Mục lục
Chất lượng của pháp luật trong nhà nước pháp quyền
- Phân tích các giá trị của nhà nước pháp quyền
- Phân tích các đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền
- Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 – Hiến pháp của tiến trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền – GS.TSKH. Đào Trí Úc
- Vai trò của cơ quan quản lý bầu cử trong nhà nước pháp quyền – ThS. Trần Thị Thu Hà
TÓM TẮT
Trong mô hình nhà nước pháp quyền, vai trò của pháp luật được đề cao như là phương tiện bảo vệ quyền và tự do cơ bản của cá nhân, hạn chế sự tùy tiện, lạm quyền của nhà nước. Tuy nhiên, việc đề cao vai trò của pháp luật lại dẫn tới xu hướng lạm phát pháp luật, ảnh hưởng tiêu cực tới an toàn pháp lý của các chủ thể trong xã hội. Các tiêu chuẩn về chất lượng pháp luật được đặt ra nhằm giải quyết những hệ quả của lạm pháp pháp luật.
TỪ KHÓA: Pháp luật, Nhà nước pháp quyền, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 05/2018
Nhà nước pháp quyền được quan niệm như một dạng mô thức, chuẩn mực trong tổ chức quyền lực nhà nước. Trung tâm của nhà nước pháp quyền là mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật: nhà nước hành xử bằng pháp luật và trong khuôn khổ pháp luật, phục tùng pháp luật – đòi hỏi về mặt hình thức, thủ tục. Tuy nhiên, pháp luật trong nhà nước pháp quyền không phải là thứ pháp luật bất kỳ mà phải là pháp luật chứa đựng một số thuộc tính nội tại cần được tuân thủ – đòi hỏi về mặt nội dung.[1] Thuộc tính nội tại quan trọng nhất của pháp luật trong nhà nước pháp quyền là bảo vệ, bảo đảm quyền con người. Nói đúng hơn, bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của con người là nội hàm của nhà nước pháp quyền.[2] Nhà nước pháp quyền với sự đề cao vai trò của pháp luật dẫn tới sự bùng nổ của các quy phạm pháp luật, có thể tác động xấu tới an toàn pháp lý của công dân. Để bảo đảm quyền con người trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, chất lượng pháp luật là vấn đề cần được đặc biệt quan tâm.
1. Vai trò của pháp luật trong nhà nước pháp quyền và hiện tượng lạm phát pháp luật
Nhà nước pháp quyền là nhà nước trong đó các cơ quan công quyền và công dân đều phải tuân thủ pháp luật.[3] Định nghĩa ngắn gọn này bao hàm những nội dung cốt lõi tối thiểu nhất của một nhà nước pháp quyền. Đặc biệt, nguyên tắc pháp quyền đặt ra những giới hạn khắt khe hơn đối với nhà nước: trong khi công dân được làm những gì pháp luật không cấm, thì nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Mọi hành động của chính quyền đều phải tuân theo đúng thẩm quyền, thủ tục đã được xác lập. Đòi hỏi này nhằm bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của con người trước nguy cơ lạm dụng quyền lực và hành xử tùy tiện của nhà nước.
Sự phổ biến của mô hình nhà nước pháp quyền dẫn tới việc trao cho pháp luật địa vị, vai trò ngày càng lớn trong đời sống xã hội.[4] Cùng với sự phổ biến của nguyên tắc pháp quyền trong quản trị quốc gia,[5] trong những thập niên gần đây tại nhiều quốc gia xuất hiện xu hướng đề cao pháp luật như là công cụ quan trọng nhất để “kiểm soát xã hội”, “bảo đảm sự đồng thuận xã hội”, “hoạch định và dự báo các hệ quả”.[6] Thậm chí, nhiều cá nhân, tổ chức xem pháp luật như là liều thuốc chữa bách bệnh,[7] có thể thay thế mọi phương thức điều chỉnh khác (đạo đức, tôn giáo, tập quán, quy tắc ứng xử cộng đồng…) để giải quyết mọi vấn đề đặt ra của xã hội.
