Mục lục
Hoàn thiện chế định đình chỉ thi hành án dân sự theo Pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam
Tác giả: Lê Minh Nhựt [1] & Nguyễn Minh Phú [2]
TÓM TẮT
Đình chỉ thi hành án dân sự (THADS) là một thủ tục được quy định trong Luật thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014 (Luật THADS) mà Cơ quan thi hành án dân sự (Cơ quan THADS) áp dụng để kết thúc việc thi hành án, hay nói khác là chấm dứt quan hệ pháp luật thi hành án dân sự. Việc đình chỉ dẫn đến những hậu quả pháp lý nhất định, ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của đương sự, vì vậy pháp luật quy định Cơ quan THADS không được tùy tiện đình chỉ mà phải dựa trên căn cứ luật định. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi phân tích những bất cập, vướng mắc, từ đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật về căn cứ đình chỉ thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam.
Đình chỉ THADS là một thủ tục trong số các thủ tục được quy định trong Luật THADS mà cơ quan THADS áp dụng để kết thúc việc thi hành án, chấm dứt trách nhiệm của Chấp hành viên (CHV) đối với việc thi hành án. Căn cứ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền của đình chỉ được quy định tại Điều 50 Luật THADS. Pháp luật THADS hiện hành vẫn chưa đưa ra bất kỳ định nghĩa thế nào là đình chỉ THADS. Theo chúng tôi, Luật THADS, các văn bản hướng dẫn thi hành cần đưa ra định nghĩa về đình chỉ THADS để thống nhất trong cách hiểu.
Để đưa ra định nghĩa này, chúng tôi sẽ xem xét ở nhiều khía cạnh khác nhau. Cụ thể, theo cách hiểu thông thường, “đình chỉ” có nghĩa là “làm ngừng lại hoặc làm cho phải ngừng lại trong một khoảng thời gian hoặc vĩnh viễn”3. Định nghĩa này nói lên mục đíchcủa đình chỉ là làm cho một hoạt động đang diễn ra bị ngừng lại. Tuy nhiên ngừng lại trong thời gian bao lâu, ngừng có thời hạn nhất định hay ngừng hẳn thì không rõ. Ở góc độ từ ngữ pháp lý thì “Đình chỉ thi hành án” được hiểu là “chấm dứt việc thi hành bản án đã có hiệu lực pháp luật trong những trường hợp do pháp luật quy định”4. Cách hiểu này đã xác định đối tượng của hoạt động đình chỉ là việc thi hành bản án có hiệu lực pháp luật và phải dựa trên cơ sở pháp luật quy định. Tuy nhiên, định nghĩa này cũng chưa cho biết thời gian chấm dứt việc thi hành án, cũng như đối tượng của hoạt động đình chỉ ngoài bản án có hiệu lực pháp luật còn đối tượng nào khác hay không.
Trong khoa học pháp lý hiện nay có một số định nghĩa về khái niệm đình chỉ THADS, chẳng hạn như “Đình chỉ thi hành án dân sự là việc cơ quan thi hành án dân sự quyết định ngừng hẳn việc thi hành án dân sự khi có căn cứ do pháp luật quy định”5 hay “Đình chỉ thi hành án dân sự là việc cơ quan thi hành án dân sự mà cụ thể là Thủ trưởng cơ quan bằng một quyết định cụ thể làm chấm dứt một quan hệ thi hành án cụ thể hay nói cách khác là chấm dứt vai trò của CHV đối với việc tổ chức thi hành án đó khi có một trong các căn cứ do pháp luật quy định”6.
