Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng marketing cho Luật sư và Tổ chức hành nghề luật sư – Nhu cầu cấp thiết tại Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Thị Minh Huệ [1]
TÓM TẮT
Bên cạnh vai trò là công cụ giúp luật sư và tổ chức hành nghề luật sư (TCHNLS) xây dựng, duy trì và phát triển thương hiệu, mối quan hệ với khách hàng, marketing còn là công cụ giúp cho luật sư và TCHNLS hiểu rõ, nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị trường, duy trì được sự kết nối với đối tác, đồng nghiệp. Tuy nhiên, để marketing có thể phát huy những vai trò nêu trên, trước hết luật sư và TCHNLS cần có kiến thức và kỹ năng nhất định về marketing. Nếu thiếu những kiến thức, kỹ năng cơ bản về marketing thì có thể dẫn đến tác dụng ngược, gây ảnh hưởng bất lợi đến thương hiệu của luật sư và TCHNLS. Thông qua việc đánh giá thực trạng kiến thức, kỹ năng marketing của luật sư và TCHNLS tại Việt Nam hiện nay, tác giả bước đầu đưa ra những nhận định bước đầu về nhu cầu bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng marketing của luật sư của TCHNLS tại Việt Nam hiện nay.
1. Thực trạng kiến thức và kỹ năng marketing của luật sư và tổ chức hành nghề luật sư tại Việt Nam hiện nay
Tính đến cuối năm 2020, Việt Nam đã có 15.107 luật sư, tăng 1.248 luật sư so với năm 20192. Số lượng các hãng luật nước ngoài mở chi nhánh tại Việt Nam tăng nhanh theo từng năm. Thực trạng trên đã phản ánh xu hướng cạnh tranh ngày càng gay gắt3 giữa các luật sư và TNCHLS tại Việt Nam. Bên cạnh đó, bối cảnh hội nhập quốc tế và những tác động không thể dự liệu hết của cách mạng công nghệ 4.0 đã tác động lớn đến nghề luật và đặc biệt là các phương thức mà các luật sư và tổ chức hành nghề luật sư quảng bá, giới thiệu, cung cấp các dịch vụ pháp lý và việc tổ chức quản lý, điều hành công việc của mình. Để có thể định vị, phát triển được vị thế của mình trên thị trường dịch vụ pháp lý đầy cạnh tranh và với nhiều biến động và thách thức lớn như hiện nay, các luật sư cần phải hoàn thiện nhiều kiến thức, kỹ năng và một trong số đó chính là những kiến thức và kỹ năng về marketing. Vậy các luật sư và TCHNLS tại Việt Nam hiện nay có kiến thức và kỹ năng về marketing như thế nào? Dưới đây là một số đánh giá bước đầu về thực trạng kiến thức và kỹ năng về marketing của luật sư và TCHNLS tại Việt Nam hiện nay:
Thứ nhất, một số luật sư, TCHNLS chưa nắm bắt được những điểm đặc thù trong hoạt động marketing của luật sư và TCHNLS.
Hoạt động marketing của luật sư và TCHNLS có những đặc thù khác biệt so với hoạt động marketing trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ khác. Những đặc thù phải kể đến là: (i) Hoạt động marketing của luật sư gắn với đặc thù chuyên môn nghề nghiệp của luật sư; (ii) Hoạt động marketing của luật sư chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật; (iii) Hoạt động marketing của luật sư chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư. Cụ thể hơn, hoạt động marketing của luật sư và tổ chức hành nghề luật sư còn có một số đặc điểm sau: cần chuyên biệt theo nhóm khách hàng mục tiêu; hoạt động marketing của luật sư và TCHNLS là trách nhiệm xã hội – chia sẻ, phổ cập về dịch vụ pháp lý, thông tin về luật sư và TCHNLS để xã hội có cơ hội tiếp cận và sử dụng các thông tin trong vào việc đánh giá và lựa chọn luật sư và TCHNLS cung cấp dịch vụ pháp lý và hợp tác trong các hoạt động khác; hoạt động marketing của luật sư và TCHNLS gắn liền với việc tôn trọng công lý và lẽ phải; hoạt động marketing của luật sư và TCHNLS gắn với đặc thù uy tín của luật sư và tổ chức hành nghề luật trên thị trường trong nước và quốc tế, đặc thù về lĩnh vực hành nghề chuyên sâu và phân khúc khách hàng của họ; hoạt động marketing của luật sư và TCHNLS phải gắn với thương hiệu cá nhân luật sư; hoạt động marketing của luật sư và TCHNLS có hiệu quả hơn nếu thông qua marketing trực tiếp và thông qua sự giới thiệu của chính các khách hàng đã sử dụng dịch vụ pháp lý của luật sư và TCHNLS.
