Mục lục
Giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực thi Pháp luật về kiểm soát lợi ích nhóm ở Việt Nam
Tác giả: Lê Đinh Mùi [1]
TÓM TẮT
Lợi ích từ lâu đã được thừa nhận và là động lực cho sự phát triển của xã hội. Kiểm soát lợi ích luôn là vấn đề có tính thời sự nhằm bảo đảm sự công bằng xã hội. Trên thực tế bên cạnh tính tích cực của lợi ích nhóm, những tác động tiêu cực của lợi ích nhóm trong đó nhóm lợi ích đặc quyền, đặc lợi tác động tới quá trình hoạch định và thực thi chính sách của các cấp quản lý, của nhà nước gây không ít khó khăn, cản trở sự phát triển lành mạnh của đất nước. Kiểm soát lợi ích nhóm theo nghĩa tiêu cực này cần được pháp luật điều chỉnh, nhằm ngăn chặn, xử lý nghiêm minh, kịp thời và khắc phục những hậu quả gây ra của nhóm lợi ích.
1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát lợi ích nhóm
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Tham nhũng là biểu hiện rõ nhất, có nguồn gốc từ lợi ích nhóm vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng có ý nghĩa quan trọng để kiểm soát lợi ích nhóm. Vì vậy, trong thời gian tới các cơ quan có thẩm quyền cần rà soát nghiên cứu, nội luật hóa cụ thể các quy định về phòng, chống tham nhũng của pháp luật Việt Nam để đảm bảo tương thích với yêu cầu của Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng. Cụ thể như:
– Hoàn thiện các quy định của Luật phòng, chống tham nhũng theo hướng giải thích rõ hơn phạm vi các khái niệm “tài sản tham nhũng”, “thu hồi tài sản tham nhũng”. Quy định cụ thể về các hình thức, biện pháp, trình tự, thủ tục, thẩm quyền, trách nhiệm, cách thức phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong thu hồi tài sản tham nhũng; quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý các lĩnh vực tài chính, đất đai, nhà, công trình, phương tiện trong việc thực hiện các biện pháp ngăn chặn của các cơ quan chức năng.
– Tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật về minh bạch tài sản, thu nhập để kiểm soát được tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức và một số người có chức vụ, quyền hạn khác, đặc biệt là trong công ty đại chúng, tổ chức tín dụng và quỹ đầu tư. Nội dung gồm quy định về kê khai tài sản, thu nhập; quản lý bản kê khai; theo dõi biến động; xác minh tài sản, thu nhập; xử lý vi phạm và xử lý tài sản, thu nhập kê khai không trung thực, không được giải trình hợp lý theo hướng: qua kết quả xác minh nếu kết luận tài sản, thu nhập thực tế của người có nghĩa vụ kê khai lớn hơn tài sản, thu nhập đã kê khai, thì cơ quan, đơn vị kiểm soát tài sản, thu nhập có trách nhiệm yêu cầu cơ quan quản lý thuế xem xét, xử lý và truy thu thuế nếu người có nghĩa vụ kê khai giải trình được một cách hợp lý nguồn gốc của phần tài sản, thu nhập chênh lệch; hoặc khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án cấp có thẩm quyền để phán quyết về quyền sở hữu đối với phần tài sản, thu nhập chênh lệch nếu không giải trình được một cách hợp lý.
– Nghiên cứu, xem xét ban hành văn bản pháp luật quy định cụ thể về việc kiểm tra, giám sát các tài khoản được mở, được duy trì hoặc nhân danh các cá nhân đang hoặc đã từng giữ chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước, hay các thành viên trong gia đình, người thân của người có chức vụ, quyền hạn.
