Pháp luật về thương mại điện tử – Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện
Tác giả: Phạm Thị Hồng Nhung [1] & Nguyễn Việt Dũng [2]
TÓM TẮT
Thương mại điện tử, hay còn gọi là E – commerce (EC), là hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa và dịch vụ thông qua các phương tiện điện tử và Internet. Hoạt động này đã và đang mang lại nhiều lợi ích giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng đồng thời cũng đang đặt ra những thách thức cho các cơ quan quản lý trong việc xây dựng khung pháp lý điều chỉnh các hoạt động thương mại điện tử. Hiện nay, hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử còn chưa đồng bộ, vẫn còn một số bất cập, hạn chế. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đề cập đến tình hình phát triển thương mại điện tử tại Việt Nam, hệ thống pháp luật về thương mại điện tử hiện nay tại Việt Nam và một số bất cập, hạn chế, đề xuất, giải pháp để góp phần nâng cao hiệu quả quản lý về thương mại điện tử, cũng như ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại điện tử.
1. Hệ thống văn bản pháp luật về thương mại điện tử
Theo Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 của Chính phủ về thương mại điện tử (sau đây gọi là Nghị định số 52), “Hoạt động thương mại điện tử là việc tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử có kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác”3. Như vậy, có thể hiểu thương mại điện tử là mua bán hàng hóa và dịch vụ thông qua các phương tiện điện tử và Internet.
Số liệu thống kê cho thấy, thị trường thương mại điện tử Việt Nam đầu năm 2020 đạt 5 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng lên tới 81%. Số lượng người tham gia mua sắm trực tuyến trên các nền tảng thương mại điện tử cũng tăng vọt. Năm 2019, cả nước có 39,9 triệu người tham gia mua sắm trực tuyến, tăng 11,8% so với năm 2018 và tăng trưởng gần gấp đôi chỉ sau 3 năm. Giá trị mua sắm trực tuyến bình quân đầu người đạt 202 USD, tăng 8,6%4. Điều này chứng minh sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động thương mại điện tử, khẳng định vị trí ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam.
Sự ra đời của Luật giao dịch điện tử năm 2005 và Luật Công nghệ thông tin năm 2006 đã đặt nền tảng pháp lý cho giao dịch điện tử nói chung và thương mại điện tử nói riêng. Luật giao dịch điện tử năm 2006 quy định về thông điệp dữ liệu, chữ ký điện tử và chứng thực chữ ký điện tử, giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước; an ninh, an toàn, bảo vệ, bảo mật trong giao dịch điện tử; giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong giao dịch điện tử. Trong khi đó, Luật công nghệ thông tin năm 2006 quy định chung về hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin cùng những biện pháp bảo đảm hạ tầng công nghệ cho các hoạt động này. Cho đến nay, hệ thống luật và văn bản dưới luật về thương mại điện tử đã được xây dựng, ban hành tương đối đầy đủ, tạo nên khung pháp lý cơ bản cho các giao dịch trong lĩnh vực này. Cụ thể, để hướng dẫn, quản lý hoạt động giao dịch và các hoạt động liên quan đến thương mại điện tử, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 của Chính phủ về thương mại điện tử với mục tiêu thiết lập hành lang pháp lý cho các giao dịch thương mại điện tử được tiến hành một cách minh bạch, tạo điều kiện để thương mại điện tử phát triển, cũng như tạo thói quen tiêu dùng, mua sắm hiện đại của người dân.
Bên cạnh đó, còn một số văn bản khác như:
Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng; Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/08/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và quyền lợi người tiêu dùng; Thông tư số 47/2014/TT-BCT ngày 05/12/2014 của Bộ Công thương quy định về quản lý website thương mại điện tử; Thông tư số 59/2015/TT-BCT ngày 31/12/2015 của Bộ Công thương quy định về quản lý hoạt động thương mại điện tử qua ứng dụng trên thiết bị di động; Thông tư số 21/2018/TT-BCT ngày 21/08/2018 của Bộ Công thương sửa đổi một số điều của Thông tư số 4747/2014/TT-BCT ngày 05/12/2014 của Bộ Công thương quy định về quản lý website thương mại điện tử và Thông tư số 59/2015/TT-BCT ngày 31/12/2015 của Bộ Công thương quy định về quản lý hoạt động thương mại điện tử qua ứng dụng trên thiết bị di động.