Tuy nhiên, không phải luật sư nào cũng ý thức được những đặc thù nêu trên khi thực hiện hoạt động marketing. Theo kết quả khảo sát trực tuyến năm 2021 với sự tham gia của 215 đối tượng khảo sát trong khuôn khổ đề tài khoa học cấp cơ sở tại Học viện Tư pháp về: “Hoạt động marketing cho luật sư và tổ chức hành nghề luật sư trong bối cảnh hội nhập quốc tế” (“Khảo sát về hoạt động marketing”), người tham gia khảo sát là các luật sư điều hành (13,2%), luật sư thành viên (5,9%), luật sư (23%), trợ lý luật sư (18,6%), nhân viên của TCHNLS (7,4%), chuyên gia pháp lý (9,3%), giảng viên luật (6,9%) và các cá nhân khác có liên quan đến hoạt động nghề nghiệp của luật sư và TCHNLS (15,7%). Các đối tượng tham gia khảo sát nêu trên đến từ các TCHNLS, cơ sở đào tạo luật và cơ sở nghiên cứu hàng đầu của Việt Nam. Đối với các câu hỏi khảo sát đánh giá kiến thức, kết quả thể hiện như sau: 85,6% cho rằng hoạt động marketing của luật sư gắn với đặc thù chuyên môn nghề nghiệp của luật sư; 48,4% cho rằng hoạt động marketing của luật sư chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật; 73% cho rằng hoạt động marketing của luật sư chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư.
Kết quả nêu trên cho thấy còn 14,4% người khảo sát chưa nhận thức được những đặc thù của marketing gắn với hoạt động nghề nghiệp của luật sư và quá trình quảng bá, cung cấp dịch vụ và tổ chức hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý của các TCHNLS. Số liệu trên đồng thời cho thấy có đến 51,6% người tham gia khảo sát cho rằng hoạt động marketing của luật sư và TCHNLS không chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Đặc biệt hơn nữa, có đến 27% người tham gia khảo sát cho rằng hoạt động marketing của luật sư và TCHNLS không chịu sự điều chỉnh của Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam. Thực tế kết quả khảo sát nêu trên cho thấy, có sự hiểu biết chưa toàn diện và đầy đủ về các đặc thù của hoạt động marketing của luật sư và TCHNLS.
Luật luật sư số 65/2006/QH11 do Quốc hội ban hành ngày 29/6/2006, được sửa đổi bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật luật sư số 20/2012/QH13 do Quốc hội ban hành ngày 20/11/2012 (“Luật luật sư”) và các văn bản hướng dẫn thi hành và đặc biệt là Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư do Liên đoàn luật sư Việt Nam ban hành ngày 13/12/2019 (“Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư”) đều có những quy định điều chỉnh hoạt động marketing của luật sư và TCHNLS song một số cá nhân luật sư và đại diện cho TCHNLS vẫn chưa ý thức được điều này. Hệ quả của sự chưa nhận thức toàn diện về đặc thù của hoạt động marketing với luật sư và TCHNLS sẽ dẫn đến việc các luật sư và TCHNLS có thể có sự vi phạm về nghĩa vụ, trách nhiệm và giới hạn áp dụng đối với hoạt động marketing. Kết quả nêu trên cũng cho thấy, chỉ có số ít luật sư và TCHNLS có những hiểu biết về những đặc thù nổi bật của hoạt động marketing với luật sư và TCHNLS. Điều này dẫn đến việc luật sư có thể không lựa chọn, áp dụng đúng và hiệu quả việc marketing.
Thứ hai, một số luật sư và TCHNLS chưa nắm rõ về các nghĩa vụ phải tuân thủ khi thực hiện hoạt động marketing của luật sư và TCHNLS.