Tuy nhiên, việc đề cao pháp luật dẫn tới xu hướng phổ biến ở nhiều quốc gia là sự bùng nổ của các quy phạm và quy tắc pháp lý liên quan tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hiện tượng này từ lâu được một số học giả đặt tên là “lạm phát pháp luật” (inflation legislative)[8] với nhiều hệ lụy cho cơ chế điều chỉnh xã hội.[9] Lạm phát pháp luật có thể hiểu là hiện tượng gia tăng về số lượng nhưng lại giảm sút về chất lượng của các quy phạm pháp luật.
Theo số liệu thống kê của Tham chính viện Pháp (Conseil d’Etat), năm 2006 có 10.500 luật và 120.000 văn bản dưới luật đang có hiệu lực tại Pháp.[10] Dung lượng của Công báo từ 13.000 trang mỗi năm trong những năm 1970 lên 23.000 trang vào năm 2010, tăng 75% sau 40 năm.[11] Mỗi năm ở Pháp vẫn có thêm hàng trăm đạo luật được thông qua. Sự bùng nổ của số lượng văn bản quy phạm pháp luật là một trở lực lớn cho khả năng tiếp cận pháp luật, tiếp cận công lý của công dân. Số lượng văn bản quy phạm pháp luật khổng lồ, phức tạp khiến hiểu và nắm vững pháp luật chỉ là khả năng của một số lượng rất nhỏ các luật gia.
Có thể kể ra một số nguyên nhân dẫn tới hiện tượng lạm phát pháp luật như sau: (i) sự phức tạp của thế giới ngày nay buộc các cơ quan lập pháp phải can dự vào mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội; (ii) những vấn đề mới nảy sinh đòi hỏi sự can dự của pháp luật như môi trường, đạo đức sinh học; (iii) nhà làm luật cũng buộc phải đưa vào pháp luật quốc gia các quy phạm pháp luật quốc tế (nội luật hóa làm gia tăng các quy phạm mới); (iv) nhiều áp lực của công luận đòi hỏi các chính trị gia phải thường xuyên ban hành các đạo luật mới nhằm chiều lòng cử tri… Những nguyên nhân này ít nhiều đều gắn liền với hiện tượng đề cao, sùng bái, “đắm say” đối với pháp luật.[12] Theo đó, mọi sự mở rộng, tăng cường các bảo đảm pháp lý đều được xem là tích cực, văn bản quy phạm pháp luật sinh sôi nảy nở, len lỏi vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Người ta quan niệm rằng, luật hóa các quy tắc xử sự là sự bảo đảm tối cao để một số nguyên tắc hành xử trở nên bất khả xâm phạm, có thể là liệu pháp để ổn định một tình hình, khuôn khổ hóa một số hành xử.
Tuy nhiên, quan niệm cho rằng mọi thứ có thể được sắp xếp và điều chỉnh bằng pháp luật và rằng chỉ pháp luật mới có thể giải quyết được mọi vấn đề của xã hội không phải là một cách tiếp cận hiệu quả và có phần nguy hại. Bởi vì, khi áp đặt các quy phạm và pháp luật ở khắp nơi, người ta sẽ đóng băng mọi sáng kiến, buộc con người ta hành xử một cách máy móc theo những lối mòn, khuôn mẫu thay vì đặt lòng tin vào khả năng suy xét, sự khôn ngoan của con người trong hành xử.
Alain Madelin cho rằng, sự phức tạp của pháp luật chỉ có lợi cho những kẻ mạnh vốn nắm rõ hơn các quy tắc, lạm phát pháp luật cũng nguy hại như lạm phát tiền tệ, nó dẫn tới sự mất giá (trị) của luật pháp. Không thể bảo đảm mọi người bình đẳng trước pháp luật khi những người giàu thường có nhiều lợi thế vì luôn có được những lời khuyên, tư vấn hiệu quả, còn các công dân bình thường thì dễ bị lạc trong mê cung của các quy định và công thức.[13] Nói cách khác, pháp luật không thể bảo vệ được kẻ yếu thế khi nó ngày càng trở nên phức tạp, thiếu ổn định.
