Lịch sử phát triển Nghề luật sư ở Việt Nam
Tác giả: Ngô Thị Ngọc Vân [1] & Nguyễn Thị Thu Minh [2]
TÓM TẮT
Nghề luật sư cũng như các nghề luật khác, bên cạnh kiến thức, kỹ năng và phẩm chất đạo đức, cần nhận thức đúng đắn về chức phận nghề nghiệp, được đặt trong sự vận hành thống nhất của các thể chế tư pháp, tố tụng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, môi trường pháp lý và các yếu tố tác động khác đến hoạt động hành nghề luật sư ở Việt Nam. Để có thể tham gia cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng, từng bước xây dựng uy tín, hình ảnh, thương hiệu cá nhân của mỗi luật sư hay tổ chức hành nghề, điều quan trọng là cần hiểu biết sâu sắc về những đặc điểm và sự khác biệt trong hoạt động hành nghề luật sư ở Việt Nam trong mối tương quan về nghề luật sư ở một số nước phát triển.
Trên thế giới, sự hình thành và phát triển nghề luật sư từ thời điểm nào vẫn còn nhiều tranh cãi, nhưng có một đặc trưng nổi bật nhất khi tầng lớp hiệp sỹ – một loại hiệp sỹ đặc biệt – được hình thành chính là ở tinh thần xả thân vì nghĩa hiệp và sự tinh thông về pháp luật, coi đây là vũ khí, sức mạnh tinh thần đấu tranh chống lại áp bức, bất công, đứng bên cạnh người yếu thế. Ở Việt Nam, lịch sử tuy không lưu giữ được nhưng cũng ghi nhận pháp luật thành văn của Việt Nam đầu tiên phải kể đến công cuộc điển chế của các vị vua đời nhà Lý, trong đó Bộ Hình thư ra đời, để dân lấy làm tiện, “phép xử án được bằng thẳng rõ ràng”3. Nghiên cứu lịch sử của thời kỳ phong kiến cho thấy, nhận thức và quan niệm của xã hội về “thầy cung, thầy kiện” bị hiểu là lớp người không được trọng dụng, bị cấm ứng thi hoặc tiến cử làm quan. Phép thi hương tháng Tư năm Nhâm Ngọ (1462) dưới đời Lê Thánh Tông (1460-1497) quy định: “Học trò trong nước, không kể hạng quân hay dân, người nào xin thi, đều cho phép viên quan bảo quản và xã trưởng làm giấy cam đoan người ấy thực có đạo đức, hạnh kiểm, mới cho ứng thi. Còn những hạng người bất hiếu, bất mực, loạn luân và xui nguyên giục bị đều không được dự thi”4. Học giả Đào Duy Anh lập luận rằng: “Nhà lập pháp (thời quân chủ) dụng tâm làm cho dân bớt kiện tụng, như gia tội những người chống án không căn cứ, cấm nghề thầy kiện, thầy cung. Sở dĩ có điều này là vì dân nhà quê ta rất hiếu tụng, đó cũng là một ảnh hưởng của nông nghiệp”5.
Tuy diện “thầy cung, thầy kiện” không được phát triển và trọng dụng, nhưng tinh thần nhân văn của một số bậc minh quân cai trị dân vẫn thể hiện quan niệm “thương dân”, nhất là những người bị tù tội. Vua Lý Thánh Tông (1054-1072) khi ngự ở điện Thiên Khánh xử kiện, có công chúa Động Thiên đứng hầu bên cạnh, vua chỉ vào công chúa, bảo ngục lại rằng: “Ta yêu con ta cũng như lòng ta làm cha mẹ dân. Dân không hiểu biết mà mắc vào hình pháp, trẫm rất thương xót. Từ nay về sau, không cứ gì tội nặng hay nhẹ đều nhất luật khoan giảm”6. Lịch sử Việt Nam còn lưu giữ Bộ luật Hồng Đức (còn gọi là Lê triều hình luật) thời nhà Lê (1428-1788) với một ảnh hưởng sâu xa trong lịch sử phát triển của xã hội Việt Nam; cùng với nó là bộ Quốc triều khám tụng điều lệ như một cột mốc đánh dấu trong lịch sử lập pháp của Việt Nam có một bộ luật tố tụng riêng biệt, trong đó lần đầu tiên quy định “tội nhân không chịu nhận tội thì cho phép họ tự bào chữa, rồi xét lại kỹ lưỡng”7, hay bảo đảm có sự “biện luận”, xét xử thấu tình đạt lý, tâm phục khẩu phục8.
