Mục lục
Các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học ở Việt Nam hiện nay
Tác giả: Lê Anh Tuấn [1]
TÓM TẮT
Trong thời gian qua, quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học đã có nhiều tiến bộ và đạt được nhiều kết quả góp phần đổi mới giáo dục sau đại học. Tuy nhiên, vấn đề này cũng còn nhiều bất cập, hạn chế trong tư duy quản lý cũng như hoạt động thực tiễn đào tạo sau đại học ở nước ta. Bài viết đưa ra một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học ở Việt Nam hiện nay.
1. Khái quát chung về quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học
Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo sau đại học là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các hoạt động giáo dục và đào tạo sau đại học (bao gồm đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ, bồi dưỡng sau đại học), do các cơ quan quản lý giáo dục của nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ do nhà nước ủy quyền nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo trong đó nâng cao chất lượng giáo dục bậc cao, duy trì trật tự, kỉ cương và nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học theo đó bao gồm bốn nhóm nội dung chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, hoạch định chính sách đào tạo sau đại học. Cụ thể: Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển đào tạo sau đại học; ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về đào tạo sau đại học; ban hành điều lệ nhà trường, chuẩn cơ sở đào tạo, quy chế tổ chức và hoạt động của cơ sở đào tạo; quy định hoạt động dạy học và đào tạo trong nhà trường và ngoài nhà trường; quy định về đánh giá kết quả học tập và rèn luyện; khen thưởng và kỷ luật đối với người học; quy định tiêu chuẩn chức danh, chế độ làm việc của nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; danh mục khung vị trí việc làm và định mức số lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục; tiêu chuẩn người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu các cơ sở giáo dục; chuẩn nghề nghiệp nhà giáo; ban hành quy tắc ứng xử của nhà giáo, của cơ sở giáo dục; quy định về điều kiện, tiêu chuẩn và hình thức tuyển dụng giáo viên; quy định mục tiêu, chương trình, nội dung đào tạo; khung trình độ quốc gia; tiêu chuẩn nhà giáo; tiêu chuẩn, định mức sử dụng cơ sở vật chất, thư viện và thiết bị trường học; việc biên soạn, sử dụng sách giáo trình; việc thi, kiểm tra, tuyển sinh, liên kết đào tạo và quản lý văn bằng, chứng chỉ; việc công nhận văn bằng do cơ sở giáo dục nước ngoài cấp được sử dụng trong nước; quy định về đánh giá chất lượng đào tạo; tổ chức, quản lý việc bảo đảm chất lượng đào tạo và kiểm định chất lượng tạo; thực hiện công tác thống kê, thông tin về tổ chức và hoạt động đào tạo.
Thứ hai, tổ chức bộ máy quản lý đào tạo sau đại học: tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý nhà giáo và cán bộ quản lý đào tạo sau đại học.
Thứ ba, huy động và quản lý các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo sau đại học: tổ chức, quản lý công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong lĩnh vực đào tạo sau đại học; tổ chức, quản lý công tác hợp tác quốc tế, đầu tư của nước ngoài về đào tạo sau đại học.
Thứ tư, thanh tra, kiểm tra nhằm thiết lập trật tự kỷ cương pháp luật trong hoạt động đào tạo sau đại học, thúc đẩy sự nghiệp giáo dục và đào tạo phát triển.
Quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học là phương thức quản lý nhà nước về một lĩnh vực cụ thể cho nên nó có tính chất chung của quản lý nhà nước và quản lý hành chính nhà nước. Quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học còn có những đặc điểm sau:
Một là, kết hợp quản lý hành chính và quản lý chuyên môn trong các hoạt động quản lý đào tạo sau đại học: quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học ở cơ sở thực chất là triển khai các hoạt động hành chính nhà nước trong quá trình chỉ đạo các hoạt động đào tạo ở cơ sở. Chỉ trên cơ sở biết kết hợp quản lý hành chính và quản lý chuyên môn thì mới có thể chỉ đạo tốt hoạt động đào tạo sau đại học.