Ở Việt Nam, chúng ta vẫn thường gọi lạm phát pháp luật là “có cả một rừng luật”[14] với sự xuất hiện ngày càng nhiều quy định pháp luật. Xu hướng “lạm phát pháp luật” khiến cho pháp luật đánh mất hiệu quả điều chỉnh xã hội vốn có của nó. Việc gia tăng các quy phạm pháp luật có nguy cơ làm cho hệ thống pháp luật trở nên phức tạp, trở thành một trở lực cho việc tiếp cận, nắm bắt và hiểu rõ pháp luật của những người chịu trách nhiệm thực thi pháp luật cũng như chính công dân. Khi các chủ thể này không nắm bắt và hiểu rõ pháp luật một cách xác đáng thì họ không thể hành xử theo các quy tắc, chuẩn mực đã được pháp luật đề ra. Đúng như Montesquieu từng cảnh báo: “Những đạo luật vô bổ làm yếu mất các đạo luật hữu ích”.[15]
Nhằm giảm thiểu những rủi ro của hiện tượng “lạm phát pháp luật” trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, những đòi hỏi về mặt chất lượng của pháp luật được đặt ra. Theo đó, trong nhà nước pháp quyền, quy phạm pháp luật phải chứa đựng các đặc tính thực chất (tính quy phạm), cho phép nhà nước thực hiện chức năng của mình nhưng pháp luật cũng phải thiết lập cho các đối tượng mà nó điều chỉnh một khuôn khổ rõ ràng, chi tiết, ổn định, tạo ra cho những đối tượng này các yếu tố đủ chắc chắn, cũng như đưa ra khả năng để họ dự liệu được hệ quả pháp lý áp đặt lên hành vi, xử sự của họ. Đồng thời, pháp luật phải tạo cho những chủ thể này khả năng chống lại sự tùy tiện của công quyền trong áp dụng pháp luật. Những đòi hỏi về chất lượng pháp luật này được gắn liền với nguyên tắc an toàn pháp lý[16]- nguyên tắc được hình thành và phát triển ở Đức như một hệ thống học thuyết pháp lý gắn liền với lý thuyết nhà nước pháp quyền và trở thành một nguyên tắc của luật thực định tại Đức, trước khi được tiếp nhận tại nhiều quốc gia khác.[17]
2. Chất lượng pháp luật và an toàn pháp lý trong nhà nước pháp quyền
“An toàn pháp lý” đồng nghĩa với thuật ngữ “tính đáng tin cậy của pháp luật” (verlässlichkeit) bởi vì an toàn pháp lý nhằm đảm bảo cho các chủ thể pháp luật sự đáng tin cậy trong mọi tình huống dù có lợi hay bất lợi. Nguyên tắc an toàn pháp lý cho phép công dân có được “dữ liệu đáng tin cậy” về tác động pháp lý có thể đặt ra đối với cách hành xử của chủ thể này. Cũng vậy, an toàn pháp lý với tư cách là một trạng thái cần phải có của hệ thống pháp luật, vốn luôn cần những thay đổi, điều chỉnh cho phù hợp với sự tiến triển của xã hội, nhằm tạo điều kiện cần thiết cho mọi cá nhân có thể phát triển trong một môi trường pháp lý “chắc chắn, yên ổn”, để họ có thể hạn chế các rủi ro ảnh hưởng tiêu cực tới tình trạng pháp lý của mình.
Ngoài ra, có thể nhìn nhận an toàn pháp lý như là: “sự chắc chắn” (xác tín) của pháp luật, an toàn pháp lý bao hàm việc bảo đảm thực thi đầy đủ các nghĩa vụ và nhằm loại trừ sự thiếu chắc chắn, mập mờ trong việc thực hiện pháp luật. Nó liên quan đến tính “đáng tin cậy” và “sự chắc chắn, an toàn” của từng tình huống, của từng chủ thể pháp luật cụ thể nhưng đồng thời cũng là chất lượng của trật tự pháp lý và hệ thống pháp luật được xem xét trong một bối cảnh luôn có những vận động, thay đổi của xã hội. Nghĩa là, cần phải tiếp cận pháp luật trong tính vận động và biến đổi, nhưng sự vận động, biến đổi này phải dựa trên và nhằm đảm bảo trạng thái an toàn pháp lý “mang tính liên tục” cho công dân. Theo đó, các thay đổi, điều chỉnh của pháp luật phải hợp lý, logic, loại trừ những thay đổi bất ngờ đột ngột, mơ hồ, thiếu logic.