Lịch sử phát triển nghề luật sư ở Việt Nam gắn liền với thời điểm thực dân Pháp xâm lược nước ta, thông qua việc Hoàng đế Napoléon III ban hành Sắc lệnh ngày 25/7/1864 về tổ chức nền tư pháp ở Nam Kỳ, cho phép thiết lập hoạt động của những người bào chữa đảm trách việc biện hộ bên cạnh các Tòa án thuộc địa. Trong tổ chức nền tư pháp Nam Kỳ theo Sắc lệnh ngày 25/7/1864 của Hoàng đế Napoléon III, đã hình thành những người bào chữa (défenseur) đặt bên cạnh các Tòa án thuộc địa9. Những người bào chữa này đảm trách việc biện hộ và làm rõ cho việc thẩm xét những vụ kiện dân sự và thương mại, thi hành những bản án và phán quyết của Tòa, biện hộ cho những bị cáo và bị can trước Tòa đại hình và Tòa tiểu hình. Họ là những công chức được Thống đốc bổ nhiệm và bãi nhiệm, phải là công dân Pháp và trải qua kỳ thi tuyển theo pháp luật của Pháp. Bào chữa viên hoạt động theo mô hình của Pháp, vừa có tư cách người biện hộ, vừa là người thụ ủy thay mặt cho thân chủ trước Tòa (gần giống như đại tụng viên bên Pháp). Sau đó, người bào chữa được đổi thành “luật sư- biện hộ viên” (Avocat – défenseur) vào năm 1884, vẫn phải là công dân Pháp, được hưởng thù lao bào chữa theo thỏa thuận.
Chế định luật sư thời Pháp thuộc có những thay đổi theo hướng phục vụ quyền lợi của thực dân Pháp, có lúc nới lỏng về tiêu chuẩn nhưng sau đó lại xiết chặt. Với Sắc lệnh ngày 25/5/1930 (sau đó được sửa đổi bởi Sắc lệnh ngày 21/7/1931) do Toàn quyền Đông Dương ban hành, chế định luật sư được coi là có những cải tổ quan trọng, trong đó danh xưng “luật sư-biện hộ viên” đã được thay bằng “luật sư” và tổ chức thành 2 Luật sư đoàn riêng biệt ở Sài Gòn và Hà Nội, thực sự chấm dứt chế độ luật sư công chức, trở thành hội đoàn độc lập, có tư cách pháp nhân… Theo sự duy trì tổ chức hành nghề luật sư cũ vào năm 1930 thì chế độ luật sư “công chức” phải đóng tiền thế chân, do viên chức Chính phủ bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm, bị kiểm soát chặt chẽ về mặt kỷ luật bởi Nhà nước (giám đốc Sở Tư pháp) đã bị bãi bỏ, thay vào đó cho phép thù lao luật sư theo thỏa thuận; luật sư đoàn là hội đoàn độc lập, có tư cách pháp nhân, có tài sản riêng.
Để xác định được vị thế, tâm thế, trang bị nhận thức, kỹ năng và hành trang hoạt động nghề nghiệp, mỗi luật sư cần quan tâm tìm hiểu về lịch sử và tư tưởng nhân nghĩa của cha ông ta, đặc biệt là tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của luật sư và việc bảo đảm quyền tự bào chữa và nhờ luật sư, người khác bào chữa, bảo vệ quyền lợi (gọi chung là quyền bào chữa) đã được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật tố tụng ở Việt Nam.