Luật luật sư có một số quy định về các nghĩa vụ mà luật sư và TCHNLS phải tuân thủ khi giao dịch với khách hàng và các cá nhân, tổ chức mà luật sư và TCHNLS cần lưu ý khi thực hiện hoạt động marketing của luật sư và TCHNLS như: Luật sư phải tôn trọng sự lựa chọn luật sư của khách hàng; chỉ nhận vụ, việc theo khả năng của mình và thực hiện vụ, việc trong phạm vi yêu cầu của khách hàng (Khoản 1 Điều 24 Luật luật sư); Luật sư không được tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác (Khoản 1 Điều 25 Luật luật sư); TCHNLS có trách nhiệm bảo đảm các nhân viên trong tổ chức hành nghề không tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng của mình (Khoản 3 Điều 25 Luật luật sư).
Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư cũng có những quy định liên quan đến hoạt động marketing của luật sư và TCHNLS như:
– Quy tắc 9: Những việc luật sư không được làm trong quan hệ với khách hàng “…9.6. Thông tin trực tiếp cho khách hàng hoặc dùng lời lẽ, hành vi ám chỉ để khách hàng biết về mối quan hệ cá nhân của luật sư với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác nhằm mục đích gây niềm tin với khách hàng về hiệu quả công việc hoặc nhằm mục đích bất hợp pháp khác; 9.7. Cố ý đưa ra những thông tin làm cho khách hàng nhầm lẫn về khả năng và trình độ chuyên môn của mình để tạo niềm tin cho khách hàng ký kết hợp đồng; 9.8. Hứa hẹn, cam kết bảo đảm kết quả vụ việc về những nội dung nằm ngoài khả năng, điều kiện thực hiện của luật sư”.
Quy tắc 31: Thông tin, truyền thông quy định “…31.1. Khi cung cấp thông tin cho báo chí, phương tiện thông tin đại chúng, sử dụng mạng xã hội, luật sư phải trung thực, chính xác, khách quan. 31.2. Luật sư không được sử dụng báo chí, phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội để cố ý phản ánh sai sự thật nhằm mục đích cá nhân, động cơ khác hoặc tạo dư luận nhằm bảo vệ quyền lợi không hợp pháp của khách hàng hoặc phát ngôn gây ảnh hưởng đến an ninh, lợi ích quốc gia và lợi ích công cộng.
31.3. Luật sư không được viết bài, phát biểu trên báo chí, phương tiện thông tin đại chúng, tại nơi công cộng, sử dụng mạng xã hội để nói xấu, công kích, bài xích hoặc gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ giữa các luật sư đồng nghiệp; gây tổn hại đến danh dự, uy tín của luật sư, nghề luật sư, Đoàn luật sư và Liên đoàn luật sư Việt Nam”.
Quy tắc 32: Quảng cáo: “32.1. Khi quảng cáo về hoạt động hành nghề luật sư, luật sư không được cung cấp những thông tin không có thật hoặc thông tin gây hiểu nhầm. Luật sư phải chịu trách nhiệm khi cam kết trong quảng cáo về chất lượng dịch vụ luật sư. 32.2. Luật sư không được thực hiện việc quảng cáo làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của đội ngũ luật sư, nghề luật sư”.
Tuy nhiên trên thực tế, khi thực hiện hoạt động marketing, có một số luật sư, TCHNLS chưa tuân thủ các quy định nêu trên của Luật luật sư và Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư dẫn đến việc bị xử lý kỷ luật4. Theo kết quả khảo sát về hoạt động marketing 55,8% người tham gia khảo sát cho rằng phải cung cấp các thông tin có thật; 85,6% người tham gia khảo sát cho rằng phải cung cấp các thông tin trung thực; 70,7% người tham gia khảo sát cho rằng không được cung cấp các thông tin gây hiểu lầm; 73% người tham gia khảo sát cho rằng luật sư/TCHNLS phải chịu trách nhiệm khi cam kết trong quảng cáo về chất lượng dịch vụ của luật sư; 75,8% người tham gia khảo sát cho rằng không được thực hiện việc quảng cáo làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của luật sư và nghề luật sư; 66,5% người tham gia khảo sát cho rằng không được sử dụng các thông tin của khách hàng, thông tin về vụ việc của khách hàng trong hoạt động marketing. Kết quả khảo sát trên cho thấy, có khoảng từ khoảng 24 – 44% người tham gia khảo sát chưa ý thức rõ ràng về nghĩa vụ của luật sư và TCHNLS khi thực hiện hoạt động marketing. Kết quả nêu trên phần nào phản ánh nguy cơ các luật sư và TCHNLS này có thể vi phạm các nghĩa vụ mà luật sư và TCHNLS phải tuân thủ khi thực hiện hoạt động marketing và hậu quả xấu nhất có thể phải gánh chịu là một trong những hình thức xử lý kỷ luật theo Điều 85, Luật luật sư vào gồm: Khiển trách; Cảnh cáo; Tạm đình chỉ tư cách thành viên Đoàn luật sư từ sáu tháng đến hai mươi bốn tháng; Xoá tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn luật sư.