Chúng ta có thể phân tích chất lượng pháp luật dưới các góc độ sau:
Thứ nhất, trong mô hình nhà nước pháp quyền, pháp luật phải có tính chắc chắn, tính tiên liệu, ổn định trong khoảng thời gian đủ dài. Pháp quyền liên quan đến không chỉ luật hôm nay, mà cả ngày mai. Các thiết chế, luật lệ, chính sách không được phụ thuộc vào ý chí chủ quan của bất kỳ cá nhân hay nhóm người nào. Có những tác giả coi đây là đặc trưng quan trọng nhất của pháp quyền.[18] Sự ổn định, chắc chắn của luật pháp làm cho công dân yên tâm làm ăn, sinh sống, tin tưởng vào pháp luật, tự nguyện tuân thủ pháp luật. Tuy nhiên, tính chắc chắn, ổn định không nên biến pháp luật thành hệ thống cứng nhắc, không theo kịp những biến động, thay đổi của cuộc sống.
Tính ổn định của pháp luật (beständigkeit hay stetigkeit) nhằm đảm bảo sự liên tục, thường xuyên, đều đặn của các tình huống pháp lý đang có hiệu lực được dự liệu bởi luật pháp. Các tình huống này đến từ các biện pháp hay cách hành xử của cơ quan công quyền và một khi các biện pháp hay cách hành xử được đưa ra, dĩ nhiên chúng có thể được sửa đổi hay hủy bỏ (nghĩa là đòi hỏi về tính ổn định không có tính tuyệt đối) nhưng phải tuân theo một số điều kiện về mặt nội dung và hình thức chặt chẽ. Tính ổn định gắn liền với sức mạnh hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định của tòa án, các nguyên tắc về thời hiệu pháp lý… Những thay đổi, điều chỉnh có thể diễn ra nhưng phải tuân theo thủ tục pháp lý có tính ổn định cao và phải được dự liệu trước. Nói cách khác, một hệ thống pháp luật có chất lượng là hệ thống pháp luật có tính ổn định cao.
Thứ hai, pháp luật phải có tính quy phạm. Theo đó, văn bản luật chuyển tải các quy tắc, quy phạm, vì thế phải đưa ra được cho đối tượng điều chỉnh các chỉ dẫn về cách hành xử (bắt buộc, cấm, cho phép…). Các tuyên bố không có tính quy phạm không phải là luật pháp và những quy định như thế không nên xuất hiện trong luật (ví dụ các tuyên bố mang tính khẩu hiệu).
Thứ ba, “tính có thể tiên liệu trước” hay “tính có thể ước lượng được” của pháp luật nhằm giúp công dân dự liệu trước được các biện pháp và cách hành xử của tòa án, cơ quan hành chính nhà nước hay của nhà làm luật. Nghĩa là, luật pháp phải chứa đựng tính dự báo, cho phép chủ thể pháp luật dự liệu được các hệ quả pháp lý của hành vi mà họ tiến hành.[19]
Thứ tư, tính dễ tiếp cận của pháp luật để công dân có thể “nhận biết” nhằm “dự liệu trước” (dự báo trước các hệ quả pháp lý có thể có). Yêu cầu về tính dễ tiếp cận liên hệ chặt chẽ với các giá trị khác, như là tính trong sáng, đơn nghĩa, dễ đọc, dễ hiểu của luật pháp. Tính trong sáng, dễ hiểu của văn bản luật để tránh sự đa nghĩa, mập mờ, tùy tiện của công quyền nhằm bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của mọi chủ thể. Liên quan đến chất lượng của pháp luật ở mặt hình thức và nội dung, bao hàm tính cụ thể (greifbare massstabsbildung) và tính “có thể đo lường được” (messbarkeit) của các quy định và các hành xử được cơ quan công quyền đưa ra. Như vậy, về mặt hình thức, đó là sự công khai một cách thiết thực, thích đáng và đủ để công dân có thể nhận biết được, gồm các hình thức phổ biến là công bố, thông báo và tống đạt (phải làm sao dễ tiếp cận, dễ nắm bắt, dễ đọc về mặt thủ tục, tố tụng – tức là tính cụ thể). Về mặt nội dung phải làm rõ được căn cứ pháp lý, tính logic, trong sáng và rõ ràng, nhằm đảm bảo tính dễ tiếp cận, dễ nắm bắt hay dễ đọc về mặt nội dung của quyết định, bản án cũng như các căn cứ để ban hành quyết định, bản án.[20]
Như vậy, trong nhà nước pháp quyền, một hệ thống pháp luật có chất lượng sẽ cho phép mọi công dân có thể sử dụng trên thực tế các thể chế pháp lý của nhà nước nhằm bảo vệ quyền và tự do của mình, tránh được các hệ quả pháp lý bất lợi vì vi phạm pháp luật.