Sau một thập kỷ bôn ba qua các lục địa Âu, Á, Phi, Mỹ…, vừa lao động vừa kiếm sống, bằng nhãn quan tinh tường và trực tiếp hòa mình vào đời sống của giai cấp công nhân cùng khổ, Nguyễn Ái Quốc thật sự đã có được điều kiện để tiếp cận với các hệ tư tưởng khác nhau, trong đó có tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản, về các thể chế chính trị và pháp lý, về đời sống và cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức. Chỉ khi đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã thấm nhuần tư tưởng về quyền tự do dân chủ của người dân không thể tách rời với quyền của các dân tộc thuộc địa, sự thống nhất giữa mục tiêu giành độc lập dân tộc và thực hiện các quyền tự do dân chủ của nhân dân. Không có độc lập dân tộc thì không thể có quyền tự do dân chủ của nhân dân và ngược lại, không bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân thì cuộc cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo và tiến hành mất đi động lực chủ yếu của nó.
Nguyễn Ái Quốc phân biệt với thứ “công lý” giả tạo, bất công của chủ nghĩa thực dân Pháp áp đặt trên đất nước ta, trực tiếp phê phán cả một số luật sư Pháp khi đóng vai trò của kẻ thực dân10. Người cũng phê phán một lớp luật gia người Việt làm nô lệ cho ách pháp lý của thực dân (như ông ông N.K.V tiến sỹ luật, tiến sỹ khoa chính trị và kinh tế làm việc tại Tòa biện lý Sài Gòn) khi ca tụng, sùng bái những kẻ thực dân là “chiến sỹ vô song của tiến bộ và là sứ giả của văn minh”11. Một trong những biểu hiện của sự bất bình đẳng trên thực tế là “có những thanh niên bản xứ đã học đã học qua các trường đại học của chính quốc và đậu bằng tiến sĩ y khoa hoặc luật khoa, vẫn không thể làm được nghề nghiệp của mình trong nước mình nếu họ không vào quốc tịch Pháp”12.
Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sở dĩ Người luôn quan tâm đến sự phát triển của đội ngũ luật sư bởi trong một hoàn cảnh và thời điểm đặc biệt, khi bị chính quyền Hồng Kông bắt giữ ngày 06/6/1931, Người đã được luật sư F.H. Loseby cùng các cộng sự bào chữa trắng án qua 9 phiên tòa từ 31/7 đến 12/9/1931. Mặc dù có nhiều ý kiến nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của luật sư F.H. Loseby trong các phiên tòa nói trên, nhưng trên một phương diện ngược lại, chính cốt cách và bản lĩnh cách mạng của Nguyễn Ái Quốc đã cảm hóa và nâng vị thế của luật sư F.H. Loseby lên một tầm vóc mới13.
Trong hoàn cảnh chính quyền cách mạng non trẻ mới thành lập, phải chống chọi với thù trong giặc ngoài, thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng khác, nhưng chỉ sau 01 tháng 8 ngày đọc Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945, trong đó tạm thời cho duy trì các tổ chức đoàn thể luật sư theo Sắc lệnh ngày 25/5/1930 nói trên, với những sửa đổi tiêu chuẩn theo hướng: Muốn được liệt danh vào bảng luật sư tại Tòa thượng thẩm Hà Nội hay Sài Gòn phải có đủ những điều kiện sau đây: “1. Có quốc tịch Việt Nam, bất luận nam nữ; 2. Có bằng cử nhân luật; 3. Đã làm luật sư tập sự trong ba năm (kể từ ngày tuyên thệ) ở một Văn phòng luật sư thực thụ trong nước Việt Nam. Những người đã làm luật sư tập sự ở Pháp có thể xin tính thời hạn tập sự ở Pháp nhưng chỉ được trừ nhiều nhất là 12 tháng; 4. Có hạnh kiểm tốt; và 5. Được bằng chứng rằng đã hết hạn tập sự và đủ tư cách làm luật sư thực thụ”.