Thứ ba, một số luật sư, TCHNLS gặp không ít khó khăn khi thực hiện hoạt động marketing.
Hiện nay, đa phần các TCHNLS tại Việt Nam đều có quy mô vừa và nhỏ, ngân sách, nhân sự và thời gian dành cho hoạt động marketing còn hết sức khiêm tốn. Tuy nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động marketing đối với hoạt động nghề nghiệp nhưng các luật sư và TCHNLS hiện còn gặp khá nhiều thách thức, khó khăn khi thực hiện hoạt động marketing, cụ thể: (i)Ý kiến của các luật sư: Có đến 50% người tham gia khảo sát cho biết là họ chưa có kiến thức, kỹ năng cơ bản về marketing; 41,7% Chưa có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin khi thực hiện hoạt động marketing; 42,% Chưa có khả năng xử lý khủng hoảng truyền thông, đặc biệt trong môi trường internet và đặc biệt là có đến 65% người Chưa được đào tạo về marketing gắn với đặc thù của hoạt động nghề nghiệp5; (ii) Các luật sư thành viên và luật sư điều hành các tổ chức hành nghề luật sư cho biết thông tin về việc bồi dưỡng nội bộ về marketing như sau: 23,5% cho biết có tổ chức các chương trình bồi dưỡng nội bộ về marketing, tuy nhiên đến 76,5% cho biết là tổ chức hành nghề luật sư nơi mình đang công tác chưa từng tổ chức hoạt động bồi dưỡng về marketing6; (iii) Ý kiến của các luật sư thành viên, luật sư điều hành tổ chức hành nghề luật sư: 50,9% người tham gia khảo sát cho rằng nhân sự quản lý tổ chức hành nghề luật sư chưa có kiến thức/kỹ năng để thực hiện hoạt động marketing một cách chuyên nghiệp, hiệu quả; 49,1% Thiếu nhân viên có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin khi thực hiện hoạt động marketing; 32,7% Chưa có khả năng xử lý khủng hoảng truyền thông, đặc biệt trong môi trường internet; 52,1% Chưa có chiến lược/kế hoạch marketing hoặc chiến lược/kế hoạch marketing không hiệu quả.
Như vậy, có thể thấy, các luật sư, nhân sự quản lý, điều hành ở các tổ chức hành nghề luật sư gặp rất nhiều khó khăn, thách thức khi tiến hành hoạt động marketing. Một số điểm chung có thể thấy là phần lớn các luật sư, luật sư thành viên, luật sư điều hành tổ chức hành nghề luật sư và tổ chức hành nghề luật sư đều trả lời là chưa có kiến thức, kỹ năng cơ bản về marketing và chưa được đào tạo về marketing gắn với đặc thù nghề nghiệp.
Thứ năm, một số luật sư, TCHNLS mắc một số lỗi khi thực hiện hoạt động marketing.
Việc nhận diện những lỗi thường gặp của luật sư và TCHNLS khi thực hiện hoạt động marketing giúp khắc họa một cách toàn diện hơn thực trạng triển khai hoạt động marketing của luật sư và TCHNLS tại Việt Nam hiện nay và những vấn đề cần phải chú trọng để có thể khắc phục những hạn chế, bất cập đã được nhận diện. Khi thực hiện hoạt động marketing các luật sư và TCHNLS trên thế giới thường mắc những lỗi khá điển hình7. Một số luật sư tại Việt Nam hiện nay cho rằng mình thường có những lỗi sau khi thực hiện hoạt động marketing8:
– Chưa xác định rõ ràng mục tiêu thực hiện hoạt động marketing. Thực tế này phản ánh việc luật sư và TCHNLS chưa có phương pháp để xác định mục tiêu thực hiện hoạt động marketing. Mục tiêu là kim chỉ nan, là yếu tố đảm bảo hiệu quả cho bất cứ kế hoạch, dự án, dự định, hoạt động cụ thể nào. Xác định mục tiêu không rõ ràng đồng nghĩa với việc sẽ khó có thể xác định được loại hình và công cụ marketing phù hợp dẫn đến việc hoạch định hoạt động marketing không hiệu quả.