3. Một số tiêu chí của pháp luật có chất lượng dưới góc độ an toàn pháp lý
Thứ nhất, để bảo đảm các quyền và tự do cơ bản của công dân, đòi hỏi pháp luật hiện hành phải có thể được công chúng biết rõ và hiểu được. Điều này nhằm sửa chữa những lệch lạc do hiện tượng “lạm phát” quy phạm pháp luật gây ra thông qua việc nhấn mạnh yêu cầu về tính dễ tiếp cận và tính dễ hiểu (có thể hiểu được) của pháp luật. Sự bình đẳng trước pháp luật và bảo vệ các quyền sẽ không được bảo đảm nếu công dân không có đủ hiểu biết cần thiết về các quy phạm được áp dụng. Để khắc phục hạn chế này, cần phải nâng cao chất lượng soạn thảo và trình bày các văn bản pháp luật nhằm loại bỏ các yếu tố phức tạp, mơ hồ và mâu thuẫn của các văn bản. Các phán quyết của Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức chú trọng đặc biệt tới những tiêu chí này. Theo đó, văn bản pháp luật cần được soạn thảo với sự vững chắc về căn cứ, rõ ràng và cụ thể để mọi công dân có thể đánh giá được các đòi hỏi mà quy phạm pháp luật đặt ra, từ đó dự liệu được các hệ quả đến từ hành vi của mình. Hội đồng Bảo hiến Pháp (Conseil constitutionnel) đã đặt ra tiêu chuẩn về tính dễ tiếp cận và tính dễ hiểu của luật như một “mục tiêu có giá trị hiến định”.[21] Tuy nhiên, tiếp cận pháp luật là một mục đích có phạm vi chung chung trong khi đó, việc thực hiện lại phụ thuộc vào các biện pháp cụ thể được đưa ra để áp dụng nhằm giảm thiểu sự phức tạp ngày càng lớn của pháp luật thông qua biện pháp đơn giản hóa. Đồng thời phải tập hợp văn bản đã có thành các tổng thể hài hòa, logic, dễ tiếp cận và có một sự ổn định nhất định (pháp điển hóa thành các bộ luật).
Thứ hai, cần phải nâng cao chất lượng của luật pháp. Sự xuống cấp trong xây dựng pháp luật (công tác lập pháp) là hiện tượng phổ biến ở nhiều quốc gia. Trong khi số lượng các văn bản không ngừng tăng thì chất lượng có xu hướng đi xuống, đòi hỏi những sửa đổi, chỉnh sửa và bổ sung thường xuyên. Để khắc phục những yếu kém trong xây dựng pháp luật, từ năm 2003, Liên minh châu Âu đã đưa ra hướng dẫn “điều chỉnh tốt hơn” (better regulation)[22] nhằm khuyến khích sự giản đơn, tường minh và logic trong soạn thảo các văn bản pháp luật của các nước thành viên của khối.
Thứ ba, mọi công dân phải có được một số bảo đảm chống lại các thay đổi của pháp luật hiện hành. Trước tiên, đòi hỏi này liên quan tới việc áp dụng các quy phạm mới vào các tình huống, quan hệ pháp lý đã diễn ra trước đó. Đó là nguyên tắc không hồi tố, áp dụng chặt chẽ trong lĩnh vực hình sự. Nguyên tắc này đôi khi được diễn giải một cách mềm dẻo hơn trong các lĩnh vực khác, nhưng đây là những trường hợp đặc biệt và phụ thuộc vào các điều kiện chặt chẽ do luật định. Vấn đề áp dụng những thay đổi của các quy phạm cho các tình huống pháp lý trong tương lai có sự khác biệt. Nguyên tắc an toàn pháp lý gắn liền với đòi hỏi về tính ổn định của pháp luật cũng như nguyên tắc về “tính đáng tin cậy” của pháp luật hiện hành nhưng đồng thời phải phù hợp với nguyên tắc pháp quyền vốn cho phép tạo ra các quy phạm mới để phù hợp với sự thay đổi của đời sống xã hội. Để hài hòa các đòi hỏi này, cho phép sự điều chỉnh, thay đổi của các quy phạm pháp luật nhưng cấm những thay đổi đột ngột.