Ngoài ra, do thương mại điện tử không phải là một lĩnh vực hoạt động riêng biệt mà là phương thức tiến hành hoạt động kinh doanh, thương mại nên việc giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực thương mại điện tử còn chịu sự điều chỉnh của một số luật như: Luật quản lý thuế năm 2019, Luật quảng cáo năm 2012, Luật đầu tư năm 2020, Luật doanh nghiệp năm 2020, Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010, Luật Viễn thông năm 2009, Luật An ninh mạng năm 2019, Bộ luật dân sự năm 2015, Luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017…, cũng như tất cả các quy định khác về hoạt động kinh doanh, thương mại.
2. Một số bất cập trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thương mại điện tử
Các văn bản quy phạm pháp luật trên đã tạo cơ sở pháp lý cụ thể, rõ ràng để thực hiện các giao dịch thương mại điên tử, tuy nhiên, chưa theo kịp sự phát triển, biến đổi của lĩnh vực này, vẫn còn một số vấn đề bất cập, không mang tính bao quát, toàn diện nên tạo điều kiện cho một số đối tượng lợi dụng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, các quy định hiện hành chưa gắn chặt trách nhiệm của chủ sàn thương mại điện tử đối với đối tác bán hàng trên sàn.
Theo Khoản 3, 4 Điều 36 Nghị định số 52 về trách nhiệm của thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ sàn giao dịch thương mại điện tử quy định: ‘‘Trách nhiệm của thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thương mại điện tử: 3. Yêu cầu thương nhân, tổ chức, cá nhân là người bán trên sàn giao dịch thương mại điện tử cung cấp thông tin theo quy định tại Điều 29 Nghị định này khi đăng ký sử dụng dịch vụ. 4. Có cơ chế kiểm tra, giám sát để đảm bảo việc cung cấp thông tin của người bán trên sàn giao dịch thương mại được thực hiện chính xác, đầy đủ.” Đồng thời, theo quy định tại Khoản 2 Điều 37 Nghị định số 52: “Trách nhiệm của người bán trên sàn giao dịch thương mại điện tử: 2. Cung cấp đầy đủ thông tin về hàng hóa, dịch vụ theo quy định từ Điều 30 đến Điều 34 Nghị định này khi bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên sàn giao dịch thương mại điện tử…”. Như vậy, người bán trên sàn giao dịch thương mại điện tử có trách nhiệm cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ để khách hàng có thể xác định các đặc tính của hàng hóa, dịch vụ nhằm tránh sự hiểu nhầm khi quyết định giao kết hợp đồng, đồng thời cung cấp thông tin về giá cả, về điều kiện giao dịch chung, về vận chuyển và giao nhận. Ngược lại, chủ sàn thương mại điện tử có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc cung cấp những thông tin đó; tuy nhiên Nghị định chưa làm rõ các đặc tính nói trên bao gồm những thông tin gì; quy định trách nhiệm của chủ sàn vẫn mang tính chất chung chung, chưa phân cấp cụ thể. Do vậy, dẫn đến việc nhiều sàn thương mại điện tử đã thả lỏng việc xét duyệt hồ sơ của đối tượng tham gia sàn; có quy chế đăng tải thông tin sản phẩm, nhưng theo hướng tạo điều kiện cho đối tác bán hàng trên sàn, để tăng doanh thu từ việc thu phí giao dịch. Lợi dụng sơ hở đó, một số đối tượng lợi dụng bán hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ, hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ, hàng giả, hàng nhái tràn lan trên sàn thương mại điện tử gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Năm 2019, lực lượng quản lý thị trường cả nước đã thực hiện kiểm tra 2.403 vụ việc, xử lý 2.213 vụ việc vi phạm hành chính, xử phạt 16 tỷ đồng, trị giá hàng vi phạm gần 41 tỷ đồng liên quan đến hành vi vi phạm về thương mại điện tử và các hành vi lợi dụng thương mại điện tử để kinh doanh hàng hóa nhập lậu, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng giả5.