– Hoạt động marketing chưa hướng đến đúng đối tượng khách hàng. Thực tế này phần nào đó phản ánh việc thiếu kiến thức và kỹ năng trong việc triển khai hoạt động marketing.
– Chưa đặt đúng địa vị của khách hàng khi xây dựng kế hoạch và thực hiện hoạt động marketing. Việc không định vị được khách hàng và không lựa chọn được công cụ marketing phù hợp với nhóm khách hàng mục tiêu sẽ khiến cho hoạt động marketing kém hiệu quả.
– Chưa quan tâm, liên hệ thường xuyên với khách hàng hiện tại được đánh giá là lỗi khá điển hình của các luật sư và TCHNLS tại Việt Nam hiện nay. Dịch vụ pháp lý của luật sư có đặc thù là khách hàng có thể sẽ khó khăn trong việc đánh giá sự khác biệt về chất lượng dịch vụ pháp lý của luật sư và TCHNLS với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt đối với những khách hàng không có thói quen sử dụng dịch vụ pháp lý. Bên cạnh đó, không phải lúc nào khách hàng cũng ngay lập tức đánh giá và hiểu được giá trị của những sản phẩm do luật sư và TCHNLS cung cấp. Do đó khi đã có khách hàng sử dụng dịch vụ pháp lý và đã hài lòng về dịch vụ pháp lý mà mình cung cấp thì cần phải thường xuyên chăm sóc khách hàng đó, nếu không khả năng khách hàng đó quên luật sư, TCHNLS hay bị các luật sư và tổ chức hàng nghề luật sư khác tiếp cận là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Thực tế cho thấy, rất khó khăn để có được một khách hàng mới, chi phí về thời gian, nhân sự và các nguồn lực khác cũng tốn kém hơn nhiều việc tiếp cận với các khách hàng đã sử dụng dịch vụ của luật sư và TCHNLS.
– Nhiều luật sư và TCHNLS cho biết là chưa có kế hoạch marketing cụ thể, rõ ràng; chưa đo lường kết quả/hiệu quả thực hiện hoạt động marketing; chưa biết cách từ chối vụ việc, khách hàng gắn với việc quảng bá về các dịch vụ pháp lý khác và chưa tận dụng triệt để các kênh marketing sẵn có. Thực tế này phản ảnh việc hiện còn rất nhiều luật sư và TCHNLS chưa có kiến thức và kỹ năng liên quan đến những vấn đề khá quan trọng của hoạt động marketing như chưa có kế hoạch marketing, chưa biết cách đo lường hiệu quả của hoạt động marketing cũng như chưa biết tận dụng các kênh marketing hiện có.
Từ những lỗi khi thực hiện hoạt động marketing của luật sư và TCHNLS thường gặp phải được nhận diện nêu trên cho thấy, phần lớn những lỗi nêu trên đều xuất phát từ việc thiếu hiểu biết các kiến thức, kỹ năng cơ bản về marketing gắn với đặc thù hoạt động nghề nghiệp của luật sư và TCHNLS.
2. Nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng marketing cho luật sư và tổ chức hành nghề luật sư tại Việt Nam
Tại nhiều quốc gia trên thế giới, hoạt động marketing của luật sư đã được quan tâm sớm hơn với các công trình nghiên cứu được công bố đầu thập niên 80 của thế kỉ trước. Từ những giai đoạn sơ khai này, trên cơ sở những khảo cứu tại bang Arkansas (Hoa Kỳ), D.K.Darden và các cộng sự của mình đã kết luận trong bài viết “The Marketing of Legal Services” (1981) đăng trên Journal of Marketing rằng việc sử dụng một chiến lược marketing thành công sẽ mang lại hiệu quả tốt hơn khi luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng9. Các kiến thức và kỹ năng cho luật sư về marketing đã được đưa vào trong các chương trình đào tạo của các trường luật tại Mỹ và trong các chương trình đào tạo kỹ năng thực hành nghề nghiệp (Legal Practice Course) tại nhiều trường đại học tại Anh.