Hai là, tính quyền lực nhà nước trong hoạt động quản lý. Đây là hoạt động nổi bật của quản lý nhà nước và quản lý hành chính ở mọi lĩnh vực nói chung, đó là tính quyền lực trong hoạt động quản lý: tư cách pháp nhân trong quản lý, công cụ và phương pháp quản lý và quan hệ thứ bậc trong quản lý.
Ba là, kết hợp Nhà nước – xã hội trong quá trình triển khai quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học. Dân chủ hoá và xã hội hoá công tác giáo dục là một tư tưởng có tính chiến lược và có vai trò rất to lớn trong sự phát triển giáo dục nói chung và quản lý đào tạo sau đại học nói riêng.
2. Một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học ở Việt Nam hiện nay
– Trong thời gian qua, quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học đã có nhiều tiến bộ và đạt được nhiều kết quả góp phần đổi mới giáo dục đại học. Tuy nhiên, quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học đang còn quá nhiều vấn đề bất cập và hạn chế.
Thứ nhất, mô hình quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học còn chậm đổi mới, một số mặt chưa sát với thực tiễn xã hội, chưa thực sự khuyến khích được các nhà đầu tư tham gia vào lĩnh vực này, đặc biệt là dưới tác động của công nghệ và quá trình số hóa.
Thứ hai, thách thức của việc đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của xã hội và nền kinh tế đối với nguồn nhân lực trình độ cao. Bài toán chất lượng đào tạo là một thách thức lớn của công tác quản lý nhà nước đối với đào tạo sau đại học trước ảnh hưởng cạnh tranh của các trường đại học trong khu vực và thế giới.
Thứ ba, dưới tác động của quá trình hội nhập và toàn cầu hóa, nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao đang chảy mạnh từ các nước đang phát triển sang các nước công nghiệp phát triển.
Thứ tư, một thách thức lớn cho công tác quản lý nhà nước đối với đào tạo sau đại học là cách thức tổ chức để chuyển tải nội dung chương trình đào tạo đến người học. Điều này tạo áp lực lớn cho công tác quản lý nhà nước đối với đào tạo sau đại học về chuẩn bị nguồn lực, đội ngũ giảng viên, không gian học tập.
Thứ năm, để đáp ứng được nhu cầu nhân lực có chất lượng cao và đa dạng ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế công nghệ, hoạt động quản lý nhà nước đối với đào tạo sau đại học phải đổi mới mạnh mẽ từ hoạt động quản lý đào tạo đến quản trị nhà trường để tạo ra những “sản phẩm” – nhà khoa học tương lai có năng lực làm việc trong môi trường sáng tạo và cạnh tranh.
Thứ sáu, vấn đề đổi mới quản lý cả ở cấp vĩ mô và cấp cơ sở đối với đào tạo sau đại học. Với sự xuất hiện ở những lớp học ảo, nghề ảo, chương trình ảo, và những yêu cầu của thị trường lao động với những kỹ năng sáng tạo mới, đòi hỏi có sự quản lý chung để một mặt hướng tới sự bảo đảm “mặt bằng” chất lượng; mặt khác, đáp ứng nhu cầu đa dạng của nền kinh tế sáng tạo và cạnh tranh. Tuy nhiên, điều này cũng đang là vấn đề của công tác quản lý cả ở cấp vĩ mô và cấp cơ sở, khi hệ thống cơ sở pháp lý đang trong quá trình bổ sung, hoàn thiện, về mặt quản lý, để thống nhất mặt bằng chất lượng, đòi hỏi phải tiến hành xây dựng các chuẩn và tổ chức đào tạo theo hướng chuẩn đầu ra.
– Nguyên nhân của những hạn chế trong quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học.
Nhóm nguyên nhân khách quan.