Cả hai định nghĩa này cho thấy hậu quả của việc đình chỉ THADS là làm ngừng hẳn việc thi hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của cơ quan THADS. Ngừng hẳn được hiểu là chấm dứt hoàn toàn quá trình thi hành án. Đây là điểm phân biệt giữa đình chỉ và hoãn, tạm đình chỉ thi hành án dân sự (Trường hợp hoãn hay tạm định chỉ thì việc THA có thể khôi phục lại khi căn cứ hoãn, tạm đình chỉ không còn). Ngoài ra việc đình chỉ chỉ được tiến hành khi có căn cứ luật định. Tuy nhiên, hai khái niệm này vẫn chưa nêu rõ chủ thể thực hiện và đối tượng của hoạt động đình chỉ THADS. Theo quan điểm của chúng tôi, đình chỉ thi hành án dân sự nên được hiểu là “một thủ tục do Cơ quan thi hành án dân sự tiến hành bằng một quyết định cụ thể nhằm làm ngừng hẳn việc thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh khi có căn cứ do pháp luật quy định”.
Về căn cứ đình chỉ, Luật THADS quy định tám căn cứ đình chỉ thi hành án dân sự tại Điều 507. Theo chúng tôi, quy định về các căn cứ đình chỉ THADS hiện nay tương đối hoàn thiện. Tuy nhiên, trên thực tiễn khi áp dụng các quy định này vẫn còn tồn tại một số bất cập, vướng mắc cần được giải quyết, cụ thể như sau:
Thứ nhất, việc đình chỉ thi hành án liên quan đến người thứ ba.
Theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 50 Luật THADS, đương sự có thỏa thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có yêu cầu cơ quan THADS đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ quyền, lợi ích hợp pháp được hưởng theo bản án, quyết định thì cơ quan THADS ra quyết định đình chỉ THA, trừ trường hợp việc đình chỉ THA ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba. Như vậy điều kiện không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba là bắt buộc nếu muốn áp dụng căn cứ này. Tuy nhiên Luật THADS lại không cho biết người thứ ba là ai và tiêu chí để xác định. Điều này đã gây không ít khó khăn cho cơ quan THADS khi áp dụng căn cứ này để đình chỉ, cụ thể qua vụ việc sau:
Vụ án tranh chấp dân sự về hợp đồng vay tài sản giữa nguyên đơn là vợ chồng bà Trịnh Thị S, người được thi hành án của 03 quyết định công nhận hòa giải thành số 02/DSST, số 05/DSST, số 06/DSST ngày 20/09/2015 của Tòa án nhân dân thành phố H với các bị đơn là vợ chồng ông Nguyễn Văn D, bà Nguyễn Thị B, bà Nguyễn Thị C với số tiền phải trả là 900 triệu đồng và lãi chậm thi hành án. Đồng thời, bà Trịnh Thị S cũng là người phải thi hành án theo 02 bản án số 11/DSST và số 12/DSST ngày 24/03/2014 với số tiền phải nộp án phí dân sự sơ thẩm của hai bản án là gần 100 triệu đồng.
Quá trình tổ chức thi hành các bản án và quyết định của Tòa án, xác minh thực tế tại địa phương cho thấy: Bà Trịnh Thị S là Giám đốc công ty TNHH X và tại thời điểm xác minh thi hành án thì công ty không còn hoạt động, kinh doanh thua lỗ và không có khả năng trả nợ, bản thân và gia đình bà S cũng không có tài sản, thu nhập gì để đảm bảo thi hành án. Do đó, cơ quan thi hành án đã ra quyết định chưa có điều kiện thi hành theo quy định tại Điều 44a Luật thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 (Luật Thi hành án dân sự) đối với 02 bản án số 11/DSST và số 12/DSST ngày 24/03/2014 về khoản tiền 100 triệu đồng án phí. Sau đó, đến năm 2016, bà S mới có đơn yêu cầu thi hành đối với 03 quyết định công nhận hòa giải thành số 02/DSST, số 05/DSST và số 06/DSST ngày 20/09/2015. Qua xác minh điều kiện thi hành án thì vợ chồng ông D, bà B, bà C đều có hoàn cảnh kinh tế rất khó khăn, không có nghề nghiệp ổn định, đi làm thuê kiếm sống, thu nhập bấp bênh, chỉ đủ lo cuộc sống tối thiểu của gia đình và chỉ có duy nhất một ngôi nhà cấp 4 có giá trị khoảng hơn 100 triệu đồng (chưa được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất). Quá trình giải quyết thi hành án, bà S đã thỏa thuận với vợ chồng ông D, bà B, bà C là không yêu cầu thi hành án và từ bỏ quyền lợi được hưởng và yêu cầu cơ quan thi hành án ra quyết định đình chỉ thi hành theo điểm c Khoản 1 Điều 50 Luật thi hành án dân sự8.
