• Trang chủ
  • Hiến pháp
  • Hình sự
  • Dân sự
  • Hành chính
  • Hôn nhân gia đình
  • Lao động
  • Thương mại

Luật sư Online

Tư vấn Pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, ly hôn, thừa kế, đất đai

  • Kiến thức chung
    • Học thuyết kinh tế
    • Lịch sử NN&PL
  • Cạnh tranh
  • Quốc tế
  • Thuế
  • Ngân hàng
  • Đất đai
  • Ngành Luật khác
    • Đầu tư
    • Môi trường
 Trang chủ » Hoàn thiện quy định pháp luật về trình tự, thủ tục đấu giá tài sản công ở Việt Nam

Hoàn thiện quy định pháp luật về trình tự, thủ tục đấu giá tài sản công ở Việt Nam

14/11/2021 14/11/2021 CTV. Thảo Uyên Leave a Comment

Mục lục

  • TÓM TẮT
  • Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quy định về việc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản công.
  • Thứ hai, sửa đổi, bổ sung quy định về bước giá trong đấu giá tài sản công.
  • Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quy định về xây dựng và ban hành Quy chế cuộc đấu giá tài sản công.
  • Thứ tư, sửa đổi, bổ sung quy định về thông báo công khai việc đấu giá tài sản công.
  • Thứ năm, sửa đổi, bổ sung quy định về việc lập, bán hồ sơ tài sản đấu giá, tổ chức đăng ký tham gia đấu giá tài sản công.
  • Thứ sáu, sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức cuộc đấu giá tài sản công.
  • Thứ tám, sửa đổi, bổ sung quy định về thù lao dịch vụ đấu giá, chi phí đấu giá tài sản công.
  • CHÚ THÍCH

Hoàn thiện quy định pháp luật về trình tự, thủ tục đấu giá tài sản công ở Việt Nam

Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hồng [1]

TÓM TẮT

Đấu giá là một trong những hình thức bắt buộc khi xử lý tài sản công. Bên cạnh các kết quả đã đạt được, pháp luật về đấu giá tài sản công thời gian qua đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Bài viết trao đổi về thực trạng pháp luật và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về trình tự, thủ tục đấu giá tài sản công ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về trình tự, thủ tục đấu giá tài sản công ở Việt Nam

Việc đấu giá tài sản công ở Việt Nam hiện đang thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu giá tài sản và pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công. Thời gian qua, việc đấu giá tài sản công ở Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, song vẫn còn nhiều sai phạm, bất cập. Để nâng cao hiệu quả công tác đấu giá tài sản công, việc rà soát sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật về đấu giá tài sản và pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công, nhất là những quy định về trình tự, thủ tục đấu giá tài sản công là cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

Xem thêm tài liệu liên quan:

  • Hoàn thiện quy định pháp luật về tài sản công đưa ra đấu giá và tổ chức đấu giá tài sản công ở Việt Nam
  • Biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá - Một số bất cập và hướng hoàn thiện

Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quy định về việc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản công.