– Hoàn thiện cơ chế thu hồi tài sản tham nhũng, tiếp tục nghiên cứu quy định rõ ràng, cụ thể về trình tự, thủ tục cho công nhận và thi hành phần dân sự trong quyết định, lệnh, bản án hình sự của Toà án nước ngoài, đặc biệt là vấn đề liên quan đến tịch thu, hoàn trả tài sản do phạm tội mà có mà người sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản đó là người ở phía nước ngoài có yêu cầu. Hoàn thiện cơ chế hợp tác quốc tế về thu hồi tài sản tham nhũng, cần quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục hợp tác quốc tế trong việc thực hiện ủy thác hoặc lệnh của cõ quan có thẩm quyền của nước ngoài về xác minh, phong tỏa, thu giữ, tịch thu tài sản tham nhũng có nguồn gốc từ nước ngoài. Theo ðó, cõ quan chức nãng của Việt Nam theo nguyên tắc có đi có lại, có quyền yêu cầu nước ngoài xác minh, phong tỏa tài sản có nguồn gốc tham nhũng từ Việt Nam để thu hồi.
– Nghiên cứu, xem xét ban hành các văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể việc các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam giải quyết các yêu cầu tịch thu tài sản, thu hồi hoặc hoàn trả tài sản cho nước ngoài. Trong đó, quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Thanh tra Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước trong phối hợp để giải quyết các vấn đề có liên quan đến việc tịch thu, thu hồi, hoàn trả tài sản cho quốc gia thành viên có yêu cầu. Việt Nam cũng cần nghiên cứu, ban hành các quy định pháp luật cần thiết nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết cho phép các cơ quan có thẩm quyền công nhận hiệu lực thi hành đối với lệnh tịch thu tài sản được đưa ra bởi một toà án của quốc gia thành viên khác.
– Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện quy định về trình tự, thủ tục phong tỏa, kê biên, thu giữ và trả lại tài sản do phạm tội mà có trong trường hợp yêu cầu này do Tòa án nước ngoài ban hành trong Bộ luật tố tụng hình sự. Bên cạnh đó cũng cần nghiên cứu quy định về thủ tục, thẩm quyền chuyển hóa vào tố tụng hình sự trong nước để thực hiện. Đồng thời, quy định việc công nhận các quyết định của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài liên quan đến việc phong toả hoặc tạm giữ tài sản hoặc thực hiện việc phong tỏa, tạm giữ tài sản dựa trên một lệnh phong toả hoặc tạm giữ được ban hành bởi cơ quan có thẩm quyền của quốc gia thành viên có yêu cầu đối với tài sản thuộc diện phải tịch thu; nghiên cứu, xem xét quy định về áp dụng các biện pháp ngăn chặn, phong tỏa, kê biên, thu giữ, tịch thu tài sản tại Việt Nam được xác định có nguồn gốc từ hành vi phạm tội nước ngoài.
– Tiếp tục hoàn thiện quy định hợp tác quốc tế về thu hồi tài sản tham nhũng nhằm nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng và nâng cao mức độ tuân thủ Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng.
Thứ hai, hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự và tố tụng hình sự.
