Khó khăn, vướng mắc của cơ quan thi hành án dân sự trong việc đề nghị hủy, hủy một phần, cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Tác giả: Đoàn Văn Trâm [1] & Nguyễn Thị Dung [2]
TÓM TẮT
Công tác thi hành án dân sự là hoạt động đưa bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án ra thi hành trên thực tiễn. Bài viết này chỉ đề cập đến phạm vi thi hành bản án, quyết định của Tòa án liên quan đến nghĩa vụ thanh toán nợ giữa các đương sự; và cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản của người phải thi hành án là quyền sử dụng đất của người phải thi hành án để thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên sau khi thực hiện các quy trình thao tác nghiệp vụ thi hành án xong thì lại không thể hoàn tất việc người trúng đấu giá tài sản hoặc người nhận tài sản được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ảnh hưởng lớn đến quyền lợi người dân và làm giảm đáng kể chất lượng công tác tổ chức thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, mặc dù Luật đất đai năm 2013, Luật thi hành án dân sự năm 2014 đã có những quy định liên quan đến việc thu hồi, hủy bỏ, cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất thông qua hoạt động thi hành án. Tuy nhiên cho đến nay chưa có hướng dẫn cụ thể về việc này, nên quá trình tổ chức thực hiện trên thực tế gặp không ít khó khăn, vướng mắc.
Theo Điều 99 Luật đất đai năm 2013 quy định: “1. Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho những trường hợp sau đây:
(d) Người được sử dụng đất theo… bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án…”
“Quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án” nêu tại điểm d Khoản 1 của Điều luật trên đang được các cơ quan thi hành án dân sự ở địa phương hiểu theo 2 nghĩa là: Quyết định thụ lý giải quyết vụ việc của cơ quan thi hành án, hoặc là tất cả các quyết định trong quá trình tổ chức thi hành án. Dẫn đến thực tế quá trình tổ chức thi hành án việc vận dụng quy định pháp lý vào các trường hợp liên quan đến việc cơ quan Thi hành án dân sự đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người mua trúng đấu giá tài sản, người nhận quyền sử dụng đất thông qua thỏa thuận… là khác nhau.
Nội dung bản án, quyết định của Tòa án chỉ tuyên bên A có nghĩa vụ trả nợ phải thực hiện việc trả tiền hoặc trả tài sản cho bên B, để thực hiện nội dung quyết định do Tòa án tuyên như vậy trong thực tế cơ quan Thi hành án dân sự phải tiến hành xác minh tài sản của đương sự, sau đó kê biên, xử lý các tài sản đó của người phải thi hành án để đưa ra bán đấu giá hoặc công nhận sự thỏa thuận nhận tài sản của các bên liên quan đến giá trị quyền sử dụng đất của người phải thi hành án để thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo tinh thần của bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên. Tuy nhiên, sau khi thực hiện các giai đoạn từ xác minh, kê biên, bán đấu giá, trúng đấu giá hoặc thỏa thuận thành giữa các đương sự đến khi phải thực hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người nhận tài sản thì gặp vướng mắc ở cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ chối đề nghị của cơ quan Thi hành án dân sự về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp, hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp hoặc cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với lý do, không có căn cứ pháp lý quy định, bản án, quyết định của Tòa án chỉ tuyên bên A có nghĩa vụ trả nợ cho bên B chứ không có nội dung hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp, hủy 01 phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp hoặc cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trên thực tế quá trình Chấp hành viên thực hiện nhiệm vụ tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án thấy rằng số lượng việc này chiếm tỷ lệ tương đối cao liên quan đến xử lý quyền sử dụng đất của người phải thi hành án dẫn đến gặp nhiều khó khăn chưa được tháo gỡ, ảnh hưởng chất lượng, thời gian tổ chức thi hành án.
Xét ở góc độ quyết định thi hành án (quyết định về thụ lý vụ việc), nhiều trường hợp không có nội dung nào liên quan đến cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay chuyển quyền sử dụng đất, thường quyết định thi hành án xử lý bên A trả cho bên B một số tiền nhất định. Trong quá trình tổ chức thi hành án, cơ quan thi hành án theo chức năng nhiệm vụ của mình tiến hành xử lý tài sản của bên A. Như vậy trong quyết định thi hành án không có liên quan gì đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Xét góc độ trình tự, thủ tục, giải quyết vụ việc thi hành án, không có quyết định mang tính chất trực tiếp để cơ quan có thẩm quyền căn cứ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Quyết định về thi hành án rất đa dạng phong phú, các phương thức, cách thức thi hành án cũng nhiều, nếu quy chiếu là cơ quan thi hành án phải có quyết định thì không bao trùm hết nội dung, thực tiễn thi hành án.
Theo quy định tại Điều 106 Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014:
“1/ Người mua được tài sản thi hành án, người nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án được pháp luật công nhận và bảo vệ quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản đó.
2/ Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm làm thủ tục đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng cho người mua, người nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án. Cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm cung cấp đầy đủ những văn bản, giấy tờ quy định tại Khoản 3 Điều này cho người mua tài sản thi hành án, người nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án….
4/ Trường hợp tài sản là quyền sử dụng đất mà không có giấy chứng nhận hoặc không thu hồi được giấy chứng nhận thì cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
Đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu mà không có giấy tờ đăng ký hoặc không thu hồi được giấy tờ đăng ký thì cơ quan có thẩm quyền đăng ký có trách nhiệm cấp giấy chứng nhận đăng ký quyền sở hữu.
Giấy tờ được cấp mới có giá trị thay thế cho giấy tờ không thu hồi được”.
Quy định là vậy, tuy nhiên trên thực tế các trường hợp cơ quan thi hành án đã thực hiện xong các thủ tục thi hành án, nhưng chưa thu hồi được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thế nên phát sinh trình tự thủ tục hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp, sau đó cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới, trình tự, thủ tục này rất lâu, qua nhiều khâu, rất khó khăn phiền hà cho người mua được tài sản, người nhận tài sản thi hành án.
Thực tiễn thi hành án có trường hợp, người phải thi hành án có tài sản là quyền sử dụng đất có diện tích rất lớn, cơ quan thi hành án dân sự chỉ xử lý tài sản tương ứng với số tiền thi hành án, nên chỉ xử lý một phần nhỏ trong diện tích lớn đó. Người phải thi hành án không chịu giao nộp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, không hợp tác xử lý tài sản. Trường hợp này xử lý chỉ hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũ và cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất mà chấp hành viên xử lý. Vấn đề này tiếp tục gặp vướng mắc vì Văn phòng đăng ký đất đai từ chối cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với lý do nội dung bản án của Tòa án không tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp hay hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp nên không có căn cứ pháp lý để thực hiện đề nghị của cơ quan thi hành án dân sự được.
Ví dụ: Sau khi bán đấu giá thành, Chi cục Thi hành án dân sự huyện A tiến hành cưỡng chế giao quyền sử dụng đất cho người mua trúng đấu giá và yêu cầu ông T, bà H giao nộp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện A để đơn vị tiến hành các thủ tục đăng ký sang tên cho người mua trúng đấu giá theo quy định pháp luật nhưng ông T, bà H không giao nộp.
Chi cục Thi hành án dân sự huyện A đã nhiều lần gửi công văn đề nghị cơ quan có thẩm quyền cụ thể là Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông T, bà H và cấp lại giấy chứng nhận mới cho người mua trúng đấu giá. Tuy nhiên, yêu cầu của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A bị Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh từ chối với lý do: “Bản án của tòa án chỉ tuyên nghĩa vụ trả tiền, chứ không tuyên hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông T, bà H nên Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh không thực hiện theo yêu cầu của cơ quan Thi hành án dân sự”. Điều đó dẫn tới việc cơ quan thi hành án dân sự không giao được tài sản cho người mua trúng đấu giá để thực thi bản án, quyết định của Tòa.
Theo quy định tại Điều 28 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015, quy định hướng dẫn thi hành luật thi hành án dân sự, về đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản: “Trường hợp cơ quan thi hành án dân sự không thu hồi được giấy tờ có liên quan đến tài sản quy định tại điểm e Khoản 3 Điều 106 Luật thi hành án dân sự thì có văn bản nêu rõ lý do, gửi cơ quan có thẩm quyền cấp giấy tờ có liên quan đến tài sản để thực hiện việc hủy giấy tờ cũ, cấp giấy tờ mới theo quy định. Cơ quan thi hành án dân sự gửi văn bản nêu rõ lý do không thu hồi được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đến Văn phòng đăng ký đất đai nơi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan thi hành án dân sự, Văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm báo cáo cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất để quyết định hủy giấy chứng nhận đã cấp và cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai”.
Đối chiếu với Luật đất đai năm 2013, các Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017; Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014, quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai, không có quy định chi tiết đối với các trường hợp xử lý tài sản trong thi hành án dân sự liên quan đến các trường hợp bài viết đang đề cập3.
Như vậy, các quy định pháp luật nêu trên không nhắc gì đến đối tượng liên quan là tài sản được thi hành án thông qua quá trình tổ chức thi hành án sẽ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp (mặc dù kết quả quá trình thi hành án này trên cơ sở thi hành án bản án, quyết định của Tòa án); Càng không có quy định về việc Cơ quan Thi hành án dân sự có chức năng ra quyết định thi hành án thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để hủy, hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong khi thi hành án. Chính vì bất cập này nên các cơ quan trực tiếp thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến vấn đề bài viết đang đề cập vẫn loay hoay chưa có đáp án để giải quyết triệt để. Hoạt động Thi hành án dân sự mang tính đặc thù riêng, căn cứ bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án, mới tổ chức thi hành vào thực tiễn cuộc sống. Thời gian qua, các cơ quan quản lý đất đai và cơ quan thi hành án dân sự vẫn phối hợp xử lý các trường hợp liên quan đến quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, trong thực tiễn vẫn có nhiều quan điểm khác nhau trong từng vụ việc, vẫn có nhiều cách hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau giữa cơ quan quản lý đất đai và cơ quan thi hành án, mất rất nhiều thời gian và ảnh hưởng lớn đến chất lượng giải quyết vụ việc.
Để giải quyết những vướng mắc thực tế nêu trên tác giả đề xuất:
Thứ nhất, đề nghị cần sớm triển khai và rà soát, đánh giá và tập hợp những bất cập, thiếu thống nhất, chưa đầy đủ của các quy định liên quan đến xử lý, cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhà ở và tài sản gắn liền với đất. Tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về quy định pháp luật, tạo cơ chế quan hệ phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền liên quan đến trình tự, thủ tục, thời gian thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong hoạt động thi hành án dân sự trên phạm vi cả nước. Cần có đề xuất quy định chuyên biệt về xử lý, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong hoạt động thi hành án dân sự.
Thứ hai, cần sớm có thông tư, thông tư liên tịch của các Bộ (Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng…) hướng dẫn của các cơ quan chức năng cấp Bộ để hướng dẫn cụ thể việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong hoạt động thi hành án dân sự./.
CHÚ THÍCH
- Thạc sỹ, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.
- Thạc sỹ, Giảng viên, Cơ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Tư pháp.
- Khoản 1,2,3 Điều 106 Luật đất đai năm 2013; Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP.
Trả lời