Khi đưa tài sản công ra đấu giá, người có tài sản đấu giá phải thực hiện việc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản theo quy định tại Điều 56 Luật đấu giá tài sản. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua, việc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản để đấu giá tài sản công còn mang tính hình thức. Các hiện tượng tiêu cực, cạnh tranh không lành mạnh, hiện tượng doanh nghiệp “sân sau” vẫn diễn ra. Bên cạnh trách nhiệm của người có tài sản đấu giá, một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là do pháp luật về đấu giá tài sản chưa có hướng dẫn chi tiết về vấn đề này, dẫn đến một số cá nhân, tổ chức lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trục lợi, cụ thể như: chưa quy định về thời hạn thực hiện việc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản; về thời hạn thực hiện thông báo công khai việc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản dẫn đến nhiều trường hợp, người có tài sản đặt ra thời hạn thông báo và nộp hồ sơ rất ngắn2, khiến cho nhiều tổ chức đấu giá rất khó/hoặc không kịp chuẩn bị và nộp hồ sơ, và khi đó cơ hội sẽ dành cho các tổ chức đấu giá tài sản “sân sau” mà người có tài sản đấu giá đã “ngầm” lựa chọn trước. Các tiêu chí lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản quy định tại khoản 4 Điều 56 Luật đấu giá tài sản còn chung chung, chưa rõ ràng, minh bạch nên khó thực hiện. Một số trường hợp, người có tài sản đấu giá đã đưa thêm “các tiêu chí khác” có lợi cho tổ chức đấu giá tài sản “sân sau” (có đấu giá viên là luật sư3, có đấu giá viên đồng thời là cộng tác viên của truyền thông báo chí4, v.v.), hoặc lấy tiêu chí về mức thù lao dịch vụ đấu giá là tiêu chí quan trọng để xét hồ sơ lựa chọn tổ chức đấu giá, dẫn đến hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh5. Thậm chí, có trường hợp, người có tài sản đấu giá thông đồng báo cho tổ chức đấu giá tài sản “sân sau” đề xuất lại mức thù lao dịch vụ đấu giá nếu có tổ chức đấu giá khác đề xuất mức thù lao đấu giá thấp hơn để giành quyền ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản công.

Bên cạnh những bất cập nêu trên, pháp luật về đấu giá tài sản hiện cũng chưa có quy định về cách thức chuẩn bị hồ sơ, cách thức thực hiện việc lựa chọn hồ sơ nên rất dễ xảy ra thông đồng trong lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản công (hồ sơ có cần phải niêm phong hay hồ sơ để mở? Người có tài sản đấu giá có phải quy định hay được tùy ý quyết đinh về thời điểm mở hồ sơ, về cách thức mở hồ sơ? Việc mở hồ sơ có cần thực hiện công khai trước các tổ chức đấu giá tài sản hay không? v.v..). Từ thực trạng trên cho thấy, để việc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản nói chung và đấu giá tài sản công nói riêng đảm bảo tính trung thực, khách quan, minh bạch, công bằng, bên cạnh việc tăng cường trách nhiệm của người có tài sản đấu giá, pháp luật về đấu giá tài sản cần sửa đổi theo hướng bổ sung những quy định hướng dẫn chi tiết về thời hạn thực hiện việc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản công; thời hạn thực hiện thông báo công khai việc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản công; về các tiêu chí lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản công; về cách thức chuẩn bị hồ sơ, cách thức thực hiện việc lựa chọn/mở hồ sơ, v.v.

Thứ hai, sửa đổi, bổ sung quy định về bước giá trong đấu giá tài sản công.

Bước giá trong đấu giá tài sản nói chung và đấu giá tài sản công nói riêng được quy định tại Khoản 1 Điều 5; điểm d Khoản 1 Điều 41 và Khoản 1 Điều 42 Luật đấu giá tài sản. Ngoài những quy định trên, pháp luật đấu giá tài sản hiện không có quy định nào khác về bước giá. Thực tế hiện nay, các tổ chức đấu giá tài sản đã quy định và sử dụng bước giá rất khác nhau, như: (1) Ấn định bước giá cụ thể, không quy định bước giá tối đa, ví dụ, quy định bước giá là 1 triệu đồng; và trong một lần trả giá, người tham gia đấu giá có thể trả một hoặc nhiều bước giá nhưng phải bằng số nguyên lần bước giá6; (2) chỉ quy định bước giá là một mức tối thiểu, không quy định mức tối đa, ví dụ, quy định “bước giá tối thiểu là 1 triệu đồng”7; (3) quy định bước giá trong khoảng giá, ví dụ, quy định “bước giá tối thiểu là 1 triệu đồng, tối đa là 50 triệu đồng”8; (4) không quy định mức tối thiểu mà chỉ quy định mức tối đa, ví dụ, quy định “bước giá tối đa là 100 triệu đồng”9, v.v. Bên cạnh đó, pháp luật hiện cũng chưa có quy định định lượng về bước giá, dẫn đến sự tùy tiện trong quy định và sử dụng bước giá trong đấu giá tài sản nói chung và đấu giá tài sản công nói riêng10.