Liên quan đến việc bảo vệ công dân trước những thay đổi của luật pháp, có một nguyên tắc khác được phái sinh từ nguyên tắc an toàn pháp lý và thượng tôn pháp quyền. Đó là nguyên tắc “bảo vệ niềm tin chính đáng” (vertrauensschutz). Nguyên tắc này được đề ra ở Thụy Sĩ từ những năm 30 của thế kỉ XX, sau đó được Tòa án hiến pháp Liên bang Đức đề cập từ những năm 50 và cuối cùng được nâng lên thành nguyên tắc hiến định (phán quyết ngày 02/02/1978). Theo nguyên tắc này, mọi công dân có quyền được bảo vệ chống lại sự thay đổi không dự liệu trước của các văn bản đang có hiệu lực, dẫn tới sự thay đổi theo hướng bất lợi cho địa vị pháp lý của công dân đó.
Tại Cộng hòa Liên bang Đức, nguyên tắc này mang tính định hướng chung cho sự diễn giải của các thẩm phán khi áp dụng pháp luật vào những trường hợp cụ thể vốn rất đa dạng và thường thì nguyên tắc “bảo vệ niềm tin” được kết hợp với nguyên tắc pháp quyền và tương xứng.[23]
Tại Pháp, nguyên tắc “bảo vệ niềm tin” được thừa nhận muộn hơn. Trong phán quyết ngày 30/10/1996, Hội đồng Bảo hiến từ chối công nhận nó như một nguyên tắc có giá trị hiến pháp. Tuy nhiên, Tham chính viện đã thừa nhận nguyên tắc an toàn pháp lý áp đặt cho hệ thống pháp luật qua phán quyết ngày 24/03/2006. Trong khi đó, Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức xem an toàn pháp lý như một thành tố căn bản của nguyên tắc nhà nước pháp quyền.[24]
CHÚ THÍCH
[1] Jacques Chevallier, L’Etat de droit, 5e éd. Nxb. Montchrestien, 2010, tr. 18.
[2] Đào Trí Úc, Giáo trình Nhà nước pháp quyền, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015, tr. 63.
[3] Brian Z. Tamanaha, “The History and Elements of the Rule of Law”, Washington University in St. Louis School of Law, Legal Studies Research Paper Series, Paper No. 12/02/07, Feb 2012, http://ssrn.com/abstract=2012845, truy cập ngày 12/11/2017.
[4] Jacques Chevallier, sđd, tr. 135.
[5] Nguyễn Văn Quân, “Sự phổ biến của chủ nghĩa hợp hiến và nhà nước pháp quyền như một chuẩn mực quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 15/2017.
[6] Dace Sulmane, “Legislative Inflation – An analysis of the Phenomenon in Contemporary Legal Discourse”, Baltic Journal of Law & Politics, 4:2, 2011, tr. 80.
[7] Guilaume Glénard, La conception matérielle de la loi revivifiée, RFDA 2005, tr. 922; Jacques Chevallier, sđd, tr.136.
[8] Charles Debbasch et a., L’inflation legislative et réglementaire en Europe, CNRS, 1986, tr. 81-85; Jean Carbonnier, Droit et passion du droit sous la Ve République, Nxb. Flammarion, 1996, tr. 106.
[9] René Savatier, L’inflation législation et l’indigestion du corps social, Recueil Dalloz, 1977, tr. 43; Georges Ripert, Le déclin du droit, Nxb. LGDJ, Paris, 1949, tr. 67-72.
[10] Conseil d’État, Rapport public 2006 : Jurisprudence et avis de 2005. Sécurité juridique et complexité du droit, Paris: La Documentation française, 2006, tr. 239.
[11] Theo báo điện tử LeMonde, http://www.lemonde.fr/les-decodeurs/breve/2015/01/26/l-inflation-legislative-depuis-40-ans-resumee-en-un-graphique_4563734_4355770.html, truy cập ngày 12/11/2017.