Thứ hai, nhiều mô hình thương mại điện tử mới xuất hiện, đa dạng về cách thức hoạt động, phức tạp về chủ thể tham gia và chưa được điều chỉnh bởi các khuôn khổ pháp luật hiện hành.
Theo Điều 6 Thông tư số 47/2014/TT-BCT ngày 5/12/2014 của Bộ Công thương về quản lý website thương mại điện tử đã quy định:
“(1) Các mạng xã hội có một trong những hình thức hoạt động quy định tại điểm a, điểm b, điểm c Khoản 2 Điều 35 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP phải tiến hành đăng ký với Bộ Công thương dưới hình thức sàn giao dịch thương mại điện tử.
(2) Thương nhân, tổ chức thiết lập mạng xã hội quy định tại Khoản 1 Điều này phải thực hiện các trách nhiệm của thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ sàn giao dịch thương mại điện tử theo quy định của pháp luật.
(3) Người bán trên các mạng xã hội quy định tại Khoản 1 Điều này phải tuân thủ những quy định tại Điều 37 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP”
Như vậy, các mạng xã hội có tính năng như sàn giao dịch thương mại điện tử phải tuân thủ các quy định về sàn giao dịch thương mại điện tử tại Nghị định số 52. Tuy nhiên, các quy định tại Nghị định số 52 chủ yếu điều chỉnh các hình thức thương mại điện tử thông dụng, qua sàn thương mại điện tử, trong khi đó, hoạt động thương mại điện tử trên mạng xã hội, trên thiết bị di động có những đặc điểm không tương đồng với sàn giao dịch thương mại, như: mạng xã hội khá đa dạng ở cách thức đăng bài, có thể là trên trang cá nhân, hoặc trên chuyên trang của facebook; mặt khác cách thức giao kết hợp đồng, thỏa thuận mua bán hay phương thức thanh toán cũng đa dạng, không thông qua sàn. Do vậy, việc áp dụng quy định chung như hiện nay, chưa phù hợp.
Thứ ba, quy định về quy trình giao kết hợp đồng chưa hoàn chỉnh.
Tại Mục 2 của Nghị định số 52/2013/NĐ-CP dành 8 điều (từ Điều 15 đến Điều 23) quy định về quy trình giao kết hợp đồng giữa người bán hàng trực tuyến với người mua, nhưng chưa có quy định về nội dung hợp đồng mẫu, trong khi các giao dịch này đang phát triển ngày càng nhanh chóng và tự phát khiến cho người tiêu dùng gặp nhiều bất lợi, rủi ro khi có tranh chấp xảy ra. Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2011 tuy đã có đưa ra một số quy định về hợp đồng mẫu nhưng chủ yếu chỉ điều chỉnh các hợp đồng mẫu giao kết theo phương thức truyền thống mà chưa tính đến hợp đồng điện tử. Tại Điều 23 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP quy định: “Bộ Công thương có trách nhiệm quy định cụ thể về quy trình giao kết hợp đồng trực tuyến trên website thương mại điện tử do thương nhân, tổ chức, cá nhân lập ra để mua hàng hóa, dịch vụ.” nhưng cho đến nay vẫn chưa có hướng dẫn chi tiết cụ thể.