Một là, từ cơ chế cũ (tập trung bao cấp) sang cơ chế quản lý mới (bằng pháp luật) đã phát sinh nhiều vấn đề mới trong quản lý khiến phạm vi điều chỉnh thay đổi, năng lực cơ quan quản lý nhà nước không bao quát được hết các lĩnh vực hoạt động;
Hai là, đào tạo sau đại học phát triển nhanh chóng, đa dạng và toàn diện trong xu thế hội nhập quốc tế khiến quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học khó theo kịp;
Ba là, năng lực tài chính nhà nước còn hạn hẹp, các điều kiện phục vụ đào tạo chưa theo kịp yêu cầu ngày càng cao về chất lượng nhân lực (đất đai, kinh phí xây dựng, phòng học, trang thiết bị…)
Nhóm nguyên nhân chủ quan.
Một là, tư duy quản lý nhà nước về giáo dục sau đại học bị ảnh hưởng của tư duy quản lý tập trung, có xu hướng bị hành chính hóa;
Hai là, hệ thống pháp luật về đào tạo sau đại học chưa hoàn thiện dẫn đến việc thi hành còn gặp nhiều khó khăn. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa đồng bộ, nhiều quy phạm thiếu cụ thể hoặc thiếu quy phạm điều chỉnh;
Ba là, chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý nhà nước đối với cơ sở đào tạo sau đại học chưa đồng đều. Đội ngũ quản lý đào tạo sau đại học cũng cần được chuẩn hóa trên cơ sở chức danh nghề nghiệp gắn với vị trí việc làm, phải có đủ năng lực làm việc trong môi trường sáng tạo cao và tự chịu trách nhiệm.
Bốn là, chưa theo kịp yêu cầu phát triển của đào tạo sau đại học. Công tác về dự báo nhu cầu lao động, cơ cấu ngành nghề không được xây dựng phù hợp với quy mô đào tạo, chất lượng;
Năm là, năng lực cán bộ quản lý chuyên trách về đào tạo sau đại học, số lượng và chất lượng đều không tương xứng với khối lượng công việc và đối tượng quản lý;
Sáu là, thiếu một chiến lược phát triển dài hạn, khả thi và hội nhập với xu thế phát triển giáo dục đại học của thế giới; một chiến lược được xây dựng trên cơ sở các nghiên cứu thực chứng, luận cứ khoa học vững chắc và đúc rút thực tiễn phát triển giáo dục sau đại học của các quốc gia trên thế giới.
– Từ những hạn chế trong quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học nêu trên có thể đưa ra một số các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất, đổi mới tư duy quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học.
Trước bối cảnh đổi mới và đột phá lớn của Công nghiệp 4.0, để hoàn thiện quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học, đổi mới tư duy quản lý là yêu cầu trọng tâm và tiên quyết được đặt ra trước một loạt những thay đổi về mục tiêu, mô hình, phương thức và áp dụng thực tiễn.
Xây dựng triết lý giáo dục nói chung và đào tạo sau đại học nói riêng.
Nằm ở vị trí then chốt trong hệ thống giáo dục, triết lý giáo dục đại học và sau đại học ở Việt Nam cũng cần được xây dựng, tạo điều kiện cho công tác quản lý nhà nước và vận hành của các chủ thể. Hai vấn đề cần được xác định và nghiên cứu phân tích rõ để xây dựng triết lý giáo dục đại học và sau đại học là: (1) Vấn đề tự chủ về mục tiêu hoạt động trong cơ sở giáo dục đại học; (2) Phạm vi tự chủ được giao cho các cơ sở giáo dục đại học2. Triết lý giáo dục riêng của từng cơ sở đào tạo cũng được khuyến khích xây dựng phù hợp với chính tôn chỉ, mục tiêu vận hành của cơ sở đó, hướng tới xu thế hội nhập với giáo dục quốc tế.
Nâng cao nhận thức và đổi mới tư duy về phát triển giáo dục đào tạo sau đại học trong tổng thể chiến lược phát triển của quốc gia.