Trong các chương trình đào tạo luật của các cơ sở đào tạo luật tại Việt Nam hiện nay đều chưa giảng dạy về các kiến thức và kỹ năng marketing cho người thực hành nghề luật. Các chương trình bồi dưỡng do Trung tâm bồi dưỡng nghiệp vụ luật sư thuộc Liên đoàn luật sư Việt Nam10 tổ chức trong nhiều năm trở lại đây chưa có khóa bồi dưỡng nào về hoặc liên quan đến kiến thức, kỹ năng marketing cho luật sư, TCHNLS.
Trong các chương trình đào tạo nghề luật sư hiện nay tại Học viện Tư pháp, một số kiến thức, kỹ năng về marketing cho luật sư mới bước đầu được đưa vào giảng dạy. Chương trình chi tiết đào tạo nghề luật sư chất lượng cao, một số kiến thức và kỹ năng liên quan đến marketing cho luật sư đã được giảng dạy trong các bài: Bài 2: Đạo đức và ứng xử nghề luật sư (Tọa đàm – Thiết lập, duy trì, phát triển quan hệ của luật sư với khách hàng (5 tiết); Tọa đàm – Những vấn đề luật sư cần lưu ý trong quan hệ với cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan, tổ chức khác (5 tiết); Quan hệ của luật sư với cơ quan thông tin đại chúng (5 tiết); Cạnh tranh nghề nghiệp và hoạt động quảng cáo trong hành nghề luật sư (5 tiết); Xây dựng, duy trì, phát triển quan hệ đồng nghiệp trong hành nghề luật sư (5 tiết); Bài 3: Một số kỹ năng chung trong hành nghề luật sư (Kỹ năng giao tiếp, phỏng vấn). Chương trình chi tiết đào tạo luật sư phục vụ hội nhập quốc tế, một số vấn đề liên quan đến hoạt động marketing mới chỉ bước đầu được đề cập trong Bài 3: Quy tắc Đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam. Chương trình chi tiết đào tạo nghề luật sư theo hệ thống tín chỉ: Bài 2 – Đạo đức và ứng xử nghề luật sư; Bài 3 – Kỹ năng bổ trợ trong hành nghề luật sư (Kỹ năng giao tiếp, phỏng vấn (10 tiết cả lý thuyết và thực hành).
Với các thông tin nêu trên cho thấy, đa phần các kiến thức, kỹ năng về marketing cho luật sư và tổ chức hành nghề luật sư chưa được đưa vào giảng dạy trong các chương trình đào tạo nghề luật sư một cách thích đáng. Đa phần các kiến thức, kỹ năng liên quan đến marketing được giảng dạy trong các bài về đạo đức hành nghề luật sư và với hình thức đào tạo là các buổi tọa đàm. Một số phân khúc nhỏ (kỹ năng giao tiếp) trong khối kiến thức và kỹ năng về marketing được giảng dạy trong phần các kỹ năng chung, kỹ năng bổ trợ cho luật sư.