Vấn đề đặt ra trong vụ việc trên đó là tiêu chí xác định người thứ ba bị ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp. Chẳng hạn, nếu bà S từ bỏ quyền lợi của mình khi không còn tài sản gì để thi hành án thì có ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của người thứ ba là Nhà nước đối với phần án phí hay không, người thứ ba có phải là người có quyền lợi trong cùng một vụ việc thi hành án hay bất kỳ ai có quyền, lợi ích bị ảnh hưởng, tiêu chí xác định người thứ ba như thế nào?
Trên thực tế, có hai quan điểm khác nhau về người thứ ba:
Quan điểm thứ nhất cho rằng việc xác định người thứ ba phải là người có quyền lợi liên quan đến người được THA trong cùng một việc thi hành án.
Quan điểm thứ hai cho rằng người thứ ba ở đây được xác định là bất kỳ cá nhân, tổ chức nào (kể cả Nhà nước) mà khi cơ quan THADS đình chỉ THA thì sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ, quyền và lợi ích hợp pháp này phải được pháp luật bảo vệ. Như vậy, người thứ ba không giới hạn trong cùng một việc THA, có thể là bất kỳ ai có quyền, lợi ích bị ảnh hưởng.
Về mặt văn bản pháp luật thi hành án dân sự, hiện nay không có câu trả lời. Hiện nay trong Luật THADS có quy định về người có quyền, lợi nghĩa vụ liên quan, theo đó tại Điều 3 Luật THADS quy định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án của đương sự. Khái niệm này với khái niệm Người thứ ba có thể bị nhầm lẫn.Vì vậy cần thiết phải phân biệt hai khái niệm này.
Theo chúng tôi, người thứ ba cần được hiểu rộng hơn và có các tiêu chí để xác định như sau:
+ Có quyền, lợi ích hợp pháp bị ảnh hưởng từ thỏa thuận, yêu cầu đình chỉ thi hành án của đương sự. Như vậy, người thứ ba không có nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án, mà chỉ có quyền và lợi ích hợp pháp, trong khi đó người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể có nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án.
+ Về phạm vi chủ thể: người thứ ba không giới hạn trong phạm vi cùng một việc thi hành án, mà có thểở một hoặc nhiều việc thi hành án dân sự khác nhau hoặc có thể bất kỳ ai có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan, kể cả Nhà nước. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan giới hạn trong phạm vi một việc thi hành án dân sự nhất định và chỉ những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án của đương sự.
+ Về cách thức xác định: dựa vào sự tự nguyện khai báo của đương sự hoặc qua rà soát của Chấp hành viên hoặc người thứ ba này gửi đơn không đồng ý việc thỏa thuận, đơn yêu cầu đình chỉ của đương sự. Theo chúng tôi, để áp dụng thống nhất pháp luật cần sớm có văn bản hướng dẫn về định nghĩa, tiêu chí, cách thức xác định người thứ ba.
Thứ hai, về căn cứ đình chỉ thi hành án dân sự liên quan đến vật đặc định.