Có thể nói rằng, Sắc lệnh số 46/SL được ban hành thể hiện nhãn quan và bản lĩnh cực kỳ sắc bén của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc quán triệt chủ nghĩa Mác- Lênin về tính kế thừa cách mạng, trong đó có sự vận dụng mang tính sách lược các quy định pháp luật cũ, miễn là nội dung không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hòa. Chính sự vận dụng tài tình nguyên lý này nên cũng trong ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngay một Sắc lệnh số 47/SL về việc cho phép áp dụng tạm thời các quy định pháp luật cũ theo nguyên tắc nêu trên.
Trong khi đó, giới luật gia, luật sư trong thời kỳ này cũng còn đang tranh luận về sự tiếp thu các tư tưởng pháp lý tiến bộ đó trên khía cạnh “lý luận pháp lý tự nhiên (Droit nature)14, nhất là cuộc tranh luận về “tư pháp độc lập”. Thậm chí, đã có hẳn một cuộc tranh luận trong nội bộ Bộ Tư pháp về vấn đề nên hay không nên xóa bỏ chế độ luật sư của Pháp để lại và thay thế bằng chế độ bào chữa viên nhân dân ? Theo ghi chép của những người đương thời, cuộc đấu tranh về tư tưởng “giữ hay không giữ Đoàn Luật sư” gay cấn đến mức độ chỉ có Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tầm nhìn chiến lược và nhãn quan sắc bén, tinh tường, đã đi đến quyết định vẫn giữ lại tổ chức luật sư15. Điều này chứng minh tư tưởng Hồ Chí Minh đã phát triển biện chứng ở chỗ Người luôn phân biệt một cách rành mạch giữa thứ “khai hóa pháp lý” mang tính nô dịch của chế định luật sư thời Pháp thuộc, với việc kế thừa các giá trị tư tưởng văn minh pháp lý của nhân loại.
Không phải ngẫu nhiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta ngay từ khi thành lập chính quyền cách mạng dân chủ nhân dân đã quan tâm điển chế hóa chế định luật sư thành chế định của Hiến pháp. Bởi lẽ, cùng với quan niệm coi “dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”16, Người nhận thức luật sư với vai trò là người bảo vệ, giúp đỡ về mặt pháp lý cho người dân, đang thực hiện sứ mệnh thiêng liêng nhằm thực hiện một trong những quyền cơ bản của công dân là quyền bào chữa và nhờ người khác bào chữa cho mình. Suy rộng ra, nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng ta về vai trò của luật sư trong phát triển dân chủ và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, chính là nói đến vấn đề quyền con người được bảo đảm bằng pháp luật. Không thể nói đến dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nếu không đề cập đến một trong những chủ thể quan trọng, đóng vai trò quan trọng trong thể chế xã hội và pháp lý- đó là đội ngũ luật sư.
Thật vậy, xuất phát từ quan niệm: “Nghĩ cho cùng vấn đề tư pháp cũng như mọi vấn đề khác, trong lúc này là vấn đề ở đời, và làm người”17, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người “khởi xướng nền chính trị và pháp quyền vì con người, cho con người và của con người”18. Để thực hiện cho được tư tưởng nhân quyền bao la đó, Người đã cùng Đảng ta chỉ đạo việc xây dựng Hiến pháp năm 1946- bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Đông Nam Á- chứa đựng những tinh hoa cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối lãnh đạo cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân của đảng ta. Điều 67 của Hiến pháp năm 1946 quy định: “Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”. Sau này, Điều 101 Hiến pháp 1959 cũng khẳng định nguyên tắc: “Quyền bào chữa của người bị cáo được bảo đảm”.