[12] Giáo sư luật nổi tiếng người Pháp Jean Carbonnier gọi hiện tượng này là “sự say đắm luật pháp” (passion du droit) và lấy làm tiêu đề cho cuốn sách nổi tiếng của ông. Xem: Jean Carbonnier, Droit et passion du droit sous la Ve République, Nxb. Flammarion, 2008, tr. 108 và tiếp theo.
[13] Alain Madelin, Quand les autruches relèveront la tête, Nxb. Robert Laffront, Chapitre 1, tr. 20.
[14] Thuật ngữ “rừng luật” không chỉ được dùng ở nước ta mà nhiều nước cũng dùng khái niệm tương tự. Xem: Eric Rohde, ““Trop de loi tue la loi”… : la jungle législative” (Quá nhiều luật lệ giết chết luật pháp… hiện tượng rừng luật), Le Monde, https://www.lemonde.fr/societe/article/2007/01/23/trop-de-loi-tue-la-loi-la-jungle-legislative_858601_3224.html, truy cập ngày 23/01/2007.
[15] Montesquieu, Tinh thần pháp luật, Hoàng Thanh Đạm dịch, Nxb. Giáo dục và Khoa Luật – Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, 1996, tr. 212.
[16] Tiếng Anh: legal certainty, tiếng Đức: Rechtssicherheit, tiếng Pháp: Sécurité juridique. Lâu nay, có một số tài liệu đã dùng thuật ngữ “an ninh pháp lý”. Theo chúng tôi, thuật ngữ “an ninh” hay “an toàn” pháp lý đều có thể dùng để diễn đạt khái niệm này. Suy cho cùng là xuất phát từ cách dịch thuật ngữ này từ tiếng nước ngoài vì khái niệm này mới được du nhập vào Việt Nam trong giai đoạn gần đây. Ở đây, chúng tôi sử dụng thuật ngữ “an toàn pháp lý” với nghĩa là trạng thái “yên ổn hẳn, tránh được tai nạn, tránh được thiệt hại” của các chủ thể pháp luật trước những rủi ro pháp lý đến từ sự phức tạp của hệ thống pháp luật, theo cách giải thích về thuật ngữ “an toàn” trong Từ điển Tiếng Việt. Xem: Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Từ điển bách khoa, 2010, tr. 21.
[17] Nguyễn Văn Quân, “Yêu cầu về an toàn pháp lý trong nhà nước pháp quyền”, Tạp chí Luật học, số 9/2016.
[18] Barry R. Weingast, Why Developing Countries Prove So Resistant to the Rule of Law, paper prepared for World Justice Forum, Vienna, July 2-5 2008.
[19] Yves Madiot, Qualité du droit et protection des droits fondamentaux, in Mélanges Campinos, Nxb. PUF, 1996, tr. 64.
[20] Theo một số tác giả, sự trong sáng, rõ ràng và chính xác của văn bản pháp lý xuất phát từ “nguyên tắc đảm bảo công lý”, gắn liền với nguyên tắc nhà nước pháp quyền. Xem: Christian Autexier, Introduction au droit public allemand, Paris, Nxb. PUF, 1997, tr. 106 (Sự trong sáng, rõ ràng và chính xác của văn bản pháp lý cho phép công dân có được ý tưởng chính xác về tình trạng pháp lý của mình).
[21] Phán quyết ngày 16/12/1999 (Décision n° 99-421 DC 16 décembre 1999) và 26/6/2003 (Décision 2003-473 DC du 26 juin 2003).
[22] “Better regulation” được thông qua ngày 16/12/2003,.http://eur-lex.europa.eu/legal-content/EN/TXT/?uri=URISERV:l10116, truy cập ngày 20/6/2017.
[23] Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Giới hạn chính đáng đối với các quyền con người, quyền công dân trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, 2015, tr. 14-20.
[24] An toàn pháp lý và bảo vệ niềm tin là hai yếu tố hiến định được phái sinh từ nguyên tắc nhà nước pháp quyền. Xem: Sylvia Calmes, Du principe de protection de la confiance légitime en droits allemand, communautaire et français, Nxb. Dalloz, 2001, tr. 102; BVerfGE 15, 167 (207); 80, 137 (153); 87, 48 (61).
Tác giả: ThS. Nguyễn Văn Quân
Like Luật sư Online tại: https://www.facebook.com/iluatsu/
Trả lời