– Một trong những yêu cầu trong đấu tranh chống tham nhũng (biểu hiện rõ nhất của lợi ích nhóm) là kết quả thu hồi tài sản tham nhũng của các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án. Vì vậy, đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải chú ý đến việc xác minh, truy tìm tài sản của bị can, bị cáo để có biện pháp ngăn chặn việc tẩu tán, cất giấu tài sản. Tuy nhiên, pháp luật tố tụng hình sự hiện hành chủ yếu quy định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc đấu tranh, làm rõ hành vi phạm tội mà chưa chú ý quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc phát hiện, xác minh tiền, tài sản tham nhũng hay có nguồn gốc từ tham nhũng của bị can, bị cáo để có áp dụng biện pháp bảo đảm cần thiết để đảm bảo thu hồi tiền, tài sản tham nhũng sau xét xử. Các quy định về kê biên tài sản (Điều 128 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và quy định về tịch thu tài sản theo Điều 45 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) đều có thể được áp dụng đối với các bị can phạm tội về tham nhũng, nhất là các vụ án lớn. Tuy nhiên, do pháp luật quy định trong các tội danh về tham nhũng trong Bộ luật hình sự, người phạm tội chỉ có thể bị phạt tiền mức cao nhất là 100.000.000 đồng nên sau khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can, cơ quan điều tra và Viện kiểm sát rất ít áp dụng các biện pháp kê biên hay tịch thu tài sản vì không thể biết chắc rằng khi xét xử thì người phạm tội có bị tịch thu tài sản hoặc phải bồi thường thiệt hại hay không và nếu cần phải kê biên tài sản thì cũng rất khó xác định phần tài sản phải kê biên tương ứng với mức có thể bị phạt tiền, bị tịch thu hoặc phải bồi thường như thế nào khi mà việc quyết định mức phạt, mức bị tịch thu, mức phải bồi thường hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của Hội đồng xét xử. Hơn nữa, để có thể áp dụng biện pháp kê biên tài sản, tịch thu tài sản thì cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến hành nhiều trình tự, thủ tục giám định thiệt hại theo quy định pháp luật rất mất thời gian, chi phí ảnh hưởng đến thời hạn tiến hành tố tụng nên thực tế cơ quan điều tra chưa chú trọng xác minh và áp dụng các biện pháp phong tỏa, kê biên tài sản trong quá trình điều tra. Vì vậy, đến giai đoạn thi hành án việc thu hồi tài sản tham nhũng không hiệu quả.
Hoàn thiện các quy định của Bộ Luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự cần chú trọng vấn đề thu hồi tài sản tham nhũng; quy định bắt buộc trong xử lý tội phạm tham nhũng phải áp dụng hình phạt bổ sung nhằm thu hồi đủ giá trị tài sản bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; đồng thời phải chịu trách nhiệm vật chất về thiệt hại của Nhà nước do hành vi phạm tội gây ra. Quy định tăng mức hình phạt tiền, giảm hình phạt tù có thời hạn và các hình phạt khác đối với những đối tượng có hành vi tham nhũng nhưng đã chủ động khai báo, khắc phục hậu quả, giúp tăng khả năng thu hồi tài sản tham nhũng. Đối với các tội phạm kinh tế nói chung, các tội phạm về tham nhũng nói riêng, nếu người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã trả lại hết tài sản tham nhũng, đã bồi thường đầy đủ thiệt hại do tham nhũng gây ra thì có thể xem xét áp dụng hình phạt chính là phạt tiền, miễn hoặc giảm hình phạt. Trong trường hợp đặc biệt có thể miễn trách nhiệm hình sự, chuyển xử lý hành chính. Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung quy định của Bộ luật hình sự theo hướng không chỉ người phạm tội mới có nghĩa vụ trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại mà bất kỳ ai đang chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
– Nghiên cứu quy định về tội danh làm giàu bất hợp pháp, có nghĩa là chuyển nghĩa vụ chứng minh tính hợp pháp của tài sản sang cá nhân phải chứng minh đối với tài sản của họ. Việc quy định nghĩa vụ của người có tài sản, thu nhập phải chứng minh nguồn gốc tài sản, thu nhập của mình theo quy định của Công ước là trái với nguyên tắc về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam thì chỉ có cơ quan tiến hành tố tụng mới có nghĩa vụ chứng minh tội phạm, công dân không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội. Vì vậy, Việt Nam cần có lộ trình cho quá trình thực hiện, đặc biệt là hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung liên quan đến hệ thống đăng ký quyền sở hữu tài sản và quản lý dữ liệu về tài sản đăng ký… Để xử lý hành vi làm giàu bất hợp pháp trong bối cảnh hiện hay, Việt Nam chưa quy định tội làm giàu bất chính trong Bộ luật hình sự nhưng trong quá trình sửa đổi toàn diện Luật phòng, chống tham nhũng cần có quy định về việc xử lý đối với phần tài sản tăng thêm đáng kể mà không giải thích được nguồn gốc hợp pháp. Theo đó, căn cứ kết quả xác minh tài sản, thu nhập đối với người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập mà không giải trình được một cách hợp lý về nguồn gốc tài sản tăng thêm, cơ quan có thẩm quyền xác minh phải ra kết luận về tính trung thực của người có nghĩa vụ giải trình. Trường hợp kết luận người đó kê khai không trung thực, thì cơ quan đã ra quyết định xác định có trách nhiệm chuyển vụ việc tới cơ quan có thẩm quyền để khởi kiện vụ án dân sự theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Đồng thời, cũng cần bổ sung vào Luật phòng, chống tham nhũng quy định về việc tài sản tăng thêm mà không giải trình được nguồn gốc hợp pháp thì bị coi là tài sản bất hợp pháp và bị tịch thu sung công quỹ nhà nước sau khi có bản án, quyết định dân sự có hiệu lực của Toà án.
– Quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, thẩm quyền thu hồi tài sản tham nhũng, phát huy được trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong quá trình phát hiện, thu hồi tài sản tham nhũng. Quy định rõ trong các vụ án tham nhũng phải cho phép áp dụng biện pháp kê biên tài sản ngay từ khi có đủ căn cứ khởi tố bị can về hành vi tham nhũng để tránh việc “đánh tháo, tẩu tán” tài sản do tham nhũng mà có. Bổ sung biện pháp phong tỏa tài khoản tại ngân hàng; quy định cụ thể về thủ tục kê biên. Nghiên cứu, bổ sung các quy định giúp phát huy được vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, người tiến hành tố tụng trong quá trình phát hiện, áp dụng các biện pháp để thu hồi tài sản tham nhũng; trong đó tập trung vào 03 nhóm quy định: Nhóm thứ nhất, những quy định chung mang tính nguyên tắc về thu hồi tài sản tham nhũng; Nhóm thứ hai, những quy định về phát hiện việc chuyển tài sản tham nhũng; Nhóm thứ ba, những quy định về các biện pháp trực tiếp thu hồi tài sản tham nhũng.
– Nghiên cứu, đề xuất bổ sung các quy định về việc cho phép cơ quan điều tra được áp dụng các biện pháp điều tra đặc biệt với một số loại tội, trong đó có các tội về tham nhũng như: ghi âm, nghe điện thoại, kiểm tra thư tín, tài khoản ngân hàng… giúp nhanh chóng phát hiện, làm rõ hành vi cũng như tài sản tham nhũng.
– Nghiên cứu, cụ thể hóa quy định về việc Tòa án nhân dân kiểm tra, xác minh, thu thập chứng cứ cũng như Tòa án nhân dân trong giai đoạn chuẩn bị xét xử có quyền xác minh tài sản trong trường hợp người phạm tội sẽ phải trả lại tài sản, sẽ phải bồi thường thiệt hại để quyết định có hay không ra lệnh kê biên tài sản bảo đảm cho thi hành án.
Thứ ba, hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và tương trợ tư pháp.
– Bổ sung các quy định về thu hồi tài sản và xác định rõ vấn đề thu hồi tài sản do phạm tội mà có thuộc phạm vi tương trợ tư pháp về hình sự. Cụ thể là tập trung quy định đầy đủ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục hợp tác quốc tế trong việc đề nghị các cơ quan có thẩm quyền nước ngoài xác minh, phong tỏa, thu giữ, chuyển giao tài sản tham nhũng liên quan đến lợi ích nhóm có nguồn gốc từ Việt Nam ở nước ngoài về cho Nhà nước Việt Nam; thực hiện ủy thác hoặc lệnh của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài về xác minh, phong tỏa, thu giữ, tịch thu tài sản tham nhũng có nguồn gốc từ nước ngoài. Xác lập được cơ chế chia sẻ thông tin, phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền nước ngoài trong việc thực hiện thu hồi tài sản tham nhũng có yếu tố nước ngoài. Đồng thời, đẩy mạnh tham gia, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự giữa Việt Nam với các nước nhằm tạo cơ sở pháp lý, cơ chế phối hợp trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng có yếu tố nước ngoài.