Đặt trong việc phát triển chiến lược tổng thể tầm nhìn dài hạn, đào tạo giáo dục sau đại học phải được nâng cao về mặt tư duy theo hướng đổi mới, sáng tạo, hội nhập toàn diện với hệ thống giáo dục toàn thế giới3. Việc đổi mới tư duy giáo dục hiện nay cần “gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; hệ thống giáo dục được chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và mang đậm bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến ở khu vực”4.
Mô hình quản lý giáo dục tập trung hiện nay cần được thay đổi về mặt tư duy bằng cách chuyển đổi theo hướng trao quyền tự chủ và mở rộng không gian học thuật hơn cho các cơ sở đào tạo sau đại học. Với chính triết lý giáo dục được hình thành riêng, các cơ sở đào tạo sẽ vận hành theo cơ chế chủ động và tự chịu trách nhiệm bằng chính “uy tín” đào tạo của mình5. Các cơ sở đào tạo, khi đặt trong bối cảnh trao quyền tự chủ này, càng phải nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của tự chủ đại học trước sức ép cạnh tranh khu vực và quốc tế; về sự thay đổi của thị trường lao động; về sứ mạng của trường đại học trong chuẩn bị nguồn nhân lực bậc cao và tham gia tái cơ cấu thị trường lao động. Đồng thời, với việc trao quyền tự chủ vận hành và tự chịu trách nhiệm, các cơ sở đào tạo sau đại học sẽ gia tăng cam kết về chuẩn mực đầu ra hơn bởi quá trình kiểm soát chặt chẽ trong quá trình đào tạo.
Mở rộng không gian học thuật cho các trường, viện đào tạo sau đại học cần nâng cao nhận thức của lãnh đạo các cấp, cơ sở giáo dục, doanh nghiệp và toàn xã hội về tác động của công nghệ tới hoạt động tự chủ trong đào tạo và phổ biến tri thức. Tăng cường công tác quản lý nhà nước tạo hiểu biết và nhận thức đúng về bản chất, đặc trưng, các cơ hội và thách thức của thời đại công nghệ và kỹ thuật số để có cách tiếp cận, giải pháp phù hợp, hiệu quả. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước và quản trị đại học, quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học; bảo đảm tài chính bền vững và tăng cường tính minh bạch.
Tạo sự đồng thuận của các cấp, các bộ, ngành, các cơ sở đào tạo và các bên liên quan đến đào tạo sau đại học.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đào tạo sau đại học.
Công tác hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về quản lý giáo dục cần được nhìn nhận và tiến hành theo hướng coi các cơ sở giáo dục đào tạo đại học và sau đại học là những thực thể pháp nhân có quyền tự chủ cao. Chính sách và một loạt văn bản pháp luật cần được rà soát lại trong công tác sửa đổi, bổ sung trong đó nhấn mạnh vai trò tự chủ của các cơ sở đào tạo; đưa ra các quy định về tiêu chí tự chủ bao gồm tự do học thuật, tự chủ tài chính, tự chủ quản trị (cơ cấu và quản trị nhân lực, chế độ, tổ chức quản lý); bắt đầu với nhóm các đơn vị đào tạo thực hiện hoạt động chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, quyết toán như doanh nghiệp6.
Hành lang pháp lý được hoàn thiện theo hướng giao quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo sau đại học còn cần được xem xét ở phương diện về học phí, lệ phí, sử dụng nguồn vốn. Bởi lẽ, trong ba cơ chế tự chủ (nhân sự, tài chính, chuyên môn) thì tự chủ tài chính là vấn đề xuyên suốt, kết nối tất cả các hoạt động của cơ sở đào tạo. Tự chủ tài chính càng cao thì càng tạo ra sự “thông thoáng”, nên cần có sự tiết chế để nhìn lại các hoạt động của các nhà nước, nên vai trò của kiểm toán nhà nước trong vấn đề này là rất quan trọng7. Cơ chế lồng ghép học phí với an sinh xã hội cần được xem xét lại trong hoạt động hoàn thiện cơ sở pháp lý nhằm tạo điều kiện giao quyền tự chủ và hoạt động hiệu quả đi đối với chất lượng của các cơ sở đào tạo8. Điều đó đồng nghĩa với việc nhấn mạnh vai trò của kiểm toán nhà nước như một cơ chế đánh giá toàn diện, đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả đối với cơ chế tự chủ đại học, từ đó có đánh giá và kiến nghị sâu về thay đổi cơ chế, chính sách của nhà nước.