Ngoài ra, về nguyên tắc, dù giao dịch được thực hiện bằng phương thức gì thì những những nguyên tắc chung, cơ bản nhất áp dụng trong giao dịch, hợp đồng vẫn đương nhiên được áp dụng. Tuy nhiên, đối với hợp đồng thương mại điện tử, các bên tham gia hoàn toàn trao đổi, đàm phán nội dung hợp đồng, ký kết từ xa thông qua phương tiện điện tử, do vậy, việc công chứng hợp đồng thương mại điện tử có thực hiện được không khi theo quy định, những người có yêu cầu công chứng phải trực tiếp xuất hiện trước mặt công chứng viên để đề xuất nội dung yêu cầu công chứng? Điều 63 Nghị định số 52 có quy định về hoạt động chứng thực hợp đồng điện tử, nhưng vẫn còn chung chung, chưa quy định cụ thể quy trình, thủ tục, yêu cầu chứng thực hợp đồng điện tử. Luật công chứng năm 2014 cũng chưa đề cập đến việc công chứng hợp đồng, giao dịch điện tử. Đây vẫn còn là lỗ hổng pháp lý tạo ra nhiều rủi ro cho người tiêu dùng khi thực hiện giao dịch qua hợp đồng thương mại điện tử.
Thứ tư, chưa có quy định cụ thể về quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài, bán hàng thương mại điện tử xuyên biên giới.
Thương mại điện tử Việt Nam đang là lĩnh vực thu hút mạnh các nhà đầu tư, vì có tốc độ tăng trưởng hằng năm đứng thứ ba trong các nước Đông Nam Á. Hiện nay, cả 04 sàn giao dịch thương mại điện tử lớn nhất (Shopee, Lazada, Tiki và Sendo) đều có sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó nhà đầu tư Trung Quốc nắm tỷ trọng lớn tại 3 sàn6. Hoạt động đầu tư phần lớn được thực hiện dưới hình thức đầu tư gián tiếp thông qua công ty con tại một quốc gia thứ ba, hoặc dưới các hình thức hợp tác kinh doanh khác ngoài việc góp cổ phần. Việc nhà đầu tư nước ngoài chi phối lĩnh vực thương mại điện tử có thể dẫn đến nhiều hệ lụy tiêu cực đối với hệ thống thương mại, thị trường sản xuất nội địa và vấn đề an ninh thông tin quốc gia: Thứ nhất, từ lượng lớn cơ sở dữ liệu của hàng triệu người tham gia giao dịch trên sàn thương mại điện tử, nhà đầu tư nước ngoài có thể khai thác, kiểm soát nhiều thông tin quan trọng, có tác động đáng kể đến lĩnh vực sản xuất tiêu dùng trong tương lai. Thứ hai, thông qua việc tham gia quản lý các sàn giao dịch thương mại điện tử, nhà đầu tư nước ngoài có thể tác động đến chính sách chung của sàn theo hướng tạo thuận lợi cho người bán nước ngoài tham gia bán hàng trên sàn, từ đó tăng tỷ trọng hàng nhập khẩu trong các kênh phân phối trực tiếp đến người tiêu dùng, giảm tỷ lệ hàng nội địa, có thể dẫn đến triệt tiêu hoạt động sản xuất trong nước, đồng thời gây khó khăn cho cơ quan chức năng trong việc kiểm soát chất lượng và quản lý thuế.
Tuy nhiên, tại Nghị định số 52 không có quy định về việc quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài vào doanh nghiệp kinh doanh sàn giao dịch thương mại điện tử Việt Nam. Ngoài ra, tại Nghị định số 09/2018/NĐ-CP ngày 15/1/2018 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại và Luật Quản lý ngoại thương về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định để thực hiện hoạt động cung cấp dịch vụ thương mại điện tử, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phải có giấy phép kinh doanh. Tuy nhiên, chưa có văn bản nào quy định cụ thể về các biện pháp giám sát nhằm bảo đảm sự cạnh tranh bình đẳng giữa doanh nghiệp nội địa với doanh nghiệp nước ngoài trên các hệ thống thương mại điện tử, cũng như nhằm đảm bảo sự bình đẳng về quản lý giữa mô hình phân phối truyền thống và mô hình phân phối thương mại điện tử. Điều này gây khó khăn nhất định cho các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, đặc biệt khi liên quan đến thương mại điện tử có yếu tố nước ngoài.