Khi được hỏi về việc nhu cầu tham gia chương trình bồi dưỡng về kiến thức, kỹ năng marketing, 79,9 % người tham gia khảo sát thể hiện nguyện vọng muốn tham gia khóa bồi dưỡng về kỹ năng marketing cho luật sư và tổ chức hành nghề luật sư11. Những người mong muốn tham gia khóa bồi dưỡng về marketing cho luật sư thể hiện nguyện vọng được bồi dưỡng các kiến thức, kỹ năng như sau: 70,8% muốn bồi dưỡng kiến thức cơ bản về marketing cho luật sư và tổ chức hành nghề luật sư; 72,5% muốn bồi dướng kỹ năng xây dựng thương hiệu cá nhân cho luật sư; 55,6% muốn bồi dưỡng kỹ năng sử dụng các công cụ marketing truyền thống cho luật sư và tổ chức hành nghề luật sư; 79,2% muốn bồi dưỡng kỹ năng sử dụng các công cụ marketing số (digital marketing) cho luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; 67,4% muốn bồi dưỡng kỹ năng xây dựng chiến lược, kế hoạch marketing cho luật sư; 65,2% muốn bồi dưỡng kỹ năng xây dựng chiến lược, kế hoạch marketing cho tổ chức hành nghề luật sư; 64% muốn bồi dưỡng kỹ năng xử lý khủng hoảng truyền thông cho luật sư và tổ chức hành nghề luật sư. Một số người tham gia khảo sát mong muốn được bồi dưỡng kỹ năng quản lý các kênh marketing một cách hiệu quả, kỹ năng viết blog cá nhân…
Khi được hỏi về sự cần thiết trong việc có nên bổ sung kỹ năng marketing cho luật sư và tổ chức hành nghề luật sư vào giảng dạy trong các chương trình đào tạo tại Học viện Tư pháp, 83,5% người tham gia khảo sát đã trả lời là nên bổ sung kỹ năng này. Một số cá nhân cho rằng nên bổ sung nội dung này vào môn học nghề luật sư và đạo đức nghề luật sư trong các chương trình đào tạo luật sư tại Học viện Tư pháp (16,8%). Một số ý kiến khác cho rằng có thể bổ sung kiến thức, kỹ năng marketing dưới hình thức một môn học tự chọn vì đây là phần kiến thức, kỹ năng tập trung vào việc phát triển sự nghiệp (46,5%); 19,5% như một bài học với thời lượng nhiều buổi học trong một môn học; 16,8% cho rằng cần tổ chức dưới hình thức các hoạt động ngoại khóa12.
Qua việc nhận diện, phân tích và đánh giá về thực trạng kiến thức, kỹ năng marketing của luật sư và TCHNLS tại Việt Nam nêu trên có thể thấy được sự cần thiết phải có sự nghiên cứu xây dựng, triển khai các khóa bồi dưỡng và lồng ghép các kiến thức, kỹ năng về marketing trong các chương trình đào tạo nghề luật sư tại Việt Nam hiện nay. Có được sự đào tạo bài bản và bồi dưỡng cập nhật thường xuyên về các kiến thức, kỹ năng marketing, các luật sư và TCHNLS có thể định vị, nâng cao vị thế và năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay./.
CHÚ THÍCH
- Thạc sỹ, Giám đốc Trung tâm liên kết đào tạo luật sư thương mại quốc tế, Học viện Tư pháp.
- Hội nghị tổng kết tổ chức hoạt động năm 2020 và phương hướng hoạt động năm 2021, https://www.liendoanluatsu.org.vn/post; và Kết quả triển khai Chiến lược phát triển nghề Luật sư ở Việt Nam đến năm 2020, https://lsvn.vn/ket-qua-trien-khai-chien-luoc-phat-trien-nghe-luat-su-o-viet-nam-den-nam-2020.html; truy cập ngày 31/5/2021.
- http://www.luatdaiviet.vn/xem-tin-tuc/kinh-nghiem-luat-su-cac-cong-ty-luat-va-ba-suy-ngam-phap-ly?fbclid= IwAR3nfsrHGS5o1Z8HnzuX-fSgr_AfCo-MMbqyANtScRG4-A-4qlzmqOsxdco.
- Cổng thông tin điện tử Đoàn luật sư thành phố Hà Nội, Thông báo về việc xử lý kỷ luật Luật sư Trần Xuân Quang, nguồn truy cập https://luatsuhanoi.vn/thong-bao-thong-tin/thong-bao-vv-xu-ly-ky-luat-luat-su-tran-xuan- quang.html, truy cập: 10/8/2021.
- Ý kiến của những người tham gia khảo sát về hoạt động marketing cho luật sư và tổ chức hành nghề luật sư trong bối cảnh hội nhập quốc tế năm 2021.
- Ý kiến của những người tham gia khảo sát về hoạt động marketing cho luật sư và tổ chức hành nghề luật sư trong
- Top 10 Marketing Mistakes Lawyers Make and How to Avoid Them, https://attorneyatlawmagazine.com/ten- marketing-mistakes-lawyers-avoid, truy cập ngày 8/10/2021; Five internet marketing mistakes Lawyers make and How to avoid them.https://www.justlegalmarketing.com/marketing-strategy, truy cập ngày 8/10/2021.
- Ý kiến của những người tham gia Khảo sát về Hoạt động marketing cho luật sư và tổ chức hành nghề luật sư trong bối cảnh hội nhập quốc tế năm 2021.
Trả lời