Trên thực tế, phát sinh trường hợp thi hành nghĩa vụ trả vật đặc định nhưng vật đặc định không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được nhưng đương sự không thỏa thuận được về việc THA, mặc dù CHV đã hướng dẫn nhưng đương sự không thực hiện việc khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình, cũng như không rút yêu cầu thi hành án. Điều này gây không ít khó khăn cho cơ quan THADS khi không có căn cứ để kết thúc việc thi hành, trong khi nếu kéo dài vụ việc thì cũng không thể giải quyết được. Theo quy định của BLDS năm 2015, vật đặc định là vật phân biệt được với các vật khác bằng những đặc điểm riêng về ký hiệu, hình dáng, màu sắc, chất liệu, đặc tính, vị trí. Khi thực hiện nghĩa vụ chuyển giao vật đặc định thì phải giao đúng vật đó9.
Trong THADS, việc thi hành đối với nghĩa vụ là vật đặc định thì CHV sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế trả vật nếu vật phải trả hiện đang còn tồn tại. Nếu vật phải trả không còn thì CHV không áp dụng biện pháp cưỡng chế trả vật. Trường hợp vật không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được mà đương sự có thỏa thuận khác về việc thi hành án thì CHV thi hành theo thỏa thuận. Trường hợp đương sự không thỏa thuận được thì có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết về thiệt hại do vật phải trả không còn hoặc hư hỏng đến mức không còn sử dụng được10.
Trước đây, theo Luật THADS năm 2008 trường hợp đương sự không thỏa thuận được thì Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định trả đơn yêu cầu THA. Đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết thiệt hại do vật phải trả không còn hoặc hư hỏng đến mức không sử dụng được. Nhưng Luật THADS hiện hành đã bỏ cơ chế trả đơn yêu cầu THA và không quy định căn cứ đình chỉ trong trường hợp này. Cách xử lý hiện nay đó là Cơ quan THADS sẽ căn cứ điểm b Khoản 1 Điều 44a Luật THADS CHV đề nghị Thủ trưởng cơ quan THADS ra Quyết định về việc chưa có điều kiện THA. Theo chúng tôi, cách xử lý này là chưa hợp lý về mặt thực tiễn và pháp luật, bởi các lý do sau:
Thứ nhất, việc THADS chưa có điều kiện thi hành là những việc mà tại thời điểm này chưa có điều kiện để thi hành nhưng khả năng trong tương lai có thể có điều kiện để THA trở lại. Đối với trường hợp tại thời điểm thi hành vật đặc định là đối tượng của nghĩa vụ được xác định đã bị hư hỏng đến mức không thể sử dụng được thì đã xác định được khả năng để thi hành nghĩa vụ đó trên thực tế không còn, việc tiếp tục THA không thể thực hiện được. Nếu đưa vụ việc vào diện chưa có điều kiện THA sẽ làm án tồn đọng kéo dài, không phù hợp với điều kiện thực tế.
Thứ hai, BLDS năm 2015 có quy định về căn cứ chấm dứt nghĩa vụ dân sự, trong đó có quy định “vật đặc định là đối tượng của nghĩa vụ không còn và được thay thế bằng nghĩa vụ khác”11. Theo đó bên có nghĩa vụ được chấm dứt trách nhiệm với bên có quyền, hay nói cách khác người phải THA sẽ không còn trách nhiệm với người được THA nữa trong trường hợp này.
Thứ ba, trường hợp sau khi đình chỉ thi hành nghĩa vụ trả vật đặc định, đương sự khởi kiện tại Tòa án và được thụ lý giải quyết bằng một bản án khác thì Cơ quan THADS thực hiện việc tổ chức thi hành vụ việc theo quyết định của Tòa án theo bản án mới tuyên, như vậy quyền lợi của đương sự vẫn được đảm bảo trên thực tế.