Đây là một trong những quyền tự do cơ bản của công dân và từ đây, chế định luật sư đã trở thành chế định Hiến pháp- làm nền tảng cho toàn bộ hoạt động của luật sư trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Xét về phương diện lịch sử, điểm nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh là từ sự tiếp nhận có chọn lọc chế định luật sư dưới thời Pháp thuộc, tạm thời duy trì các yếu tố tích cực của chế định này, tiến tới khẳng định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong Hiến pháp. Chế định luật sư từ nay đã có được sự đảm bảo bởi đạo luật cơ bản của nước nhà và vai trò của luật sư trong cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng đã được khẳng định.
Sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với vai trò của luật sư trong thời kỳ mới giành chính quyền thể hiện thông qua việc chỉ đạo Bộ Tư pháp của Chính phủ liên hiệp lâm thời tiến hành tuyển lựa số thẩm phán đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trong số này có cả các luật sư cũ “tương đối sạch sẽ, không phạm tội ác gì lớn đối với nhân dân” và do Hội đồng tuyển chọn có cả Trưởng đoàn luật sư Hà Nội lúc bấy giờ là ông Nguyễn Huy Mẫn tham gia19. Không những vậy, luật sư Nguyễn Văn Hưởng còn được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin cậy và bổ nhiệm giữ chức Thứ trưởng Bộ Tư pháp và là một trong những người đầu tiên được Bác Hồ cấp giấy chứng minh “để liên lạc với các cơ quan hành chính, quân sự được dễ dàng”20. Nhiều luật gia, luật sư tên tuổi khác như các ông Vũ Đình Hoè (Bộ trưởng Bộ Tư pháp), Trần Công Tường, Phan Anh, Vũ Văn Hiền cũng thường xuyên được Chủ tịch Hồ Chí Minh tham khảo ý kiến về các công việc quốc gia đại sự, về “mặt pháp lý của cuộc đấu tranh”, trong đó liên quan đến mặt trận đàm phán ngoại giao khi ký kết Hiệp định sơ bộ 6-3-1946…21. Có thể nói, xung quanh Chính phủ liên hiệp lâm thời và Chủ tịch Hồ Chí Minh, luôn có vai trò đóng góp to lớn của đội ngũ luật gia, luật sư tên tuổi thời bấy giờ và đến lượt mình, các giá trị tư tưởng về pháp lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã động viên, góp phần giải quyết các mắc mứu, bất đồng nảy sinh trong quá trình hoạt động tư pháp, nhất là liên quan đến cuộc tranh luận về vấn đề “tư pháp độc lập”.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã đặt ra những thách thức “ngàn cân treo sợi tóc” với chính quyền cách mạng còn non trẻ. Một trong những vấn đề được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta quan tâm là làm thế nào bảo đảm được các quyền và tự do dân chủ của nhân dân trong điều kiện chiến tranh? Chế định luật sư trong thời chiến sẽ được thực hiện như thế nào?
Ngày 18/6/1949, trong điều kiện cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp đang ở giai đoạn hết sức quyết liệt, giữa bộn bề công việc của chính quyền cách mạng, trong khi tổ chức hành nghề luật sư như quy định trước đây chưa có điều kiện thực tế để hoạt động, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 69/SL, quy định “từ nay đến khi nào có thể lệ khác, trước các Tòa án thường và Tòa án đặc biệt xử việc tiểu hình và đại hình, trừ tòa án binh tại mặt trận, bị can có thể nhờ một công dân không phải là luật sư, bào chữa cho. Công dân do bị can đã tự chọn để bênh vực mình phải được ông Chánh án thừa nhận. Nếu bị can không có ai bênh vực, ông Chánh án có thể, tự mình hay theo lời yêu cầu của bị can, cử một người ra bào chữa cho bị can”. Điểm đặc biệt của chế định này là:
(a) Bị can có quyền nhờ người bào chữa trước Tòa án;
(b) Người bào chữa cho bị can có thể không nhất thiết phải là luật sư;
(c) Người bào chữa này không được nhận tiền thù lao của bị can hay của thân nhân bị can.
