà T. Không đồng ý với quyết định này nên ông Y đã yêu cầu giám đốc thẩm. Về chủ đề này, Tòa giám đốc thẩm của Pháp đã xét rằng yêu cầu của ông Y không được chấp nhận vì “Tòa phúc thẩm suy luận quan hệ cha con của ông Y từ việc ông Y từ chối tiến hành kiểm tra so sánh máu và những xác nhận thể hiện ông Y đã có quan hệ với bà T cho đến tháng thứ tư của kỳ mang thai thứ hai của bà T và bà T đã không có bất kỳ quan hệ nào ới người đàn ông khác”[17].
7. Hướng giải quyết ở Việt Nam
Trước những hoàn cảnh như nêu ở phần trên, khi tư vấn chuyên gia về tố tụng dân sự và hôn nhân – gia đình, chúng tôi nhận được câu trả lời là, trong trường hợp người được yêu cầu xét AND từ chối tiến hành xét AND, Tòa án không có cách nào khác là không chấp nhận yêu cầu xác định cha con. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, chúng ta thấy Tòa án không hoàn toàn “bó tay” trước việc từ chối trên.
Trong một bản án năm 2011, một Tòa sơ thẩm đã theo hướng xác định người từ chối xét nghiệm AND là cha. Cụ thể, theo bản án, “tại biên bản hoà giải ngày 10/09/2010 của Ủy ban nhân dân phường, ông Hưng cũng thừa nhận ông và bà Loan có quan hệ tình cảm như bà Loan trình bày, không thừa nhận trẻ Huy và đồng ý để Toà án xét xử và cho đi giám định AND. Nhưng từ khi Toà án thụ lý giải quyết vụ án đã triệu tập bị đơn Hưng nhiều lần, nhưng ông Hưng đều vắng mặt không rõ lý do. Các triệu tập và Quyết định của Toà án đều được giao cho người thân và ngay cả ông Hưng cũng ký nhận, nhưng đều vắng mặt. Điều này thể hiện bị đơn Hưng không chấp hành pháp luật; tự tước bỏ quyền và nghĩa vụ của ông tại Toà án cũng như quyền trình bày và tranh luận tại phiên toà. Toà án đã tống đạt trực tiếp cho ông Hưng Quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ và triệu tập để tiến hành lấy mẫu để giám định AND giữa ông và trẻ Huy, ông không chấp hành. Việc ông không chấp hành quyết định trên ảnh hưởng trực tiếp đến quyền của trẻ là có cha, có mẹ. Bị đơn Hưng không cung cấp bản giám định AND của ông tại cấp sơ thẩm theo quyết định của toà án là tự tước bỏ quyền tự bào chữa tại toà. Do vậy trẻ Huy được pháp luật bảo hộ, nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Loan về xác định cha cho con”. Từ đó Tòa quyết định “xác định ông Hưng là cha đẻ của trẻ Huy sinh ngày 25/09/2006 tại Đà Nẵng”[18].
Hướng giải quyết trên cũng được Tòa án nhân dân tối cao áp dụng trong vụ việc thứ hai mà chúng ta đang bình luận. Cụ thể, theo Tòa giám đốc thẩm, “nếu ông Văn cố tình không đi giám định thì Tòa án phải chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hạnh để công nhận ông Văn là cha đẻ của cháu Bảo”.
8. Nhận xét
Liên quan đến hướng giải quyết trong vụ việc thứ hai được bình luận, chúng tôi xin có một số nhận xét sau:
Thứ nhất, quyết định giám đốc thẩm được bình luận nêu trên rất rõ về hệ quả của việc từ chối xét AND và có lẽ đây là quyết định đầu tiên của Tòa án tối cao theo hướng như vậy. Khi đưa ra hướng giải quyết nêu trên, Tòa giám đốc thẩm có viện dẫn điểm b mục 5 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, quy định này chỉ cho phép xét AND để xác định quan hệ huyết thống mà không cho biết hệ quả của việc từ chối xét AND. Nói cách khác, Tòa giám đốc thẩm đã bổ sung văn bản, tạo ra một án lệ cho Tòa án địa phương về hướng xử lý trường hợp từ chối tiến hành xét AND để xác định quan hệ huyết thống.
Thứ hai, quyết định giám đốc thẩm đã theo hướng chấp nhận Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân khi đưa ra hướng giải quyết nêu trên và qua trao đổi, theo người đại diện của Việt kiểm sát tham dự phiên xử giám đốc thẩm, việc suy luận quan hệ huyết thống từ việc từ chối xét AND chỉ nên được áp dụng khi có dấu hiệu cho thấy rằng người được yêu cầu xét có liên quan đến quan hệ huyết thống. Trong vụ việc thứ hai được bình luận, dấu hiệu này tồn tại từ việc chị Hạnh thuê nhà trọ sát nhà ông Văn và chị Hạnh đã khai rằng giữa hai người nẩy sinh tình cảm dẫn đến chị có thai và khi chị sinh con ông Văn có thăm chị đồng thời cho chị 1.000.000đ, đến chỗ chị ở thuê chăm sóc hai mẹ con và chụp hình với con. Lưu ý này của đại diện Viện kiểm sát là xác đáng vì nếu không có bất kỳ dấu hiệu nào theo hướng vừa nêu thì chúng ta không nên suy luận quan hệ huyết thống từ việc từ chối xét AND. Ở đây, bản thân việc từ chối xét AND chưa đủ mà còn thêm dấu hiệu cho thấy rằng người được yêu cầu xét có liên quan đến quan hệ huyết thống.