Về thẩm quyền quyết định bước giá, pháp luật về đấu giá tài sản trước đây quy định tổ chức đấu giá tài sản là người có thẩm quyền quyết định bước giá; và tại cuộc đấu giá, đấu giá viên được phép điều chỉnh bước giá11. Thực tiễn thực hiện đã phát sinh trường hợp tổ chức đấu giá tài sản lạm quyền, quyết định bước giá không phù hợp12. Khắc phục tình trạng trên, Luật đấu giá tài sản đã quy định người có tài sản đấu giá là người có  thẩm quyền quyết định bước giá  (Khoản  1 Điều 5). Tuy nhiên, thực tế thực hiện quy định trên lại xuất hiện tình trạng lạm quyền của người có tài sản đấu giá tài sản. Mặt khác, pháp luật về đấu giá tài sản hiện cũng không có quy  định về việc điều chỉnh bước giá nên hiện nay, hầu hết các cuộc đấu giá tài sản công đều không thực hiện việc điều chỉnh bước giá, do vậy chưa phát huy hết được tính hiệu quả trong đấu giá tài sản công.

Đối với cuộc đấu giá trực tiếp bằng lời nói và đấu giá bằng bỏ phiếu trực tiếp tại cuộc đấu giá, theo quy định tại các Điều 41, 42 Luật đấu giá tài sản, đến tận thời điểm khai mạc cuộc đấu giá, đấu giá viên mới thông báo công khai bước giá. Do không biết trước về bước giá nên trong một khoảng thời gian ngắn (đấu giá bằng lời nói trả giá liên tục, đấu giá bằng bỏ phiếu trực tiếp một vòng thường chỉ từ 10 đến 30 phút), người tham gia đấu giá rất khó khăn trong việc tính toán mức giá trả để vừa phù hợp với quy định về bước giá do người có tài sản đấu giá đặt ra, lại vừa phù hợp với khả năng của mình nhưng lại có cơ hội mua được tài sản.

Việc quy định bước giá phù hợp với từng cuộc đấu giá tài sản nói chung và đấu giá tài sản công nói riêng là hết sức quan trọng. Bước giá phù hợp có tác dụng khích lệ khách hàng trả giá nhằm bán được tài sản với giá cao nhất, góp phần bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người có tài sản đấu giá, người tham gia đấu giá và tổ chức đấu giá tài sản. Do vậy, cần sửa đổi, bổ sung quy định về bước giá trong đấu giá tài sản nói chung và đấu giá tài sản công nói riêng theo hướng:

(1) Bổ sung quy định định lượng về bước giá (bước giá phải được xác định theo giá khởi điểm của tài sản đấu giá, trong khoảng từ 0,5% đến 20% giá khởi điểm);

(2) bổ sung quy định về cách thức quy định và sử dụng bước giá, về điều chỉnh bước giá (cách thức điều chỉnh, biên độ điều chỉnh phải thực hiện theo thỏa thuận giữa người có tài sản đấu giá tài sản công và tổ chức đấu giá tài sản);

(3) sửa đổi quy định về thẩm quyền xác định bước giá nhằm phát huy được sự hiểu biết chuyên sâu về bước giá của tổ chức đấu giá tài sản/đấu giá viên, hạn chế sự lạm quyền của cả tổ chức đấu giá tài sản cũng như của người có tài sản đấu giá (bước giá do tổ chức đấu giá tài sản và người có tài sản đấu giá là tài sản công thỏa thuận);

(4) bổ sung quy định bắt buộc tổ chức đấu giá tài sản phải quy định bước giá trong Quy chế cuộc đấu giá và Thông báo đấu giá tài sản công để thông báo công khai cho người tham gia đấu giá biết trước.

Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quy định về xây dựng và ban hành Quy chế cuộc đấu giá tài sản công.