Thứ ba, kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học.
Trên mô hình quản lý tập trung, bộ máy quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học hoạt động theo nguyên tắc phối hợp ngành và lãnh thổ. Giải pháp kiện toàn bộ máy quản lý đào tạo sau đại học cần được đặt ra ở khía cạnh rà soát hệ thống pháp luật quy định về việc làm rõ chức năng, phạm vi và nghĩa vụ hoạt động của các cơ quan trong bộ máy quản lý đào tạo sau đại học. Công tác này đòi hỏi ở phạm vi rộng bao trùm các cơ quan theo ngành dọc chuyên môn lẫn theo lãnh thổ tổ chức nhằm giảm sự chồng chéo hoạt động, hoặc dàn trải, chưa trọng tâm hoặc thiếu hụt cơ chế quản lý.
Hoàn thiện bộ máy quản lý đào tạo sau đại học còn bao gồm xem xét và tổ chức lại cách quản trị cơ sở của chính các cơ quan cấu thành. Điều này đồng nghĩa với việc cơ cấu tổ chức tỷ lệ cán bộ quản lý, nguồn nhân lực chuyên môn đào tạo và giảng dạy, cán bộ thanh tra, giám sát và giúp việc. Điều đáng chú trọng hơn là yêu cầu hoàn thiện về năng lực và trình độ của đội ngũ quản lý nhà nước đối với đào tạo sau đại học, bậc học cao nhất trong hệ thống giáo dục hiện tại. Cần có giải pháp mạnh hơn về công tác tổ chức và thực thi các chương trình tập huấn, bồi dưỡng cũng như chiến lược dài hạn hơn về xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học bảo đảm về chất lượng, hợp lý về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và phát triển khoa học, công nghệ cho đất nước, gắn với yêu cầu khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Ngoài ra, vai trò của các đoàn thể, tổ chức quần chúng cần được tính đến trong việc kiện toàn bộ máy quản lý đào tạo sau đại học, bởi lẽ các tổ chức này, đặc biệt là các hội nghề nghiệp đảm bảo vai trò kiểm tra, giám sát của cộng đồng; thực hiện công tác giám sát chất lượng đào tạo đại học và sau đại học một cách khách quan hơn.
Thứ tư, nâng cao năng lực tổ chức và thực hiện chính sách đào tạo sau đại học.