Thứ năm, các chế tài xử phạt vi phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử chưa có tính răn đe cao.
Tại Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/08/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và quyền lợi người tiêu dùng (sau đây gọi tắt là Nghị định số 98) có quy định cụ thể từ Điều 63 đến Điều 66 về chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm về thương mại điện tử. Tuy nhiên, các mức phạt tiền đều không vượt quá 50.000.000 đồng (ví dụ như: Theo Khoản 6, Điều 63 quy định phạt tiền từ 40 – 50 triệu đồng với hành vi lừa đảo khách hàng trên website thương mại điện tử hoặc ứng dụng di động hoặc Lợi dụng thương mại điện tử để kinh doanh hàng giả, hàng hóa dịch vụ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh khác;…). Cùng với việc phạt tiền, các website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử vi phạm sẽ bị đình chỉ hoạt động từ 6 -12 tháng, bị tịch thu tang vật và phương tiện, thu hồi tên miền ‘.vn’ được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm, buộc chủ website phải khắc phục hậu quả và nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm về thương mại điện tử. Đây là mức xử phạt hành chính đối với một trong những hành vi sai phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử do cá nhân thực hiện. Như vậy, chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử cũng mới chỉ dừng lại ở mức xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt tiền so với khoản lợi nhuận từ hành vi bất chính gây ra không quá lớn. Do vậy, ít có tính răn đe đối với các đối tượng vi phạm, phạm tội, sẵn sàng tiếp tục thực hiện các hoạt động vi phạm pháp luật để chạy theo lợi nhuận.
3. Giải pháp
Xuất phát từ những bất cập trên, tác giả đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về thương mại điện tử như sau:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm minh bạch thông tin hàng hóa, dịch vụ trong thương mại điện tử và tăng cường trách nhiệm của chủ sàn thương mại, cũng như các cơ quan quản lý hoạt động thương mại điện tử.
Để ngăn chặn tình trạng một số đối tượng lợi dụng thương mại điện tử để bán hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ, hàng giả, hàng nhái, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ… gây thiệt hại cho người tiêu dùng, việc bổ sung, cụ thể hóa các thông tin hàng hóa, dịch vụ cần được đăng tải trên website thương mại điện tử nói chung và sàn giao dịch thương mại điện tử nói riêng được quy định tại Điều 30, 36, 37 Nghị định số 52 là cần thiết. Theo chúng tôi, các thông tin về hàng hóa, dịch vụ cần cung cấp cần bao gồm: Tên hàng hóa, dịch vụ; kèm theo mô tả đầy đủ thông tin về hàng hóa, dịch vụ để khách hàng có thể xác định chính xác các đặc tính của hàng hóa, dịch vụ, tránh hiểu nhầm khi quyết định việc đề nghị giao kết hợp đồng…
Ngoài ra, bổ sung các quy định về trách nhiệm của chủ sàn giao dịch thương mại điện tử và người bán trên sàn được quy định tại Điều 36, 37 Nghị định số 52 theo hướng: Tăng cường nghĩa vụ của chủ sở hữu các sàn giao dịch thương mại điện tử trong việc kiểm soát, sàng lọc thông tin, cũng như trong việc hỗ trợ cơ quan quản lý nhà nước xử lý các hành vi kinh doanh vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp; Bổ sung các quy định về vai trò, trách nhiệm của các bộ, ngành có liên quan trong việc quản lý hoạt động thương mại điện tử.
Thứ hai, bổ sung các quy định về hoạt động thương mại điện tử trên mạng xã hội, ứng dụng di động.