Quy chế cuộc đấu giá tài sản công là tài liệu cung cấp các thông tin về việc đấu giá, hướng dẫn người tham gia đấu giá phối hợp trong quá trình tổ chức đấu giá, đồng thời là cơ sở để tổ chức đấu giá tài sản giải quyết những tình huống, những tranh chấp, khiếu kiện phát sinh khi thực hiện việc đấu giá tài sản công. Quy chế cuộc đấu giá tài sản công càng đầy đủ, rõ ràng, chặt chẽ sẽ càng hạn chế những tranh chấp, khiếu kiện xảy ra trước, trong và sau khi tổ chức cuộc đấu giá tài sản công, tạo cơ sở giải quyết những vấn đề phát sinh mà pháp luật chưa dự liệu hết. Do vậy, ngoài những nội dung bắt buộc phải có theo quy định tại khoản 2 Điều 34 Luật đấu giá tài sản, để tạo thuận lợi cho người tham gia đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản trong quá trình tổ chức đấu giá tài sản công cũng như ràng buộc trách nhiệm của người có tài sản đấu giá, pháp luật về đấu giá tài sản cần quy định bổ sung một số nội dung sau trong Quy chế cuộc đấu giá tài sản công như: Bước giá; trình tự, thủ tục tiến hành cuộc đấu giá; quy tắc ứng xử tại cuộc đấu giá và xử lý vi phạm;một số vấn đề liên quan đến hợp đồng mua bán tài sản đấu giá/hoặc phê duyệt kết quả trúng đấu giá (theo thỏa thuận giữa tổ chức đấu giá và người có tài sản đấu giá trong hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản) như: thời hạn ký hợp đồng mua bán tài sản đấu giá; thời hạn, phương thức thanh toán tiền mua tài sản; thời hạn, phương thức giao tài sản và giấy tờ kèm theo; v.v…

Luật đấu giá tài sản (Khoản 3 Điều 34) quy định tổ chức đấu giá tài sản có trách nhiệm thông báo công khai Quy chế cuộc đấu giá), tuy nhiên chưa quy định về thời gian thông báo công khai, cách thức thông báo công khai Quy chế cuộc đấu giá, dẫn đến việc xây dựng, ban hành và công khai Quy chế cuộc đấu giá tài sản công trong một số trường hợp còn mang tính hình thức, không hiệu quả (chỉ công khai bằng cách niêm yết Quy chế tại trụ sở của tổ chức đấu giá tài sản nên phạm vi những người đọc được là rất ít). Do vậy, để đảm bảo tính công khai, minh bạch trong đấu giá tài sản công, pháp luật về đấu giá tài sản cần bổ sung quy định về thời gian thông báo công khai Quy chế cuộc đấu giá tài sản công (từ ngày niêm yết việc đấu giá tài sản đến khi kết thúc việc đấu giá); bổ sung cách thức thông báo công khai Quy chế cuộc đấu giá tài sản công (đăng trên website của tổ chức đấu giá tài sản13, đây là tài liệu bắt buộc phải có trong hồ sơ tài sản đấu giá để cung cấp cho người có nhu cầu đăng ký tham gia đấu giá, niêm yết công khai Quy chế tại trụ sở của tổ chức đấu giá, v.v.).

Thứ tư, sửa đổi, bổ sung quy định về thông báo công khai việc đấu giá tài sản công.