Chiến lược và chính sách phát triển đào tạo sau đại học là công cụ để thực hiện mục tiêu phát triển giáo dục và sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả về giáo dục. Giải pháp về nâng cao năng lực tổ chức và thực hiện chính sách đào tạo sau đại học chính là cách thức nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục ở tầm vĩ mô và dài hạn. Chính sách hoạt động về tài chính trong quản lý giáo dục sau đại học cũng là một giải pháp cấp thiết hiện nay, khi vấn đề tự chủ về tài chính và phân bổ nguồn ngân sách vẫn là vấn đề còn tồn tại trong thực tiễn lẫn cơ sở lý luận. Theo đó, hoàn thiện chính sách tài chính để phát triển đào tạo sau đại học theo phương hướng đa dạng hóa thu nhập từ các nguồn thu, các chương trình chia sẻ chi phí khác như thu học phí, cho sinh viên vay, quyên góp và tặng cho của doanh nghiệp; xây dựng và hoàn thiện một số chính sách khoán và giao quyền tự chủ về tài chính cho các đơn vị có quy mô lớn trong các trường đại học công lập; xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ đối với việc phân phối kết quả tài chính cần cân nhắc vai trò cống hiến của các thành viên, các đơn vị cơ sở, đồng thời chú trọng đến sự phát triển bền vững dài hạn của cơ sở đào tạo, đảm bảo những quy định của Nhà nước9. Cần khuyến khích sự tham gia của các nhà cung cấp dịch vụ giáo dục ngoài nhà nước và phân biệt rõ giữa loại cơ sở đào tạo vì lợi nhuận và không vì lợi nhuận trong ban hành và thực thi chính sách liên quan đến tài chính thay vì chỉ phân biệt theo hình thức sở hữu như hiện nay. Ngoài ra, cần đào tạo nâng cao năng lực quản lý tài chính cho cán bộ quản lý các cơ sở đào tạo trong quá trình thực hiện cơ chế khoán chi cho các đơn vị song song với việc nâng cao năng lực quản lý tài chính và tập huấn hướng dẫn công tác kế toán – tài chính.
Về chính sách đầu tư trong giáo dục đại học và sau đại học, yêu cầu hoàn thiện cần cân nhắc ở việc thực hiện phân cấp cơ quan ra quyết định đầu tư cho ngành giáo dục là Bộ Giáo dục và Đào tạo. Chỉ quyết định đầu tư khi có đủ các căn cứ theo quy định của pháp luật và đã xác định rõ nguồn vốn, trong phạm vi được phân cấp, tránh việc phê duyệt vốn đầu tư dự án vượt quá khả năng cân đối. Cần thành lập ban quản lý dự án (cơ cấu tổ chức như: cục, vụ, viện) thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý các dự án trong đào tạo sau đại học, nhằm bảo đảm tính chuyên nghiệp trong tất cả các khâu của quá trình thực hiện dự án. Quy định rõ trách nhiệm cá nhân, đơn vị liên quan đến chất lượng dự án, hiệu quả đầu tư. Cần xây dựng lộ trình xã hội hóa từng phần hoặc 100% các cơ sở đào tạo do nhà nước đầu tư, trừ những cơ sở đào tạo thuộc trọng điểm quốc gia.
Thứ năm, phân cấp quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học theo đối tượng và theo chức năng nhiệm vụ.
Giải pháp đưa ra đối với nội dung này cần tập trung ở việc xây dựng, rà soát và hoàn thiện các văn bản pháp luật chính sách thể chế về phân cấp quản lý nhà nước trong đào tạo sau đại học. Các văn bản này bao gồm các thông tư, chỉ thị, nghị quyết, thông báo của các cơ quan có thẩm quyền về vấn đề có liên quan đến phân cấp quản lý giáo dục đại học và sau đại học. Trong đó, cần đưa ra khái niệm phân cấp, phân tầng giáo dục đại học và sau đại học, cụ thể hóa các tiêu chí xếp hạng, đánh giá, đề ra cơ chế giám sát.
Bên cạnh hoàn thiện môi trường pháp lý, việc phân cấp quản lý nhà nước yêu cầu xây dựng và kiện toàn cơ chế thanh tra, kiểm tra đảm bảo việc phân cấp quản lý giáo dục đại học và sau đại học. Bởi lẽ, hiệu quả quản lý sẽ không được đảm bảo nếu thiếu cơ chế thanh tra – cơ chế đánh giá đúng, hiệu quả việc thực thi phân cấp quản lý giáo dục đại học và sau đại học10.