Từ Sắc lệnh số 69/SL nói trên, Bộ Tư pháp đã ban hành Nghị định số 01/NĐ-VY ngày 12/01195022, quy định chi tiết chế độ bào chữa viên nhân dân. Khi thiết lập chế độ bào chữa viên nhân dân, do quy định người đứng ra bênh vực không được nhận tiền thù lao của bị can hay của thân nhân bị can, nên được hướng dẫn chi tiết trong Nghị định số 885-HCTP ngày 4/6/1956 của Liên bộ Tài chính- Tư pháp (sau này Nghị định số 99-HCTP ngày 28/8/1957 của Liên bộ Tài chính- Nội vụ- Tư pháp sửa đổi).
Có thể nói, đây là thời điểm hình thành nên chế định bào chữa viên nhân dân đầu tiên ở nước ta và nó còn kéo dài rất lâu sau ngày đất nước được hoàn toàn giải phóng. Chế định bào chữa viên nhân dân là một chế định đặc thù của một giai đoạn lịch sử cách mạng của nước ta, không giống với bất kỳ một chế định tương tự nào của các nước trên thế giới. Bộ Tư pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa theo chỉ đạo của Bác Hồ đã tự “kiểm điểm” là “chúng ta chưa nhận thấy một cách sâu sắc tầm quan trọng của quyền tự do bào chữa trong chế độ dân chủ nhân dân của ta nói chung và trong nền tư pháp dân chủ nhân dân của ta nói riêng…, ý thức tôn trọng pháp luật của Nhà nước của chúng ta còn thiếu sót nhiều”. Từ đó, Bộ Tư pháp khẳng định dưới chế độ dân chủ nhân dân, quyền bào chữa là một quyền tự do dân chủ trọng yếu trong các quyền tự do dân chủ của người công dân.
Đại hội luật gia dân chủ quốc tế họp năm 1956 đã nhận định, quyền tự do bào chữa là “thành trì cần thiết cho các quyền tự do khác”, xâm phạm đến quyền tự do bào chữa thì không thể nào thực hiện được các quyền tự do dân chủ khác, mặc nhiên thủ tiêu các quyền tự do đó23. Có thể nói, chế định bào chữa viên nhân dân hoạt động trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp đã kịp thời phát huy tác dụng tích cực của nó trong việc tham gia và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trước Tòa án. Đó là nét đặc sắc chưa từng có tiền lệ trong lịch sử nghề nghiệp luật sư trên thế giới.
Sau khi đất nước thống nhất, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, nghề luật sư ở Việt Nam chậm được phát triển, trải qua nhiều thăng trầm. Chế định bào chữa viên nhân dân tiếp tục được duy trì, ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, các Đoàn bào chữa viên nhân dân được thành lập đặt bên cạnh Tòa án. Trên cơ sở quyền Hiến định nêu trong Hiến pháp 1980, Pháp lệnh về tổ chức luật sư năm 1987 được ban hành, tạo khuôn khổ pháp lý đầu tiên cho việc hình thành chế định luật sư, làm cơ sở cho việc thành lập các Đoàn Luật sư trên cả nước vào cuối thập niên 80 thế kỷ trước. Pháp lệnh luật sư 2001 đã kế thừa, lần đầu tiên quy định về các tiêu chuẩn chặt chẽ để trở thành luật sư, khẳng định, quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa (gọi chung là “quyền bào chữa”) ở Việt Nam được coi quyền Hiến định, phù hợp với các Công ước quốc tế của Liên Hợp quốc về các quyền dân sự, chính trị, kinh tế mà Việt Nam đã tham gia và ký kết từ năm 1982.
Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật liên quan đến hoạt động nghề nghiệp luật sư nói chung và bảo đảm quyền bào chữa nói riêng đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm đúng mức. Cùng với việc Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành các Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 2/01/2002 và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 liên quan một số nhiệm vụ trọng tâm và chiến lược cải cách tư pháp, Quốc hội đã thông qua các Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003, Luật luật sư năm 2006 (sửa đổi năm 2012), Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, Thông tư hướng dẫn của Bộ trưởng Bộ Công an (Thông tư số 70 ngày 10/10/2011, Thông tư số 46 ngày 10/10/2019), diện mạo đời sống tố tụng ở Việt Nam đã có những bước chuyển quan trọng, tạo nền tảng khuôn khổ pháp lý cho các chủ thể thực hiện các chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội và chức năng xét xử.
Vị trí, vai trò và chức năng xã hội của đội ngũ luật sư Việt Nam đã tạo được chỗ đứng trong xã hội, có được sự tin cậy nhất định từ phía các thiết chế quyền lực, quản lý Nhà nước, các chủ thể xã hội và công dân. Trong một chừng mực nhất định, hoạt động nghề nghiệp luật sư đã góp một phần đặc biệt quan trọng trong cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, đóng vai trò ngày càng đậm nét trong quá trình dân chủ hóa hoạt động tố tụng, từng bước bảo đảm quyền con người trong đời sống tư pháp. Nhiều cơ quan tiến hành tố tụng cấp Trung ương và địa phương đã có nhận thức, đánh giá đúng đắn vai trò, trách nhiệm và sự tham gia của luật sư trong các vụ án hình sự, nên đã bước đầu tạo điều kiện thuận lợi cho việc luật sư tham gia tố tụng, nhiều kiến nghị của luật sư đã được giải quyết, nhiều bản án đã ghi nhận quan điểm bào chữa của luật sư, làm cơ sở hình thành phán quyết của Tòa án.
Vào ngày 12/5/2009, Liên đoàn Luật sư Việt Nam (LĐLSVN) chính thức được thành lập với tư cách là một tổ chức xã hội- nghề nghiệp toàn quốc, trở thành ngôi nhà chung của giới luật sư cả nước. Sau 02 nhiệm kỳ, số lượng luật sư cả nước đã phát triển nhanh từ 5.300 luật sư vào năm 2009, đến nay đã tăng lên 14.400 luật sư chính thức và khoảng 5.000 người tập sự hành nghề luật sư, đạt tỷ lệ 01 luật sư/trên 9.000 người, riêng Đoàn luật sư thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh chiếm hơn 2/3 tổng số luật sư của cả nước24. LĐLSVN xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng đội ngũ luật sư có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sạch, tạo lập niềm tin với Đảng, Nhà nước và cộng đồng xã hội về đội ngũ luật sư đông về số lượng, mạnh về chất lượng, góp phần vào ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phát triển kinh tế và hội nhập như Nghị quyết số 49- NQ/TW của Bộ Chính trị đã đề ra. Việc xây dựng và ban hành Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam có hiệu lực từ ngày 20/7/2011, được sửa đổi, bổ sung vào cuối năm 2019 đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng các giá trị chuẩn mực của nghề luật sư ở Việt Nam.
Bằng sự trải nghiệm và kiên trì đấu tranh, đội ngũ luật sư Việt Nam đã đứng được trong lòng xã hội và Luật luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012), các BLTTHS mới được ban hành năm 2015 đã tạo ra một vị thế mới, ở đó vai trò của luật sư được khẳng định “góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế và xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Hình ảnh các luật sư lăn xả đấu tranh bảo vệ công lý, nhiều số phận bị hàm oan đã được giải oan, tham gia ngày càng tích cực hơn vào các hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý cho nhân dân và doanh nghiệp đã trở thành chỗ dựa tin cậy của thể chế chính trị nước nhà, nền tư pháp có được sự phản biện cần thiết để có được sự cân bằng, khách quan. Có thể nói đó là thành quả lớn nhất của định hướng cải cách tư pháp, cùng với những chuyển biến ban đầu đáng khích lệ của hệ thống xét xử coi kết quả tranh tụng dân chủ là cơ sở hình thành phán quyết của Tòa án. Hệ thống các cơ quan Nhà nước và các cơ quan tiến hành tố tụng đã có được nhận thức mới và có sự hỗ trợ nhất định cho đội ngũ luật sư hành nghề và tham gia tố tụng, cơ chế quản lý đã tạo điều kiện cho tổ chức xã hội nghề nghiệp luật sư chủ động tiến hành các biện pháp tự quản. Cơ hội tham gia thị trường dịch vụ pháp lý, tư vấn và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho các tổ chức, doanh nghiệp trong nước và quốc tế đã được mở ra khi đất nước hội nhập sâu vào đời sống kinh tế quốc tế, tạo sự tin cậy từ Đảng, Nhà nước và người dân. Những thành quả đó tuy còn khiêm tốn, nhưng rất cơ bản, không thể phủ nhận.