Để đảm bảo tính rõ ràng, thống nhất, đồng bộ của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thương mại điện tử, cũng như tạo môi trường kinh doanh ổn định, cạnh tranh bình đẳng, cần bổ sung, làm rõ các quy định về hoạt động thương mại điện tử của mạng xã hội, ứng dụng di động. Cụ thể: Bổ sung các quy định riêng về các hình thức thương mại điện tử mới (như thương mại điện tử qua mạng xã hội, thiết bị di động), đặc biệt cần có những yêu cầu cụ thể đối với đơn vị quản lý mạng xã hội có tính năng như sàn giao dịch thương mại điện tử trong văn bản ở mức Nghị định thay vì ở Thông tư như hiện nay. Đồng thời, bổ sung các quy định đặc thù riêng, khi giao dịch giữa các bên có thể được tiến hành ngoài tầm kiểm soát của đơn vị quản lý mạng xã hội.
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung các quy trình giao kết hợp đồng thương mại điện tử.
Bộ Công thương cần sớm nghiên cứu, bổ sung các quy định hướng dẫn cụ thể việc giao kết và thực hiện hợp đồng theo mẫu trên các website thương mại điện tử, cụ thể là: Bổ sung tại Mục 2 Nghị định số 52 các quy định chi tiết về nội dung các hợp đồng thương mại điện tử mẫu được đưa lên website. Ngoài ra, cần nghiên cứu mô hình tổ chức và hoạt động của công chứng điện tử, để nghiên cứu xây dựng, ban hành những quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động công chứng hợp đồng thương mại điện tử nhằm đáp ứng yêu cầu chính đáng và hợp pháp của công dân.
Thứ tư, sửa đổi, bổ sung các quy định về quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài, bán hàng thương mại điện tử xuyên biên giới.
Trước hết, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu xây dựng các quy định tại Nghị định số 52 về thương nhân, tổ chức nước ngoài hoạt động thương mại điện tử, đặc biệt cần đưa ra khái niệm hoạt động của thương nhân, tổ chức nước ngoài hoạt động thương mại điện tử tại Việt Nam, theo đó “thương nhân, tổ chức nước ngoài được coi là có hoạt động thương mại điện tử tại Việt Nam khi thiết lập website dưới tên miền Việt Nam hoặc website có ngôn ngữ tiếng Việt”. Bên cạnh đó, bổ sung các quy định về điều kiện tiếp cận thị trường thương mại điện tử đối với nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam như: Phải nằm trong danh sách các công ty công nghệ có uy tín do Bộ Công thương công bố; quá trình đầu tư cần có ý kiến thẩm định của Bộ quốc phòng, Bộ Công an; Bổ sung quy định về tỷ lệ vốn góp của các nhà đầu tư nước ngoài tại các sàn thương mại điện tử…
Ngoài ra, bổ sung quy định đối với thương nhân, tổ chức nước ngoài bán hàng trên sàn giao dịch thương mại điện tử Việt Nam, đồng thời quy định cụ thể trách nhiệm của chủ sàn khi có người bán hàng nước ngoài, trong đó chú ý quy định trách nhiệm của chủ sàn trong việc xác thực danh tính của thương nhân, tổ chức nước ngoài bán hàng trên sàn./.
CHÚ THÍCH
- Học viện Cảnh sát nhân dân.
- Học viện Cảnh sát nhân dân.
- Khoản 1, Điều 3, Nghị định số 52/NĐ-CP CP ngày 16/5/2013 của Chính phủ về thương mại điện tử.
- Cục thương mại điện tử và Kinh tế số (Bộ Công thương), Báo cáo Chỉ số thương mại điện tử Việt Nam năm 2019, tr.10,11.
- Uyên Hương, “Thành lập tổ công tác quản lý thị trường trong thương mại điện tử”, đăng ngày 03/3/2020, tại https://bnews.vn/thanh-lap-to-cong-tac-quan-ly-thi-truong-trong-thuong-mai-dien-tu/149277.html.
- Cục thương mại điện tử và Kinh tế số thuộc Bộ Công thương, Báo cáo Chỉ số thương mại điện tử Việt Nam năm 2019, tr.45.
Trả lời