Thứ ba, hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm như nêu trên chưa được nêu trong văn bản nhưng không thiếu phần thuyết phục. Ngoài lý do vừa nêu ở trên, chúng ta thấy hướng này đã được ghi nhận trong thực tiễn nước ngoài (như trong thực tiễn xét xử của Pháp). Với án lệ đang được nghiên cứu, người được yêu cầu xét AND để xác định quan hệ huyết thống biết được hậu quả bất lợi mà họ phải gánh chịu nếu họ từ chối kiểm tra AND nên sẽ hạn chế được việc từ chối việc tuân thủ yêu cầu xét AND của Tòa án.
9. Nhận xét bổ sung
Với sự phát triển của khoa học, chúng ta có thể dễ dàng biết được quan hệ huyết thống thông qua AND. Trong thực tế, chỉ cần một sợi tóc hay một miếng kẹo cao su sau khi nhai là có thể xác định được huyết thống của một cá nhân với cá nhân khác. Chính vì quá dễ dàng như vậy nên trong thực tế có thể có sự tùy tiện trong việc tiến hành xét AND và có thể có trường hợp việc xác định gien được tiến hành không hợp pháp nên câu hỏi đặt ra là kết quả xét AND không hợp pháp có được chấp nhận như một chứng cứ để xác định quan hệ huyết thống hay không. Hai vụ việc được bình luận không liên quan trực tiếp đến câu hỏi này nhưng trong tương lai hoàn toàn có thể xảy ra và chúng ta cần có câu trả lời. Trước khi đưa ra hướng xử lý ở Việt Nam, chúng ta nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài về chủ đề này và xin dẫn một vụ việc ở Đức để minh họa.
Cụ thể, một cá nhân đã thừa nhận con của người sống cùng với mình là con (tức thừa nhận là cha cháu bé) nhưng sau đó lại phủ nhận quan hệ huyết thống bằng cách tự tiến hành xét AND (không có ý kiến của mẹ cháu bé). Tòa án dân sự Đức (sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm) không chấp nhận xét nghiệm này như chứng cứ nên không đồng ý với việc phủ nhận quan hệ huyết thống của cá nhân trên. Sau đó, cá nhân này đã đưa vấn đề ra Tòa hiến pháp Đức và Tòa hiến pháp Đức đã theo hướng chấp nhận giải pháp của Tòa án dân sự vì cá nhân này đã tiến hành xét AND một cách không hợp pháp[19]. Sau đó, năm 2008 Đức bổ sung Bộ luật dân sự bằng việc bổ sung Điều 1598a với nội dung đưa ra trình tự để xét AND.
Trước việc có thể quá dễ dàng trong việc có được kết quả AND, chúng ta cũng nên theo hướng của Đức nêu trên: đưa ra một thủ tục để xét AND và chỉ chấp nhận kết quả AND do cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành (không chấp nhận kết quả xét AND được tiến hành một cách không hợp pháp).
- Kết luận. Sự phát triển của khoa học đã giúp chúng ta xử lý được nhiều vấn đề pháp lý trong đó có việc xác định quan hệ huyết thống thông qua giám định AND. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, sự tiến bộ của khoa học đôi khi cũng có mặt trái của nó và lúc này pháp luật cần đưa ra những giới hạn cho việc sử dụng khoa học vào các vấn đề pháp lý.
Quyền được biết về nguồn gốc đang dần dần được ghi nhận rộng rãi như một quyền cơ bản của con người và việc xét AND giúp cá nhân thực hiện được quyền này. Quyền được biết về nguồn gốc đã phần nào được củng cố với sự cố gắng của thực tiễn xét xử, nhất là khi thực tiễn xét xử đưa ra hướng suy luận quan hệ huyết thống từ việc người được yêu cầu xét AND từ chối tiến hành xét AND trong trường hợp có dấu hiệu thấy rằng người này liên quan đến quan hệ huyết thống đang được xem xét.
Tuy nhiên, việc khai thác AND để xác định quan hệ huyết thống cần có những giới hạn của nó, nhất là khi người bị xét AND đã chết quyền được biết về nguồn gốc cần phải hài hòa với các giá trị khác trong đó có việc tôn trọng người đã khuất, nếu không một phần văn hóa của” chúng ta sẽ dần dần mất đi.
CHÚ THÍCH
* PGS.TS, Trưởng Khoa Luật dân sự, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
** Giảng viên Khoa Luật dân sự, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
[1] Về yêu cầu xét AND với mục đích thừa kế, xem Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. CTQG 2013, Bản án số 79-82, phần bình luận số 4-6.