Tiếp đó, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục về mọi mặt để sẵn sàng tiếp nhận được sự phân cấp của Trung ương và cấp trên. Đặc biệt, nhằm tránh hiện tượng thiếu hụt nguồn cán bộ, kế hoạch lâu dài về tuyển chọn, bồi dưỡng đội ngũ kế cận cần được tính đến. Năng lực của đội ngũ thanh tra cần được tăng cường song song với việc giám sát của nhân lực tại cơ sở đào tạo, sự hình thành các công cụ pháp lý và hỗ trợ của cơ quan quản lý Trung ương sẽ tạo sự đồng bộ để quản lý quá trình đào tạo tốt hơn. Chính trong giai đoạn hiện nay, việc phân cấp bước đầu cho chính quyền địa phương tham gia quản lý cũng cần được xem là bước khởi đầu để chính quyền tham gia ngày một chuyên nghiệp hơn trong quản lý giáo dục đại học trên địa bàn và khi đó việc thực hiện quyền tự chủ, chịu trách nhiệm giải trình của các trường đại học mới hiện thực hóa và bền vững.
Thứ sáu, hoàn thiện công tác thanh tra, kiểm tra giám sát trong quản lý nhà nước về đào tạo sau đại học.
Trong quá trình quản lý cần phải thống nhất và phân định rõ trách nhiệm trong việc quản lý, giám sát, kiểm tra hoạt động của các cơ sở đào tạo, cần có giải pháp thay đổi sâu sắc và toàn diện. Bước ngoặt trong thực tiễn công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật trong đào tạo đại học và sau đại học được ghi nhận là công tác thanh tra chuyên môn được chuyển đổi sang thanh tra quản lý, thanh tra hoạt động đánh giá nhà giáo theo chức năng nghề nghiệp hằng năm thay vì tổ chức hoạt động thanh tra sư phạm của nhà giáo11. Thực tiễn yêu cầu cần làm rõ hơn giữa hoạt động thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra nhân dân, thanh tra nội bộ; bổ sung chức năng điều tra trong hoạt động thanh tra, tránh hiện tượng chồng chéo chức năng12 hoàn thiện cơ chế giao quyền thanh tra một số cơ quan gồm các tổng cục, cục. Theo đó, cần thực hiện công việc kiểm tra chéo giữa các cơ sở đào tạo, đây là hình thức vừa kiểm tra giám sát vừa học hỏi lẫn nhau của các cơ sở đào tạo, giúp các cơ sở đào tạo ngày càng hoàn thiện hơn trong các khâu từ tổ chức, đào tạo, tài chính; thực hiện quá trình kiểm tra giám sát của xã hội, của người dân13.
Cơ chế thanh tra cần được thống nhất và có chiến lược tổng thể về mặt phạm vi hoạt động và quyền hạn để giảm tình trạng xử lý vụ việc do dư luận phản ảnh, hoặc thanh tra một đơn vị quá nhiều lần14. Quy định mở hơn trong quá trình thanh tra, nhất là các hoạt động đặc thù cũng là một giải pháp đáng lưu ý cho tồn tại này.
Tăng cường năng lực cơ quan thanh tra, nhất là đội ngũ nhân lực vận hành thông qua đào tạo chuyên môn, tập huấn nghề nghiệp. Cần có đủ lực lượng cán bộ thanh tra để kiểm soát việc thực hiện đúng pháp luật, cần thành lập cơ sở giáo dục đại học về thanh tra. Đồng thời, tăng trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong việc xây dựng, tổ chức chỉ đạo hoạt động của cơ quan thanh tra./.
CHÚ THÍCH
- Thạc sỹ, NCS, Khoa Luật, Học viện Khoa học xã hội.
- Tạp chí Tia sáng (2012), “Triết lý giáo dục đại học và vấn đề tự chủ đại học”, link tham khảo https://tiasang.com.vn/-giao-duc/triet-ly-giao-duc-dai-hoc-va-van-de-tu-chu-dai-hoc-4968 (Truy cập lần cuối: 7/9/2020).
- Nguyễn Văn Tỵ (2019), “Đổi mới giáo dục đại học trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp 4.0”, Tạp chí Tuyên giáo (điện tử), link tham khảo http://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/doi-moi-giao-duc-dai-hoc-trong- boi-canh-cach-mang-cong-nghiep-4-0-123652 (Truy cập lần cuối: 7/9/2020).
- Ban chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
- Tạp chí Cộng sản, “Đổi mới giáo dục đại học theo hướng hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay”, link tham khảo https://thuvienso.quochoi.vn/handle/11742/45494 (Truy cập lần cuối: 07/9/2020).
- Hồng Thủy (2019), “Những quy định nào đang bó chặt chủ trương tự chủ đại học của Trung ương?”,Tạp chí Giáo dục Việt Nam (điện tử), link tham khảo: https://giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/nhung-quy-dinh-nao-dang-bo-chat- chu-truong-tu-chu-dai-hoc-cua-trung-uong-post205510.gd (truy cập lần cuối 08/09/2020).
- Duy Thái (2019), “Tự chủ đại học công lập: Cần ‘đả thông’ pháp lý để gỡ khó khi triển khai”, Thời báo Tài chính Online, link tham khảo: http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/thoi-su/2019-03-19/tu-chu-dai-hoc-cong-lap-can- da-thong-phap-ly-de-go-kho-khi-trien-khai-69040.aspx (truy cập lần cuối 08/09/2020).
- Tô Hà (2019), “Hoàn thiện chính sách pháp luật về tự chủ đại học”, Báo Nhân dân (điện tử), link tham khảo:https://nhandan.com.vn/tin-tuc-giao-duc/hoan-thien-chinh-sach-phap-luat-ve-tu-chu-dai-hoc-352839(truy cập lần cuối 08/09/2020).
- Vũ Thị Minh, Nguyễn Văn Huy (2018), “Một số vấn đề về quản lý tài chính tại các trường đại học công lập”, Tạp chí Tài chính (điện tử), link tham khảo: http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/mot-so-van-de-ve-quan-ly- tai-chinh-tai-cac-truong-dai-hoc-cong-lap-133909.html (truy cập lần cuối 08/09/2020).
- Lê Thị Vinh (2020), “Đẩy mạnh phân cấp quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay từ góc độ giáo dục đại học”, Tạp chí Công thương (điện tử), link tham khảo http://www.tapchicongthuong.vn/bai-viet/day-manh-phan- cap-quan-ly-hanh-chinh-nha-nuoc-o-viet-nam-hien-nay-tu-goc-do-giao-duc-dai-hoc-67850.htmtruy cập ngày 09/09/2020.
- Trung tâm truyền thông giáo dục, Bộ Giáo dục & Đào tạo, “Tăng cường hoạt động đổi mới thanh tra giáo dục” (Hội thảo: Đổi mới thanh tra giáo dục theo Luật thanh tra 2010, kết quả và những vấn đề đặt ra, Hà Nội, 28/7/2017) https://moet.gov.vn/giaoducquocdan/thanh-tra/Pages/tin-tuc.aspx?ItemID=4945. Truy cập ngày 27/7/2020.
- Minh Nguyệt (2020), “Xây dựng kế hoạch thanh tra có trọng tâm, trọng điểm tránh chồng chéo”, Thanh tra Việt Nam, Link tham khảo: http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/mot-so-van-de-ve-quan-ly-tai-chinh-tai-cac- truong-dai-hoc-cong-lap-133909.html(truy cập lần cuối 08/09/2020).
- Nguyễn Thị Hồng Sâm (2020), “Giải pháp quản lý giáo dục đại học tại Việt Nam”, Tạp chí Công thương (Điện tử), Link tham khảo: http://www.tapchicongthuong.vn/bai-viet/giai-phap-quan-ly-giao-duc-dai-hoc-tai-viet-nam- 73364.htm (truy cập lần cuối 08/09/2020).
- Xem thêm: Thùy Linh (2020), “Một năm có trường đại học phải chịu thanh tra đến 15 lần”, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Link tham khảo: https://giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/mot-nam-co-truong-dai-hoc-phai-chiu-thanh- tra-den-15-lan-post210069.gdtruy cập ngày 13/08/2020.
Trả lời