– Sửa đổi, bổ sung quy định về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức được giao quản lý tài sản thuộc sở hữu nhà nước trong việc khởi kiện vụ án dân sự để đòi lại những tài sản thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức mình, nhưng bị hành vi tham nhũng xâm phạm, để trả về cho Nhà nước. Đồng thời quy định chế tài đối với những người có trách nhiệm, nhưng không thực hiện trách nhiệm khởi kiện, chứng minh tài sản bị hành vi tham nhũng xâm hại, gây ra.
Thứ tư, hoàn thiện các quy định pháp luật chuyên ngành có liên quan.
– Nghiên cứu, hoàn thiện các quy định về bổ nhiệm, miễn nhiệm; minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ công chức, viên chức; góp phần hoàn thiện cơ chế phòng ngừa lợi ích nhóm, tham nhũng từ đó làm tốt việc kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức. Theo đó, chú trọng quy định về xây dựng dữ liệu về minh bạch tài sản, thu nhập cho cán bộ công chức ở từng cấp; bổ sung quy định về trách nhiệm của Kiểm toán Nhà nước trong công tác phòng, chống tham nhũng…
– Nghiên cứu xây dựng Luật đăng ký tài sản để tất các các cơ quan, tổ chức, cá nhân có tài sản đều phải kê khai, đăng ký nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý nhà nước đối với tài sản trong toàn quốc; qua đó hỗ trợ cho việc thi hành án thu hồi tài sản tham nhũng thuận lợi hơn. Quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị có chức năng quản lý các lĩnh vực tài chính, đất đai, nhà, công trình, phương tiện trong việc phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật để làm rõ, thu hồi tài sản tham nhũng. Xây dựng Luật đăng ký tài sản để tạo một khuôn khổ pháp lý thật sự đầy đủ, công khai, minh bạch, về tình trạng pháp lý của tài sản, giao dịch. Có như vậy, mới đảm bảo được tính an toàn, tính dự báo, tính chắc chắn trong các giao dịch về dân sự, thương mại trong nền kinh tế và góp phần vào công tác phòng chống tham nhũng, xây dựng nhà nước pháp quyền và một hệ thống hành chính công vụ trong sạch, vững mạnh. Về lâu dài, việc sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về giao dịch bảo đảm, đăng ký giao dịch bảo đảm phải đặt trong tổng thể đảm bảo đồng bộ, thống nhất với pháp luật có liên quan như pháp luật về đất đai, nhà ở, hàng không, hàng hải, pháp luật về đăng ký tài sản, pháp luật về thủ tục tố tụng dân sự.
– Nghiên cứu, quy định về thẩm quyền điều tra ban đầu cho cơ quan thanh tra để có thể thu thập hồ sơ, hoặc thực hiện các biện pháp ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật, phong tỏa và thu hồi tài sản; bổ sung nội dung về giá trị pháp lý của kết luận, quyết định xử lý thanh tra, chế tài đối với việc không chấp hành các kiến nghị, quyết định xử lý trong thanh tra đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan; bổ sung quyền kê biên tài sản cho cơ quan thanh tra nhà nước, người có thẩm quyền trong hoạt động thanh tra để bảo đảm cho việc thi hành các quyết định thu hồi tài sản thông qua hoạt động thanh tra.
– Nghiên cứu, bổ sung quy định đặc thù về thi hành án đối với các vụ tham nhũng; cho phép tăng cường áp dụng các biện pháp bảo đảm tài sản trong quá trình xử lý hành vi tham nhũng nhằm tăng khả năng thu hồi tài sản tham nhũng; cơ quan thi hành án dân sự cần phải được chủ động ra quyết định thi hành án và tổ chức việc thi hành án đối với khoản thu tiền, tài sản tham nhũng thay cho cơ chế giao cho cơ quan, tổ chức được thi hành án dân sự làm đơn yêu cầu thi hành án; công khai danh tính, họ tên, địa chỉ của người phải thi hành án, nhất là người phải thi hành án tham nhũng nếu họ chưa thi hành án.