Từ các phân tích trên, chúng tôi kiến nghị bổ sung thêm căn cứ đình chỉ THA trong trường hợp vật đặc định không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được vào Điều 50 Luật THADS để phù hợp với thực tiễn và phù hợp với các quy định của BLDS năm 2015. Cụ thể, Điều 50 Luật THADS cần bổ sung thêm điểm k vào khoản 1 điều này, như sau: “1. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định đình chỉ thi hành án trong trường hợp sau đây:…k. Vật đặc định không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được mà đương sự không có yêu cầu khởi kiện”. Mặc khác để đồng bộ pháp luật cần bỏ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 44a về căn cứ xác định việc chưa có điều kiện thi hành án trong trường hợp vật đặc định không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được.
Thứ tư, về đình chỉ thi hành án trong trường hợp bên có quyền và bên có nghĩa vụ hòa nhập làm một.
Tại Khoản 4 Điều 372 BLDS năm 2015 quy định trường hợp “bên có quyền và bên có nghĩa vụ hòa nhập làm một” là căn cứ chấm dứt nghĩa vụ dân sự. Tuy nhiên Luật THADS không quy định trường hợp này là căn cứ đình chỉ THADS.
Ví dụ tình huống sau: Công ty A là người được thi hành án, Công ty B là người phải thi hành án. Cơ quan THADS đã ra Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu, theo đó B có nghĩa vụ trả cho A số tiền 1 tỷ đồng. Trong quá trình thi hành án, Công ty B sáp nhập vào Công ty A. Theo quy định của pháp luật sau khi nhận sáp nhập, Công ty A sẽ kế thừa quyền và nghĩa vụ của Công ty B. Công ty B chấm dứt hoạt động.
Trong tình huống này bên có quyền và bên có nghĩa vụ đã hòa nhập làm một. Tuy nhiên Luật THADS không quy định đây là căn cứ đình chỉ, nếu muốn đình chỉ Cơ quan THADS chỉ có thể yêu cầu Công ty A làm đơn yêu cầu đình chỉ thi hành án. Đặt trường hợp Công ty A không làm đơn yêu cầu thì giải quyết như thế nào?
Nếu căn cứ vào quy định tại điểm đ Điều 50 Luật THADS “Người phải thi hành án là tổ chức đã bị giải thể, không còn tài sản mà theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của họ không được chuyển giao cho tổ chức khác” thì không thể đình chỉ được vì nghĩa vụ của Công ty B đã chuyển sang cho Công ty A. Do đó, Công ty A không thể yêu cầu chính mình thực hiện nghĩa vụ.
Do vậy, để phù hợp với thực tiễn và đồng bộ với các quy định của BLDS năm 2015 về căn cứ chấm dứt nghĩa vụ. Chúng tôi kiến nghị bổ sung căn cứ này vào căn cứ đình chỉ thi hành án tại Khoản 1 Điều 50 Luật THADS, theo đó: “1. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định đình chỉ thi hành án trong trường hợp sau đây:…l. bên có quyền và bên có nghĩa vụ hòa nhập làm một”.
Thứ năm, việc đình chỉ thi hành án khi người phải thi hành án là tổ chức giải thể.
Theo quy định tại điểm đ Khoản 1 Điều 50 Luật THADS “Người phải thi hành án là tổ chức đã bị giải thể, không còn tài sản mà theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của họ không được chuyển giao cho tổ chức khác” là căn cứ đình chỉ thi hành án. Tuy nhiên, quy định này có mâu thuẫn với Luật doanh nghiệp 2014, cụ thể ở vấn đề chuyển giao nghĩa vụ. Theo Luật doanh nghiệp 2014 có quy định trường hợp doanh nghiệp bị giải thể do bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật doanh nghiệp thì nghĩa vụ thi hành án được chuyển giao cho các cá nhân là người quản lý có liên quan12. Luật THADS chỉ mới đề cập đến việc chuyển giao cho tổ chức là chưa phù hợp.