Trong điều kiện Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương xây dựng một nền tư pháp dân chủ, đề cao việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, nguyên tắc bình đẳng, công bằng, công khai, minh bạch trong kiến thiết hệ thống cơ quan tư pháp, việc làm rõ hơn địa vị pháp lý và vai trò của luật sư cũng như nghề luật sư có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn./.
CHÚ THÍCH
- Tiến sỹ, Giảng viên, Phó trưởng Khoa Đào tạo Luật sư, Học viện Tư pháp.
- Thạc sỹ, Giảng viên Khoa Đào tạo Luật sư, Học viện Tư pháp.
- Đại Việt sử ký toàn thư (1998) (dịch theo bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) – Tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.263.
- Việt sử thông giám cương mục, (1959), Quốc sử quán triều Nguyễn – Tập X, Tổ biên dịch Ban nghiên cứu văn sử địa biên dịch và chú giải, (1951) Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, tr. 75/1023.
- Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Bốn phương, Sài Gòn, tr.154.
- Đại Việt sử ký toàn thư , (1998), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 271, 273.
- Lê Triều Hình luật (Luật Hồng Đức), (1998) Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr. 359.
- Lê Triều Hình luật- Sđd- từ tr. 343 đến 373.
- Phan Đăng Thanh, (tháng 5/1996) Các bước hình thành và phát triển của nghề luật sư bào chữa ở Việt Nam (1864-1996), Đề tài tiểu luận kiểm tra công nhận luật sư thực thụ, tr.8.
- Hồ Chí Minh, Bàn về Nhà nước và pháp luật- Sđd, tr. 41.
- Hồ Chí Minh, Bàn về Nhà nước và pháp luật- Sđd, tr. 208.
- Hồ Chí Minh, Bàn về Nhà nước và pháp luật- Sđd, tr. 22.
- Xem thêm: Nguyễn Việt Hồng (1931), Vụ án Hồng Kông Nxb Lao Động, Hà Nội, 1996.
- Vũ Đình Hoè (2001) Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa thông tin và Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, tr. 217.
- Vũ Đình Hoè, Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Sđd, tr. 228-229.
- Hồ Chí Minh (1987), Toàn tập, Nxb Sự Thật, Hà Nội, Tập 7, tr. 548.
- Hồ Chí Minh (1985), Nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội, tr. 87.
- Nguyễn Khắc Mai (2001), 100 câu nói về dân chủ của Hồ Chí Minh, NxbTrẻ, TP. Hồ Chí Minh, tr. 72.
- Vũ Đình Hoè, Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Sđd, tr. 53.
- Nội san Đoàn Luật sư TPHCM – Xuân Nhâm Ngọ 2002, tr.7.
- Vũ Đình Hoè, Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Sđd- tr. 90.
- Số chuyên đề về Pháp lệnh luật sư năm 2001, Nxb Tư pháp, Hà Nội 2002, tr.183.
- Công báo nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1956), Số 34, tr.328.
- Số liệu của Liên đoàn Luật sư Việt Nam tính đến ngày 16/7/2020.
Trả lời