– Hoàn thiện pháp luật về giám định tư pháp theo hướng: Quy định cụ thể trách nhiệm của các tổ chức giám định, giám định viên; xây dựng đầy đủ, cụ thể quy trình, quy chuẩn giám định tư pháp; tập trung đầu tư cho lĩnh vực giám định tài chính – ngân hàng, đầu tư xây dựng cơ bản…Các cơ quan tiến hành tố tụng ở Trung ương cần xây dựng, ban hành hướng dẫn thi hành Luật giám định tư pháp, làm cơ sở cho việc giải quyết các vụ án tham nhũng cũng như thu hồi tài sản tham nhũng.
– Sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho Nhà nước của những người thi hành công vụ sai, đặc biệt là có các hành vi tham nhũng gây ra mà không bị xử lý hình sự.
– Quy định cụ thể và kiểm soát chặt chẽ dòng tiền của các giao dịch lớn thực hiện qua tài khoản, xác định số dư tài khoản ở nước ngoài để kịp thời phát hiện những dấu hiệu vi phạm, đấu tranh với hành vi rửa tiền, chuyển tài sản tham nhũng cho người khác.
– Tiếp tục hoàn thiện chế định về bảo vệ, khen thưởng cá nhân, tổ chức có thành tích trong việc phát hiện, tố giác hành vi tham nhũng, điều tra, xử lý tội phạm tham nhũng, thu hồi tài sản tham nhũng cho Nhà nước.
– Hoàn thiện các quy định về dân chủ cơ sở, triển khai rộng rãi cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra; xử lý mọi thông tin nhân dân cung cấp; nâng cao trình độ hiểu biết, ý thức trách nhiệm và tinh thần tự giác của nhân dân đối với sự nghiệp lành mạnh hóa, trong sạch hóa đội ngũ cán bộ, đảng viên và xã hội. Đặc biệt là hoàn thiện các quy định về cơ chế phản biện của nhân dân đối với các quyết định lãnh đạo, quản lý. Bởi vì, phản biện giúp cho xung đột của các nhóm lợi ích được điều chỉnh thông qua thảo luận và thỏa thuận để ngăn ngừa hình thành lợi ích nhóm, tạo cơ chế thu hút nhân dân tham gia xây dựng chính sách…
2. Giải pháp bảo đảm thực thi pháp luật về kiểm soát lợi ích nhóm
Như trên đã nêu, lợi ích nhóm được hiểu ở đây chính là lợi ích không mang tính chính đáng, hợp pháp. Biểu hiện ở lợi ích nhóm là các hành động tham nhũng, tha hóa và vi phạm pháp luật. Để ngăn chặn lợi ích nhóm cần phải có một số giải pháp sau đây:
– Đẩy mạnh công khai hóa, minh bạch hóa các hoạt động của các cơ quan trong bộ máy công quyền. Bởi lẽ, nếu trong hoạt động của bộ máy công quyền còn nhiều điểm tối, không rõ ràng, thì lợi ích nhóm còn có cơ hội hình thành. Do vậy, công khai, minh bạch các hoạt động của bộ máy công quyền là một trong những giải pháp làm cho lợi ích nhóm ít có cơ hội hình thành, phát triển.
– Kiểm tra thường xuyên, đặc biệt là phải tăng cường kiểm tra chéo các hoạt động công vụ nhằm ngăn chặn khả năng hình thành lợi ích nhóm.
– Kê khai tài chính của bản thân và của gia đình của cán bộ, công chức; kê khai thường xuyên hàng năm, bảo đảm minh bạch các nguồn thu nhập của mọi người.