[2] Theo một bản án, “để có cơ sở xác định trẻ Bảo là con ông Sanh hay ông Tiết. Ngày 27/11/2002 Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định số 93/TCGĐ yêu cầu Viện khoa học hình sự Bộ Công an giám định AND của bà Liên, ông Sanh và trẻ Bảo để xác định quan hệ huyết thống. Ngày 23/12/2002 Viện khoa học hình sự đã có quyết định số 3578/C21 (P6) kết luận ông Sanh là cha ruột của cháu Bảo với sác xuất 99,998%. Qua các chứng cứ trên xét yêu cầu bà Liên xác định ông Sanh là cha ruột của trẻ Bảo là có căn cứ” (Bản án số 63/DSST ngày 10/01/2003 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh).
[3] A. Gouttenoire, “Le droit de la famille dans la jurisprudence de la Cour européenne des droits de l’homme”, Droit de la famille n° 5, Mai 2008, étude 14.
[4] Xem L. Burgorgue-Larsen, Droit de connaître son ascendance : demande de “grand paternité”, Constitutions 2010, tr. 77.
[5] Y. Favier: Droit de la famille in JCP.G 2012, doctr.878, phần số 8.
[6] Về sự hình thành và cơ sở pháp lý của quyền được biết về nguồn gốc của cá nhân trong khuôn khổ bảo vệ quyền con người ở châu Âu, xem O. Roy, “Le droit de connaitre ses origines et la Cour européenne des droits de l’homme: l’affaire Odièvre contre France» , Petites affiches ngày 03/10/2002.
[7].Xem.http://www.senat.fr/lc/lc70/lc70_mono.html, cập nhật ngày 20/8/2013.
[8] Theo khoản 1 và khoản 3 Điều 14 Bộ luật dân sự, “năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự” và “năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết”.
[9] Thực ra, pháp luật đã có quy định cho thấy chúng ta không hoàn toàn lạnh lùng với người đã chết. Chẳng hạn, theo khoản 4 Điều 51 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, “trường hợp người bị thiệt hại chết, thân nhân của họ có quyền yêu cầu khôi phục danh dự”.
[10] Xem Cass. 1re civ., 2 avr. 2008, n° 06-10.256 et 07-11.639 (jonction), FS-P+B+I: JurisData n° 2008-043427; AJ famille 2008, p. 209, bình luận F. Chénedé.
[11] CEDH ngày 13/7/2006 Jäggi c/Suisse.
[12] Xem A. Gouttenoire: L’interdiction de procéder à des expertises génétiques sur une personne décédée, JCP.G 2012, doctr. 31.
[13] Washington Code/Title 26 – Domestic relations/Chapter 26.26-Uniform parentage act/§ 26.26.440 – Genetic testing — Deceased individual; Texas Family code/Sec. 160.509 – Deceased individual.
[14] Chẳng hạn, theo một bản án, “các đương sự này thừa nhận ông Mai Đình Thành chính là ông Van Sok Kha. Lời thừa nhận này phù hợp với kết quả xét nghiệm ADN do Phòng di truyền phân tử thuộc Trung tâm công nghệ sinh học đã xác định bà Võ Thị Sáu và ông Van Sok Kha có quan hệ huyết thống. Qua đó, đã đủ căn cứ để kết luận: ông Van Sok Kha, quốc tịch Pháp, chính là ông Mai Đình Thành, là con của ông Mai Văn Khoái và bà Võ Thị Sáu đã được Ủy ban hành chính xã Tân Kiên, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An lập giấy khai sanh ngày 28/7/1960, số hiệu 109”. Từ đó, Tòa án quyết định “ông Van Sok Kha được sử dụng họ tên Mai Đình Thành” (Bản án số 1866/DSST ngày 30/08/2004 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh). Ở đây, ông Kha xác định AND với bà Sáu và từ đó có cơ sở xác định ông Kha là con ông Khoái vì bà Sáu là vợ ông Khoái (xét huyết thống qua trung gian).
[15] Xem Bản án số 85/2011/HNGĐ-ST ngày 23/09/2011 của Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh TP. Hồ Chí Minh.
[16] Ohio Revised Code–Title [31] XXXI Domestic relations-Children-Chapter 3111 Parentage–3111 (A) (2).
[17] Cass. 1re civ., 25 avr. 2006, n° 04-16.394, F-D, Jamal Y. c/Saliha T. et a.: Juris-Data n° 2006-033230.
[18] Bản án số 85/2011/HNGĐ-ST ngày 23/09/2011 của Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh TP. Hồ Chí Minh.
[19] Xem M. Fromont: “Jurisprudence constitutionnelle de la République fédérale d’Allemagne, Revue du droit public et de la science politique en France et à l’Étranger”, 01/11/2008 n° 6, tr.1689.
- Tác giả: PGS.TS. Đỗ Văn Đại & ThS. Ngô Thị Vân Anh
- Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 04/2013 (77)/2013 – 2013, Trang 62-69
- Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời