Pháp luật tố tụng Triều Nguyễn (1802 -1884) – Thành tựu, giá trị và bài học kinh nghiệm trong hoạt động xây dựng pháp luật tố tụng hiện nay
Tác giả: Hà Thị Lan Phương [1]
TÓM TẮT
Những đóng góp của triều Nguyễn nói chung và pháp luật tố tụng triều Nguyễn nói riêng trong lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu làm sáng tỏ. Một trong những thành tựu của triều Nguyễn về pháp luật tố tụng là thống nhất tổ chức tư pháp và định chế tố tụng là cơ sở đảm bảo sự tuân thủ pháp luật trong toàn bộ quá trình xây dựng và vận hành nhà nước trên mọi phương diện. Bài viết nghiên cứu về pháp luật tố tụng triều Nguyễn trong giai đoạn độc lập từ 1802 đến 1884, đánh giá những thành tựu và đưa ra bài học kinh nghiệm trong hoạt động xây dựng pháp luật tố tụng hiện nay.
1. Pháp luật tố tụng triều Nguyễn (1802 – 1884)
Pháp luật tố tụng là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống pháp luật nhà nước và là yếu tố đảm bảo nguyên tắc pháp chế. Trong đó tổ chức tư pháp và định chế tố tụng là cơ chế đảm bảo sự tuân thủ pháp luật trong toàn bộ quá trình xây dựng và vận hành nhà nước trên mọi phương diện. Kế thừa những thành tựu của các triều đại trước từ Lý Trần, Lê Sơ, Lê Trịnh, chúa Nguyễn, triều Nguyễn đã từng bước thống nhất đất nước, xây dựng hệ thống chính quyền, xây dựng pháp luật, chuẩn định tổ chức và thẩm quyền tư pháp xét xử từ trung ương đến địa phương.
1.1. Thẩm quyền tư pháp xét xử trong pháp luật triều Nguyễn (1802 – 1884)
Chính thể quân chủ thiết lập theo nguyên tắc “Tôn quân quyền”, vua là người đứng đầu hệ thống tòa án, thẩm quyền tư pháp tối cao thuộc về Hoàng đế. Nhìn tổng thể, đặc điểm cơ bản của chế độ tư pháp thời quân chủ phong kiến Việt Nam là: (i) không có một hệ thống tư pháp tòa án độc lập với cơ quan hành chính, quân sự; (ii) không có một ngạch pháp quan thẩm phán độc lập mà các quan đứng đầu ngạch hành chính quân sự kiêm việc tư pháp xét xử; (iii) hệ thống giám sát kiểm soát hành chính tư pháp tố tụng được xây dựng quy mô, đồng bộ.
So sánh nền quân chủ nghìn năm của nước Đại Việt – Đại Nam, hệ thống hành chính tư pháp triều Nguyễn có quy mô lớn nhất, tiến bộ, chặt chẽ, thống nhất. Học giả Huỳnh Công Bá đã khẳng định: “Triều Nguyễn không chỉ xây dựng được một thiết chế nhà nước trung ương tập quyền hoàn thiện, có bề thế, vững mạnh, mà còn tổ chức ra được một hệ thống hoạt động về tư pháp có kỷ cương, chặt chẽ, dựa trên một nền pháp chế có hiệu lực và chuyên chế”2. Toàn bộ quy trình giải quyết một vụ án từ nhận đơn khởi kiện, thụ lý, điều tra, khám nghiệm, khảo cung, giam giữ, xét xử, thi hành án đều thuộc về thẩm quyền của một nha môn. Chỉ trong trường hợp các án xử đồ (lao động khổ sai), lưu (đưa đi đày), tử (giết chết), hoặc các án về quan chức, án có khiếu kiện kêu oan mới trình lên Thượng ty, Kinh đô và triều đình xin phúc thẩm duyệt xét. Những quy định này đảm bảo sự độc lập, tự quyết định của quan án, đồng thời cũng ràng buộc trách nhiệm của quan án đối với công vụ tư pháp của mình.
Trong lịch sử, thời Lê Sơ và Lê Trịnh, các nhà lập pháp đã ý thức được tầm quan trọng của luật hình thức, thủ tục đối với việc đảm bảo luật nội dung được thi hành đúng đắn, chuẩn mực. Hình thức văn bản, quy trình tố tụng và các thủ tục pháp lý là những điều kiện để chuyển tải luật nội dung vào thực tiễn thi hành. Trên cơ sở những thành tựu pháp luật Lê Sơ, Lê Trịnh, học tập pháp luật Thanh triều Trung Quốc, các nhà lập pháp triều Nguyễn đã nhanh chóng ban hành Bộ luật thống nhất, hệ thống hóa pháp luật trong các tập Hội điển, lưu trữ văn bản trong “Nội Các quan bản”, Mộc bản và Châu bản, kho tư liệu pháp luật đó đến nay mới chỉ khai thác được một phần. Những định chế pháp luật về tố tụng triều Nguyễn trong bộ Hoàng Việt Luật Lệ (HVLL) được quy định chủ yếu ở các chương, quyển như: Danh lệ, Luật Lại, Chức chế, Luật Hộ, Luật Binh, Luật Hình, Luật Công, Luật hình về sự phán quyết bản án và được giải thích, bổ sung bằng các Điều lệ trong khoảng 229/398 điều luật3. Trong các bộ Hội điển, luật tố tụng thường được tập hợp chủ yếu ở các quyển về Bộ Hình, Bộ Hộ, Bộ Binh; các quyển về Pháp độ trong “Minh Mệnh chính yếu”, Lệ về bộ Binh, bộ Hình trong “Đại Nam Điển lệ toát yếu” và những ghi chép sự kiện trong “Đại Nam thực lục chính biên”.
Theo đó, thẩm quyền xét xử chủ yếu căn cứ vào 3 yếu tố: (i) Lãnh thổ, địa hạt nơi xảy ra vụ việc; (ii) Mức độ nặng nhẹ, tính chất chuyên môn và tầm ảnh hưởng của vụ việc; (iii) Vụ kiện có liên quan đến quân dân, quan lại, thương mại. Đây cũng là căn cứ, điều kiện cơ bản để xác định thẩm quyền xét xử theo thông lệ hay biệt lệ. Điều 376 – Hoàng Việt Luật Lệ quy định tổ chức và trình tự tố tụng chủ yếu qua 3 cấp như sau:
Thứ nhất, Nha môn cấp Huyện (Châu): xử sơ thẩm, tội quân, đồ, lưu4;
Thứ hai, Nha môn cấp Phủ, Tỉnh: xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và chung thẩm các bản án cấp huyện trình lên, xử sơ thẩm án tử tại địa phương;
Thứ ba, Nha môn cấp Trung ương: Bộ Hình, Đại lý tự, Đô sát viện: xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, chung thẩm các án từ địa phương trình lên; Những vụ án tại Kinh đô, Phủ Doãn đường sau khi xét xử, trình án lên Bộ Hình, Đại lý tự, Đô sát viện. Các vụ án án lớn, mang tính quốc gia thuộc thẩm quyền của Bộ Hình, phúc thẩm tại Tam pháp ty và nhà vua sẽ là vị thẩm phán tối cao xử chung thẩm.
Hành trình của một vụ án theo thông lệ qua 3 cấp xét xử: một cấp sơ thẩm, hai cấp phúc thẩm đồng thời giám đốc thẩm; nếu không có sai sót, không có khiếu nại sẽ có hiệu lực chung thẩm. Nếu bản án có sai sót hoặc có tình tiết mới, sẽ được trả lại địa phương điều tra, thụ lý và xét xử lại theo thủ tục tái thẩm. Theo định kỳ, án trong quân đội và án xử đồ, lưu, đều phải trình lên Bộ Hình, Đại lý tự hàng quý, hàng năm tổng hợp và soát xét. Án tử hình, phải trình lên Bộ Hình, Tam pháp ty và nhà vua sẽ là người thẩm duyệt và phê chuẩn sau cùng.
Thẩm quyền xét xử ở cấp địa phương thời Nguyễn (1802 – 1884)
Thể chế tố tụng triều Nguyễn được xây dựng theo nguyên tắc tập trung thống nhất. Thẩm quyền giải quyết vụ án từ nhận đơn, điều tra, khám nghiệm, giam giữ, xét xử thi hành án tại địa phương đều thuộc về Nha môn cấp huyện trở lên.
Tổng, xã mặc dù không được coi là một cấp xét xử nhưng đóng vai trò rất quan trọng trong toàn bộ quy trình tố tụng. Từ việc quản lý dân cư, thủ tục văn bản giấy tờ, chứng cứ, chứng thực, lập biên bản khám nghiệm, phối hợp với phủ huyện để tầm nã truy bắt tội phạm, niêm phong tài sản, quản chế việc chấp hành bản án tại địa phương (Điều 305, 355, 358 – HVLL – Hoàng Việt Luật Lệ). Trong lịch sử, thời Lý Trần, Lê Sơ, Lê Trịnh trước năm 1718, cấp xã có thẩm quyền xét xử các vụ việc “Tối tiểu sự” (Điều 672 – Quốc triều hình luật). Sau năm 1718, dù không là một cấp xét xử nhưng cấp xã vẫn có thẩm quyền Hòa giải và xử lý các vụ tranh chấp xích mích, các vụ việc về hôn nhân, cưới gả, các việc về tranh chấp đất đai, ao vườn, các xung đột trong cộng đồng, làng xóm, dòng họ, gia đình. Trách nhiệm giao cho Tiên chỉ, Xã trưởng (Trùm ấp), Lý trưởng, Phó lý, Trương tuần, Tuần đinh và Ban bảo vệ xóm làng. Bên cạnh đó là các chế tài của cộng đồng làng xã theo quy định của các bản Hương ước, Khoán lệ, Tục lệ dân tộc miền núi đã được thừa nhận từ lâu đời. Đối với các văn bản và quy ước này, nhà nước thời Lê Trịnh Nguyễn đều tôn trọng, bảo đảm thực hiện nếu không trái với pháp luật của nhà nước và các giá trị đạo đức. Nếu việc xử lý, hòa giải ở cấp xã không đạt được kết quả, các đương sự có thể đưa đơn kiện lên nha môn cấp Huyện (Châu), Phủ để giải quyết. Tại cấp Huyện (Châu), Phủ, các quan Tri huyện, Tri châu, Tri phủ có trách nhiệm phân giải cho các đương sự hiểu sự việc để đi đến thỏa xử. Nếu việc thỏa xử không được các đương sự chấp thuận thì mới phán xử theo thủ tục tố tụng.
Cấp huyện (châu), phủ: được phép xử sơ thẩm các tội quân, đồ, lưu. Việc tiếp nhận đơn từ, thụ lý hồ sơ và xét xử do các quan Tri huyện, Tri châu, Tri phủ thực hiện. Đối với các án xử tại cấp huyện, phủ, chế tài xuy trượng được phép thi hành. Các mức hình phạt từ đồ trở lên, phải trình lên quan cấp trên và quan Án sát cấp tỉnh để thẩm xét lại.
Cấp tỉnh (Phủ doãn): được phép xử phúc thẩm và giám đốc thẩm các bản án từ cấp huyện, phủ trình lên và xét xử sơ thẩm tội tử, do các quan Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chính, Án sát thực hiện. Thời Gia Long tại các doanh, trấn (đơn vị hành chính quân sự tương đương với cấp tỉnh) có chức Trấn thủ, Ký lục xét xử về hình án, cấp thành có Tào Hình. Nhưng từ thời Minh Mệnh, từ năm 1831, nhà vua cải cách bỏ cấp thành, doanh, trấn, chức Tào hình, Tổng trấn, Ký lục.
Bộ HVLL còn quy định xác định thẩm quyền căn cứ theo 3 loại vụ việc chính như: Việc dân bao gồm cả hình sự và dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp huyện, châu, phủ; Việc quân gồm các vụ việc liên quan đến quân sự, quân đội, thực hiện xét xử theo Quân pháp thuộc các Doanh, Vệ, thuộc quyền Đề đốc, Lãnh binh; Việc thương mại liên quan đến buôn bán, vay nợ, tiền bạc, giải quyết ở cấp huyện, phủ, cao nhất là Thượng ty (Tổng đốc, Tuần phủ) cấp tỉnh. Nếu vụ việc liên quan cả việc quân và việc dân như: quân nhân phạm tội nhân mạng, gian dâm, trộm cắp, đánh người, ruộng đất, cưới hỏi thì thẩm quyền 2 bên quân doanh, vệ, sở và quan ty nha môn hội bàn cùng giải quyết. Cách phân loại tố tụng này mang tính khái quát hơn trong Quốc triều Hình luật và Quốc triều Khám tụng thời Lê Sơ và Lê Trịnh.
Quan chức phạm tội được xét theo thủ tục riêng, thuộc quyền cấp tỉnh, Lại bộ, Đô sát viện, Tam pháp ty, Kinh lược sứ và Hoàng đế. Người trong hoàng tộc phạm tội thuộc quyền xét xử của Tôn nhân phủ (Điều 3, 6, 9, 301, 310 – HVLL). Đây là đặc điểm của chế độ tố tụng thời quân chủ, xuất phát từ quan điểm trọng người trong họ tộc góp công lập nước. Để bảo vệ sự tôn nghiêm cao quý của Hoàng tộc, quan Đại thần và các quan lại có phẩm tước chức vụ cao đều được ưu đãi theo luật Bát nghị. Đối với tội không quá nghiêm trọng, xử giam chờ mùa thu phúc thẩm có thể được vua cho phép chuộc hình phạt bằng tiền.
Thẩm quyền xét xử ở cấp trung ương thời Nguyễn (1802 – 1884)
Trong quy định của HVLL, pháp luật hạn chế xét xử vượt cấp lên trung ương. Chỉ trong trường hợp án liên quan đến quan chức, các vụ trọng án như đồ, lưu, tử hoặc án xử nặng mà tội nhân khiếu kiện kêu oan thì mới được trình lên Thượng ty, Thống quan phúc thẩm và quyền ra phán quyết chung thẩm thuộc về Tam pháp ty và nhà vua. Cấp trung ương và Kinh đô có quyền xét lại các án đồ, lưu, tử; thông thường sẽ trình lên Đại lý tự và Bộ Hình xem xét, nếu có tình tiết đáng ngờ hoặc không thỏa đáng sẽ chuyển sang Tam pháp ty hoặc xét xử theo phương thức Đình nghị và tâu lên xin nhà vua phê chuẩn. Bên cạnh đó triều Nguyễn còn có nhiều sáng tạo, xây dựng các Tiền lệ hành chính và Tiền lệ tư pháp như: Ngự điện thính chánh, Hội đồng tốc nghị, Nhập trực nội đình, Lưu quan, Đình nghị, Thu thẩm, Đăng văn, Phép nhuận đồ, Nhu viễn nhân.
Nhìn chung, thẩm quyền xét xử cả hai cấp trung ương và địa phương trong HVLL, Hội điển được quy định khá cụ thể, đảm bảo tính khách quan, trong đó, việc thành lập Hội đồng xét xử liên ngành, kết hợp kiểm tra giám sát chặt chẽ thể hiện tính liên thông, liên kết và tương đối hoàn thiện hơn so với các triều trước trong hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, do mục tiêu cơ bản là bảo vệ quyền thống trị tối cao của nhà vua, lợi ích hoàng tộc dòng họ Nguyễn Phước và quyền lợi của giới quan lại, đại địa chủ Đàng Trong nên Bộ luật này, bên cạnh việc ưu đãi hơn với giới quan lại quý tộc, còn quy định chế tài xử phạt rất nghiêm khắc, phần nào hạn chế quyền của các chủ thể khác trong sự điều chỉnh của pháp luật đối với xã hội.
Thẩm quyền cơ quan giám sát tư pháp tố tụng triều Nguyễn (1802 – 1884)
Tổ chức cơ quan giám sát triều Nguyễn được xây dựng khá quy mô chặt chẽ từ trung ương xuống địa phương, bao gồm cả giám sát hành chính và giám sát chuyên môn. Nhìn dưới góc độ tư pháp xét xử, cơ chế bao gồm cả giám sát trong, giám sát ngoài và thanh tra độc lập.
Cơ chế giám sát trong: Từ 2 đến 3 tầng kiểm soát trực tiếp từ cấp trên xuống cấp dưới; định chế này vừa mang tính Phúc thẩm, vừa đồng thời Giám đốc thẩm; Thông lệ, nếu 2 cấp phúc thẩm và giám đốc thẩm xét xử đồng thuận với sơ thẩm, không có sai sót, không có kháng cáo, kháng nghị, bản án sẽ có hiệu lực chung thẩm; sau đó nha môn trình lên cấp trên phê chuẩn; Chỉ những bản án nào cấp trên không đồng thuận, mới trình lên Thượng ty xem xét, nếu thấy sai sót, hoặc có tình tiết mới sẽ trả về để điều tra xét xử lại theo thủ tục tái thẩm.
Cơ chế giám sát ngoài: Thể hiện trong thẩm quyền và hoạt động của Đô sát viện. Đô sát viện có quyền giám sát hoạt động của Lục Bộ, Đại lý tự, các cơ quan chuyên môn ở trung ương. Đô sát viện đặt Cai đạo Ngự sử giám sát các tỉnh về hành chính, tư pháp xét xử và quân sự an ninh. Cai đạo Ngự sử còn có thẩm quyền “đàn hặc” quan lại các cấp trong thực thi công vụ. Thực chất Đô sát viện thời Nguyễn là sự sáp nhập thẩm quyền của cơ quan Ngự sử đài và Lục Khoa thời Lê, kết hợp giám sát công vụ, giám sát chuyên môn và giám sát tư pháp xét xử.
Cơ chế thanh tra độc lập: Gồm chế độ Kinh lược sứ, Kinh lược Đại thần. Bên cạnh đó, để kịp thời phát hiện ra những sai lầm, vi phạm công vụ hành chính tư pháp, triều Nguyễn quy định Nội Các5 có quyền “Hặc tấu” “Đàn hạch” đối với Lục Bộ và các cơ quan nhà nước trung ương, trong đó có cơ quan tư pháp và công vụ tư pháp; quan lại có quyền “Mật tấu” bí mật tâu lên vua về những sai phạm công vụ trong các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Như vậy, có thể nhận thấy tổ chức và cơ chế vận hành cơ quan giám sát, thanh tra hoạt động công vụ hành chính tư pháp triều Nguyễn là rất chặt chẽ, quy củ, liên thông, thống nhất. Cơ chế phân quyền, tản quyền, ba bên, ba tầng, giúp cho nhà vua nắm giữ và kiểm soát được tình hình đất nước, hoạt động công vụ hành chính quân sự và tư pháp nhanh chóng, kịp thời.
1.2. Trình tự, thủ tục tố tụng trong pháp luật triều Nguyễn (1802 – 1884)
Trên thực tế, qua nghiên cứu quá trình lập pháp, hình thức và nội dung pháp luật của thời kỳ này, cho thấy, nhà nước phong kiến quân chủ đã đạt được những thành tựu cơ bản. Pháp luật tố tụng triều Nguyễn có nhiều điểm tiến bộ cần học tập, kế thừa và phát huy.
Dưới góc độ lý luận, một số nguyên tắc trong trình tự và thủ tục tố tụng được thể hiện ở phần Danh lệ, Thông lệ, Lời tựa và được thể chế hóa trong phần Bản điều của Bộ luật và Hội điển. Có thể khái lược một số nguyên tắc tố tụng cơ bản như sau:
Một là, bảo vệ vương quyền và chủ quyền an ninh quốc gia.
Hai là, quy định xét xử theo cấp chính quyền và các cơ quan quản lý chuyên môn.
Ba là, coi trọng chứng cứ, đảm bảo tính độc lập, tập quyền trong hoạt động xét xử.
Bốn là, quy định rõ trách nhiệm & kiểm soát chặt chẽ các hoạt động tố tụng.
Năm là, một số nguyên tắc tố tụng mang tính chuyên biệt như: tính tang luận tội, triết bán khoa tội, uổng pháp, bất uổng pháp, bất ưng vi, tỷ dẫn điều luật. Bên cạnh đó là các nguyên tắc thông lệ như: vô luật bất hình, chiếu cố, nhân đạo, Bát nghị, xét xử theo luật mới, hồi tố, bất hồi tố, ân xá, tha tù về chăm sóc cha mẹ già yếu, tự thú, can danh phạm nghĩa, trọng chứng hơn trọng cung, giam giữ, quản ngục, người nước ngoài vi phạm pháp luật Đại Nam. Các nguyên tắc này chi phối toàn bộ quy trình tố tụng, các quan lại khi vận hành, ứng dụng pháp luật đều phải tôn trọng và tuân thủ.
Pháp luật tố tụng triều Nguyễn rất chú trọng điều chỉnh để hạn chế vấn đề kiện cáo vượt cấp, vượt thẩm quyền trong xét xử. Nhìn chung, pháp luật không cho phép kiện vượt cấp, không đúng thẩm quyền. Luật định rằng:“kiện vượt cấp là có tội” (Điều 301 – HVLL). Người tố cáo vượt cấp còn bị trị tội vì đã vi phạm về thủ tục tố tụng: “Nếu tố cáo vượt cấp thì dù có đúng sự thật cũng chiếu luật Vi chế xử 100 trượng”6. Đồng thời, pháp luật cũng trị rất nặng tội vu cáo, nặc danh, can danh phạm nghĩa. Luật quy định: “Gửi thư nặc danh giấu giếm tên họ của mình, để nói về tội của người khác, xử giảo giam hậu”, người bị tố cáo dù đúng sự thực cũng không bị xét xử. Nếu ai thấy loại đơn thư nặc danh thì phải thiêu hủy, nếu đưa lên quan ty, xử 80 trượng, quan mà nhận thụ lý, xử 100 trượng. “Nặc danh là vừa có ý muốn hãm hại người ta vào tội lỗi, lại muốn đặt mình ra ngoài sự việc. Cái bụng dạ gian hiểm ngấm ngầm ấy phải diệt bỏ. Cho nên đặc biệt coi trọng luật này” (Điều 302 – HVLL). Mục đích nhằm bảo vệ uy tín của cơ quan tư pháp, đảm bảo sự nghiêm minh trong chấp hành đúng quy trình thủ tục tố tụng và nhân cách của các chủ thể. Đồng thời buộc các bên tham gia tố tụng phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình, tuân thủ pháp luật, tăng cường pháp trị, pháp chế. So với các Bộ luật triều trước, pháp luật nhà Nguyễn bảo vệ quyền lợi của bộ máy thống trị tối cao và có khá nhiều điều quy định xử tội quan chức.
Một điểm tiến bộ của Hoàng Việt Luật lệ, đó là tuy chỉ có một Bộ luật điều chỉnh mọi hoạt động của xã hội, không có Bộ luật tố tụng riêng, nhưng mỗi phần Giải thích luật và các Điều lệ kèm theo Điều luật chính đều là những phần định hướng xét xử. Trong quản lý và xử lý vi phạm, ngoài hai chức sắc quan Tổng đốc, Tuần phủ phụ trách hành chính tư pháp ở cấp tỉnh, còn có quan Án sát chuyên sâu về tố tụng hình án. Quy định này cũng có mặt tiến bộ, đó là vừa đảm bảo tính độc lập trong thủ tục tố tụng và hoạt động xét xử khách quan, vừa có sự giám sát kiểm soát quá trình tố tụng và án từ (Điều 44, 301, 305, 355 – 376 – HVLL).
Thủ tục về thưa kiện, thụ lý, giam giữ, thẩm vấn, khảo cung, về chứng cứ, nhân chứng, vật chứng, bị can, bị cáo, về xét xử, thời hạn xử án, nguyên tắc định tội lượng hình; Các thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm; Án xử quyết và giam chờ, các thủ tục và quy định về ân xá, đại xá. Các định chế về xử lý sai phạm của quan án trong quá trình tố tụng như: xuất nhập nhân tội, biện minh oan uổng, quan lại phạm công tội tư tội; xử án Hoàng tộc và các vụ án cung đình; đều được quy định cụ thể trong bộ Hoàng Việt Luật lệ và các bộ Hội điển. Một số vụ án điển hình được ghi chép sơ lược trong chính sử. Do giới hạn số trang nên nội dung này tác giả xin được trình bày ở bài viết tiếp sau.
2. Thành tựu giá trị và bài học kinh nghiệm của triều Nguyễn (1802 -1884) trong hoạt động xây dựng pháp luật tố tụng hiện nay ở Việt Nam
Thành tựu và giá trị lịch sử và pháp lý cơ bản của pháp luật tố tụng triều Nguyễn có thể khái lược như sau:
(i) Pháp luật tố tụng là công cụ quyền lực bảo vệ nền hành chính Quốc gia. Nhà nước đã sử dụng công cụ pháp luật để quản lý, xử lý vi phạm trong mọi lĩnh vực về: hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, đất đai, tài chính, hành chính, quan chế; từ trung ương đến địa phương, từ quan đến dân, từ cá nhân đến gia đình và cộng đồng dân tộc để phát triển xã hội một cách hữu hiệu;
(ii) Pháp luật tố tụng bảo vệ chủ quyền dân tộc, bảo vệ thể chế chính trị, văn hóa, xã hội, tư tưởng của nhà nước và pháp luật phong kiến quân chủ;
(iii) Pháp luật tố tụng bảo vệ sự phát triển nền kinh tế, xử lý vi phạm về đất đai tài sản trong giao dịch hợp đồng, thương mại và thừa kế. Pháp luật bảo vệ quyền sử dụng đất đai phát triển kinh tế của người dân và có các quy định về nghĩa vụ đóng thuế. Bảo vệ nền kinh tế nông nghiệp, theo quan niệm “Canh nông vi bản”;
(iv) Giá trị tiến bộ của pháp luật tố tụng triều Nguyễn về bảo vệ con người, bảo vệ cá nhân, gia đình và cộng đồng. Pháp luật triều Nguyễn bảo vệ quyền tài sản của các thành viên gia đình, bảo vệ quyền của phụ nữ, người già, trẻ em, người tàn tật;
(v) Giá trị ứng dụng hiệu quả thực tiễn trong quá trình thực thi pháp luật tố tụng. Công cụ tư pháp được đảm bảo bằng sức mạnh của cả lực lượng văn quan và võ quan, đó là quy phạm tất yếu, là sức mạnh của thể chế pháp trị nói chung và tố tụng nói riêng. Giám sát tư pháp tố tụng là cơ chế pháp lý đặc biệt quan trọng đảm bảo sự tôn nghiêm của pháp luật, giúp cho pháp luật nội dung được thực thi ngay thẳng, chính đáng. Phạt tiền và chuộc hình phạt bằng tiền quy luật giá trị sức lao động được ứng dụng trong hình phạt và áp dụng hình phạt. Phạt tiền giảm nhẹ đối với người già, phụ nữ, trẻ em, người nghèo, cô đơn, tàn tật. Chuộc hình phạt bằng tiền cũng là một giá trị mà nay pháp luật tố tụng cần nghiên cứu ứng dụng. Điều này có lợi cho tất cả các bên, phòng chống được tham nhũng và sự tha hóa trong hoạt động tư pháp xét xử. Bên cạnh đó, có thể nhận thấy nhà nước triều Nguyễn cũng rất chú trọng đến công tác hòa giải từ cơ sở trong những vụ việc tố tụng về dân sự.
Có thể nhận diện 6 giá trị đặc trưng của pháp luật tố tụng triều Nguyễn như sau:
(i) Không tách biệt luật nội dung và hình thức tố tụng, luật hình thức và thủ tục thường bắt nguồn từ luật nội dung và hướng tới mục đích đạt hiệu quả trong xử lý vi phạm và xét xử cho cá nhân, gia đình và xã hội;
(ii) Không có sự biệt lập về tổ chức quyền lực giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp và quân sự an ninh, hệ thống này luôn được vận hành liên thông, đồng bộ, thống nhất, hướng đến hiệu quả của mục đích chung;
(iii) Ranh giới giữa tố tụng hình, tố tụng dân, tố tụng hành chính, kỷ luật công vụ và quân sự chỉ mang tính tương đối, chủ yếu phân loại theo tính nặng nhẹ, nghiêm trọng hay không nghiêm trọng của vụ việc;
(iv) Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, thẩm quyền, trách nhiệm của quan lại, của các cấp xét xử trong hệ thống hành chính tư pháp và quân sự an ninh được quy định rất nghiêm cẩn. Tất cả đều được vận hành thống nhất trong chính thể quân chủ. Có thể đây là những giá trị cho một nền tư pháp vững mạnh để hướng tới mục tiêu dân quyền;
(v) Việc xử phạt quan án khi vi phạm pháp luật rất nghiêm khắc, họ đều bị giáng phẩm trật, bãi chức tước hoặc bị xử chết và phải lấy tài sản của mình để bồi thường khi gây thiệt hại kể đối với cả việc công và việc tư;
(vi) Cách phân loại thủ tục tố tụng theo từng loại vụ việc rất có ý nghĩa trong thời đại mới bởi tính phức tạp của thời công nghệ cao và mối liên hệ toàn cầu thì thủ tục tố tụng chuyên ngành, chuyên sâu, chuyên biệt càng cần phải được nghiên cứu xây dựng, bổ sung và phát triển đồng bộ, liên ngành, liên thông, thống nhất. Điều này chi phối cả chiến lược đào tạo nguồn nhân lực và kết nối cơ sở vật chất và khoa học công nghệ.
Trên cơ sở nhìn nhận khách quan về triều Nguyễn, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với quá trình cải cách tư pháp, xây dựng thể chế nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay như sau:
Thứ nhất, quyền lực kinh tế và quân sự vẫn là nền gốc của quyền lực tư pháp, từ đó chi phối cả lập pháp, hành pháp, chi phối nền an ninh và công lý cho người Việt trong khu vực và trên thế giới. Trong đó, quản trị hành chính tài chính và quân sự là nền gốc của quản trị về tư pháp xét xử. Nhà cầm quyền tối cao, tài đức quan chức và kỷ luật công vụ đóng vai trò quyết định sự thịnh suy của cả thể chế tư pháp, hành pháp và lập pháp.
Thứ hai, cơ chế Hội đồng cấp cao thẩm xét án từ cả nước như: Công đồng, Đình nghị, Tam pháp ty với sự thành lập “Hội đồng thẩm phán Tối cao”, “Tòa án cấp cao khu vực”, Học viện Tòa án, hình thành Án lệ, đã là một phần thành công từ việc học tập kết hợp hài hòa kinh nghiệm truyền thống với đương đại. Cùng với các chế độ quản lý quan chức hành chính tư pháp như “Lưu quan”, “Hồi tỵ”, “Khảo khóa”, “Dưỡng liêm” cần được nghiên cứu ứng dụng hiệu quả.
Thứ ba, sự thực thì tính thống nhất quyền lực, tính kỷ cương của một Đảng cầm quyền, kiểm soát quyền lực tư pháp các cấp, cấp cao, tối cao. Mối quan hệ độc lập nhưng liên thông, thống nhất, đồng bộ hài hòa giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp và tố tụng vẫn còn là một giá trị truyền thống tích lũy lâu đời cần được nghiên cứu làm sáng tỏ. Tư pháp và giám sát đủ mạnh sẽ phòng ngừa được sai lầm và tha hóa của lập pháp và hành pháp. Đó là một công thức đang từng bước được thể chế trong bộ máy nhà nước đương đại ở Việt Nam.
Vua Gia Long từng mong luật pháp được thực thi bởi quan chức thanh liêm để “Khiến cho Bộ luật như mặt trời mặt trăng không còn chỗ nào bị che khuất nữa”“và những điều nghiêm trị, sáng như ánh chớp, vang động như sấm sét không thể sai phạm”7. Công lý chính là con đường của “Đạo đức kinh”, nhân sinh cho cá nhân, gia đình, cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam, trên thế giới và nhân loại.
Nghiên cứu phổ rộng về hệ thống tư pháp, cũng có thể tìm ra một số bài học kinh nghiệm tổng quát sau đây:
(i) Bài học về đào tạo, tuyển dụng, bổ nhiệm, đãi ngộ và sử dụng nhân sự có phẩm chất nhân trí dũng trong cơ quan tư pháp tố tụng, bởi nước trị hay loạn cốt ở trăm quan;
(ii) Xây dựng quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể ba bên trong hoạt động tố tụng: bên nguyên, bên bị, bên tòa, rõ ràng, cụ thể, khoa học, hợp lý;
(iii) Thiết kế “phân loại tố tụng theo vụ việc” chuyên nghiệp, chuyên sâu, theo nhu cầu của xã hội;
(iv) Giám sát, kiểm soát 3 tầng, 3 bên việc thực thi pháp luật thực hành tại cơ quan tố tụng, áp dụng các chế tài thưởng phạt nghiêm minh;
(v) Thiết lập pháp chế về “hoán đổi chế tài bằng tiền” đối với một số loại tội hình sự nhẹ hoặc các tội có liên quan đến tiền tệ, tài chính và tài sản;
(vi) Công việc lưu trữ án từ theo loại vụ việc là một yêu cầu quan trọng và thực sự cần thiết. Đó là những tư liệu cần cho ngành khoa học pháp lý nhân văn trong thời đại công nghệ số hóa tư liệu nghiên cứu về tụng đình ở Việt Nam. Điều này cũng đồng thời tạo lập ý thức, kỹ năng nghiên cứu án lệ giúp cho các thẩm phán cẩn trọng hơn và ý thức sâu sắc hơn về trách nhiệm của mình khi ra phán quyết trước số phận của con người, nhân sinh và tài sản.