– Nâng cao mức lương cho công chức. Lương của công chức thể hiện đủ để cán bộ có thể sống được bằng lương và thể hiện danh dự của người công chức sẵn sàng cống hiến cho Nhà nước và hết lòng phục vụ nhân dân.
– Phát huy vai trò giám sát của cộng đồng và xã hội, phát hiện những dấu hiệu bất thường nhằm ngăn chặn sự hình thành lợi ích nhóm. Đặc biệt là, cần nâng cao nhận thức cho cán bộ, công chức, viên chức và người dân về các biểu hiện của lợi ích nhóm để phát huy vai trò của xã hội trong phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm pháp luật, tội phạm phát sinh từ lợi ích nhóm và bảo đảm các điều kiện để hoàn thiện pháp luật về kiểm soát lợi ích nhóm (ví dụ như: số lượng, chất lượng, năng lực, trình độ, tinh thần trách nhiệm của người trực tiếp tham gia vào công tác xây dựng văn bản pháp luật về kiểm soát lợi ích nhóm; có chính sách thu hút, đào tạo, bồi dưỡng bố trí cán bộ giỏi tham gia vào những hoạt động này; bảo đảm bố trí đầy đủ, kịp thời kinh phí thực hiện hoạt động xây dựng văn bản và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật về kiểm soát lợi ích nhóm trong hoạt động của bộ máy nhà nước…).
– Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong xây dựng và thực hiện pháp luật về kiểm soát lợi ích nhóm.
Có thể nói, kiểm soát lợi ích nhóm là vấn đề tương đối mới mẻ đối với Việt Nam, do đó việc tranh thủ các kinh nghiệm của một số nước trên thế giới đã thành công trong công tác này là rất cần thiết. Thực tế thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã hợp tác với các tổ chức chính phủ, phi chính phủ của một số nước trên thế giới và các tổ chức quốc tế đã đem lại cho Việt Nam những nguồn lực, kinh nghiệm trong việc nghiên cứu, xây dựng và áp dụng pháp luật vào thực tiễn; đặc biệt, là các dự án, chương trình như: nhân rộng sáng kiến phòng, chống tham nhũng, đối thoại phòng, chống tham nhũng, vấn đề kiểm soát xung đột lợi ích trong khu vực công…Tuy nhiên, Chính phủ Việt Nam cần chủ động hơn nữa trong việc tham gia các chương trình, sáng kiến, diễn đàn quốc tế về phòng, chống tham nhũng nói chung, kiểm soát lợi ích nhóm nói riêng trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Đặc biệt, cần tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực lập pháp về kiểm soát lợi ích nhóm, liên quan đến phòng, chống tham nhũng.
– Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, sắp xếp bộ máy gọn nhẹ, bảo đảm công khai, minh bạch các hoạt động kinh tế, tài chính trong các cơ quan, đơn vị.
– Xử lý nghiêm, kịp thời, công khai những vụ việc đã được phát hiện. Có biện pháp xử lý kiên quyết, nghiêm minh những người tham nhũng, lãng phí bất kể ở chức vụ nào, đương chức hay đã nghỉ hưu. Ban hành và thực hiện quy định để xử lý thích đáng, đúng pháp luật người đứng đầu cơ quan, đơn vị, nơi nảy ra tham nhũng, lãng phí, gây hậu quả nghiêm trọng. Tịch thu sung công tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng; xử lý nghiêm minh những người bao che tham nhũng hoặc lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để vu khống, làm hại người khác, đồng thời có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; biểu dương và nhân rộng những tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.
– Tiếp tục đổi mới chế độ tiền lương đối với đội ngũ cán bộ, công chức; quy định cụ thể, chặt chẽ về kiểm soát, giám sát thu nhập của cán bộ, công chức.
– Gắn đấu tranh phòng, chống lợi ích nhóm, chống tham nhũng, lãng phí với công tác chỉnh đốn, xây dựng Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân./.
CHÚ THÍCH
- Tiến sỹ, Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Trả lời