Như vậy, kiến nghị sửa đổi, bổ sung vào điểm đ, Khoản 1 Điều 50 Luật THADS như sau: “Người phải thi hành án là tổ chức đã bị giải thể, không còn tài sản mà theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của họ không được chuyển giao cho tổ chức, cá nhân khác theo quy định của pháp luật”. Đồng thời, để đồng bộ pháp luật, cần sửa đổi, bổ sung điểm d Điều 54 Luật THADS như sau: “Trường hợp giải thể thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định giải thể phải thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự biết trước khi ra quyết định. Trường hợp quyền, nghĩa vụ thi hành án của tổ chức bị giải thể được chuyển giao cho tổ chức, cá nhân khác theo quy định của pháp luật thì tổ chức, cá nhân mới tiếp tục thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án”.
Thứ sáu, đình chỉ thi hành án khi người được giao nuôi dưỡng chết hoặc đã thành niên.
Trong vụ việc ly hôn sẽ đặt ra vấn đề giải quyết việc nuôi con sau khi ly hôn. Cụ thể bản án, quyết định của Tòa án sẽ xác định ai là người chăm nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình13. Theo đó đối tượng được giao nuôi dưỡng bao gồm:
+ Con chưa thành niên;
+ Con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Tuy nhiên, theo quy định tại điểm g Khoản 1 Điều 50 Luật THADS chỉ mới quy định căn cứ đình chỉ trong trường hợp “Người chưa thành niên được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định đã chết hoặc đã thành niên”. Đối với trường hợp con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự nhưng đã có năng lực hành vi dân sự trở lại hoặc có khả năng lao động và có tài sản để tự nuôi mình thì có đình chỉ THADS hay không? Đây là quy định thiếu sót của Luật THADS.
Do đó, chúng tôi kiến nghị sửa đổi điểm g Khoản 1 Điều 50 như sau: “Người chưa thành niên được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định đã chết hoặc đã thành niên; Người đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định đã chết hoặc đã có năng lực hành vi dân sự trở lại hoặc có khả năng lao động và có tài sản để tự nuôi mình”./.
CHÚ THÍCH
- Thạc sỹ, Giảng viên Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
- Thạc sỹ, Cộng sự pháp lý Công ty TNHH tư vấn và quản lý Khánh Minh.
- Viện Ngôn ngữ học (2005), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, Đà Nẵng, tr.197.
- Nguyễn Mạnh Hùng (2003), Thuật ngữ pháp lý – Tập 1, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.262.
- Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật Thi hành án Dân sự, Nguyễn Công Bình, Bùi Thị Huyên (Chủ biên), NXB CAND, tr.176.
- Lương Thanh Tùng (2013), “Đình chỉ thi hành án dân sự”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề 2, tr.27-32.
- Điều 50 Luật THADS đưa ra các căn cứ đỉnh chỉ thi hành án dân sự như sau:
- (a) Người phải thi hành án chết không để lại di sản hoặc theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của người đó theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế;
- (b) Người được thi hành án chết mà theo quy định của pháp luật quyền và lợi ích của người đó theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế hoặc không có người thừa kế;
- (c) Đương sự có thỏa thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ quyền, lợi ích được hưởng theo bản án, quyết định, trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba;
- (d) Bản án, quyết định bị hủy một phần hoặc toàn bộ, trừ trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 103 của Luật này; đ) Người phải thi hành án là tổ chức đã bị giải thể, không còn tài sản mà theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của họ không được chuyển giao cho tổ chức khác;
- (e) Có quyết định miễn nghĩa vụ thi hành án;
- (g) Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với người phải thi hành án;
- (h) Người chưa thành niên được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định đã chết hoặc đã thành niên.
- Lê Thị Lanh (2019), “Những quan điểm khác nhau về đình chỉ thi hành án”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề 3, tr.23-25.
- Điều 113 BLDS năm 2015.
- Điều 114 Luật THADS năm 2014.
- Điều 372 BLDS năm 2015.
- Điều 201, 203 Luật doanh nghiệp năm 2014.
- Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Trả lời