Từ lý luận quy phạm đến ứng dụng, pháp luật tố tụng triều Nguyễn thể hiện tính tiến bộ với những thành tựu và giá trị bền vững. Thành tựu đó sẽ được phục hưng và phát triển trong quá trình cải cách tư pháp, xây dựng hệ thống tư pháp tố tụng chuyên nghiệp và hiệu quả, vì công lý và vì con người với những giá trị nhân văn trong mục tiêu kiến tạo nền tư pháp liêm chính của thể chế Nhà nước pháp quyền – xã hội công dân với thước khuôn của luật và tính tối thượng của luật nhân quyền.
Kết luận, nghiên cứu đánh giá về pháp luật triều Nguyễn nói chung và pháp luật tố tụng triều Nguyễn nói riêng vẫn còn rất nhiều vấn đề để ngỏ. Có nhiều văn bản pháp luật triều Nguyễn đến nay vẫn chưa được dịch thuật, hệ thống hóa và công bố8. Bài viết này mới chỉ phần nào gợi mở một số giá trị và đóng góp của triều Nguyễn trong lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam thời cận hiện đại. Dòng họ Nguyễn ở Việt Nam và triều Nguyễn thực sự vẫn là một đề tài nghiên cứu với nhiều giá trị tiềm tàng cần được khai thác, tiếp cận, qua đó có rất nhiều thành tựu giá trị bài học để có thể học tập, phát huy trong thời đại mới, thời đại xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, công bằng và văn minh./.
CHÚ THÍCH
- Tiến sỹ, Giảng viên, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Huỳnh Công Bá (2017), Định chế pháp luật và tố tụng triều Nguyễn (1802 – 1885), Nxb Thuận Hóa, tr. 569.
- Hoàng Việt Luật lệ, Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ, Minh Mệnh chính yếu, Đại Nam Điển lệ toát yếu là những Bộ luật, Hội điển đã được dịch sang tiếng Việt và đã được xuất bản lại từ năm 1993 đến nay.
- Hoàng Việt Luật lệ, theo các bậc, khung hình phạt chính Ngũ hình: Xuy, Trượng, Đồ, Lưu, Tử. Trong đó kết tội xuy, tội trượng (đánh bằng roi, gậy) là tội nhẹ; tội đồ, tội lưu, tội tử (khổ sai lao dịch, bị đày ở nơi xa, giết chết) là tội nặng; tội nghiêm trọng xử theo phép “Nhuận tử” như: Trảm kiêu (chém bêu đầu), Lăng trì (cắt thịt trên thân thể – dân gian gọi là tùng xẻo), Lục thi (băm nhỏ xác) là tội đặc biệt nghiêm trọng. Phép nhuận tử chỉ áp dụng đối với những kẻ đại bất trung, đại bất hiếu, đại bất nhân, đại bất nghĩa. Do hoàn cảnh lịch sử và nhiều yếu tố tác động, những quy định trong luật và thực tiễn thi hành Hình phạt triều Nguyễn nghiêm khắc hơn triều Lê. Theo luật định, hình phạt Ngũ hình thời quân chủ Việt Nam có thể “Hoán đổi” bằng tiền theo quy luật Giá trị. Đó là nguyên tắc “Chuộc tội bằng tiền” (Chuộc hình phạt bằng tiền sau khi bản án có hiệu lực thi hành). Nguyên tắc này được áp dụng rất phổ biến trong Hoàng Việt Luật lệ, theo khung bậc rõ ràng; Trừ tội Thập ác, giết người, can danh phạm nghĩa, đạo tặc thượng, bị kết tội xử quyết theo phép Nhuận tử. Đối với người già, trẻ em, người tàn tật, cô quả, phụ nữ, người dân tộc thiểu số, mức chuộc đều giảm nhẹ; đối với quan lại, người ăn lương nhà nước, mức chuộc tăng nặng; trường hợp cá biệt phải tâu lên vua định đoạt. Đây là những quy định tiến bộ trong nền kinh tế trọng nông, quân chủ phong kiến.
- Nội Các triều Nguyễn (2008) Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ, Nxb Giáo dục Hà Nội.
- Quốc triều Luật lệ toát yếu (2011), Mục tố tụng, Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổng tài Cao xuân Dục, Nxb Tư pháp, tr.218, 219.
- Hoàng Việt Luật lệ, 1996, Nxb Văn hóa thông tin, tập 1, Lời tựa, tr.5,6.
- Các văn bản Hội điển từ 1885 – 1945, các Bộ luật tân định thời thuộc Pháp, Bộ Quốc triều Tân định thời Minh Mệnh, các bộ Dân luật Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Pháp viện biên chế, Hình luật canh cải, Dân sự thương sự tố tụng; Thành tựu pháp luật Việt Nam dù dưới chế độ thuộc địa hay độc lập đều là những sản phẩm tri thức luật học của các thế hệ người Việt Nam đi trước, bảo lưu truyền thống dân tộc, tiếp nhận nền pháp chế Cộng hòa phương Tây cả mô hình châu Âu lục địa và Anglo- Saxon – Đó là những giá trị di sản cần được bảo lưu, trân trọng, giữ gìn, cần được nghiên cứu thực sự thấu đáo để định vị khoa học cho nền pháp chế nước nhà đương đại.
Trả lời