Theo quy định tại Điều 57 Luật đấu giá tài sản, đối với tài sản công là động sản có giá khởi điểm từ 50 triệu đồng trở lên và bất động sản, tổ chức đấu giá tài sản phải thông báo công khai việc đấu giá tài sản trên báo in/hoặc báo hình của trung ương/hoặc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản đấu giá. Đây là thủ tục bắt buộc tổ chức đấu giá tài sản phải thực hiện nhằm đảm bảo thông tin về việc đấu giá tài sản công đến với rộng rãi nhiều người, từ đó tăng số lượng người tham gia đấu giá, tăng tính cạnh tranh, đảm bảo sự công khai, minh bạch, khách quan, hiệu quả trong đấu giá tài sản công. Tuy nhiên, với số lượng báo in khổng lồ như hiện nay, tổ chức đấu giá tài sản vẫn có thể dễ dàng “qua mặt” người tham gia đấu giá trong việc đăng thông báo công khai việc đấu giá tài sản công (đăng rải rác trên nhiều báo, đăng trên các báo in mà người có nhu cầu tham gia hầu như không đọc; đăng trên báo hình vào những khung giờ quá sớm hoặc quá muộn nên có rất ít người theo dõi, v.v.). Do vậy, việc tiếp cận thông tin đấu giá tài sản công qua báo in/báo hình chưa đem lại hiệu quả như mong muốn. Để tạo thuận lợi cho người có nhu cầu tham gia đấu giá tiếp cận với thông tin đấu giá tài sản công, cần sửa đổi Luật đấu giá theo hướng: thông tin về đấu giá tài sản nói chung và đấu giá tài sản công nói riêng trong phạm vi cả nước chỉ đăng tải trên một báo in chuyên về đấu giá tài sản; bổ sung quy định bắt buộc tổ chức đấu giá tài sản phải đăng tải Thông báo đấu giá tài sản công trên website của tổ chức đấu giá tài sản14; bổ sung quy định về bước giá trong Thông báo đấu giá tài sản (như đã kiến nghị ở mục thứ hai).

Hiện nay, giữa pháp luật về đấu giá tài sản và pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công còn quy định mâu thuẫn, chồng chéo nhau về thông báo công khai việc đấu giá tài sản công. Theo Khoản 6 Điều 24 Nghị định số 151/2017/NĐ-CP, ngoài việc niêm yết, thông báo công khai theo quy định của pháp luật về đấu giá tài sản, thông tin về việc đấu giá tài sản công còn phải đăng tải trên hệ thống giao dịch điện tử về tài sản công hoặc trang thông tin điện tử về tài sản công của Bộ Tài chính. Tuy nhiên, theo nguyên tắc áp dụng Luật đấu giá tài sản về trình tự, thủ tục đấu giá (Điều 3) và để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất giữa pháp luật về đấu giá tài sản và pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công, cần sửa đổi theo hướng hủy bỏ quy định về thông báo công khai việc đấu giá tài sản công tại Khoản 6 Điều 24 Nghị định số 151/2017/NĐ-CP.

Thứ năm, sửa đổi, bổ sung quy định về việc lập, bán hồ sơ tài sản đấu giá, tổ chức đăng ký tham gia đấu giá tài sản công.

Pháp luật về đấu giá tài hiện chưa có quy định về việc lập hồ sơ tài đấu giá, chỉ quy định việc tổ chức đấu giá tài sản phải “bán hồ sơ tham gia đấu giá, tiếp nhận hồ sơ tham gia đấu giá” (Khoản 2 Điều 38 Luật đấu giá tài sản). Trên thực tế, các tổ chức đấu giá tài sản thực hiện việc lập hồ sơ tài sản đấu giá rất khác nhau. Có tổ chức đấu giá tài sản thực hiện việc lập hồ sơ với đầy đủ các thông tin cần thiết về tài sản, về trình tự, thủ tục đấu giá, các mẫu văn bản sử dụng trong quá trình đăng ký tham gia đấu giá (Đơn đăng ký tham gia đấu giá, mẫu giấy ủy quyền, v.v.); có tổ chức đấu giá tài sản chỉ có duy nhất mẫu đơn đăng ký tham gia đấu giá15.

Lập hồ sơ tài sản đấu giá là hoạt động nhằm cung cấp cho người có nhu cầu tham gia đấu giá những thông tin cần thiết có liên quan đến tài sản đấu giá; về điều kiện tham gia đấu giá; trình tự, thủ tục tổ chức cuộc đấu giá; quy tắc xử sự khi tham gia cuộc đấu giá và hình thức xử lý khi vi phạm; cung cấp những mẫu văn bản sử dụng trong quá trình đăng ký tham gia đấu giá. Sau khi tham khảo hồ sơ và xem tài sản đấu giá, người có nhu cầu tham gia đấu giá sẽ quyết định có/hoặc không đăng ký tham gia đấu giá tài sản. Và nếu tham gia đấu giá, trên cơ sở thông tin được cung cấp trong hồ sơ tài sản đấu giá, họ sẽ tính toán mức giá trả, phối hợp tốt hơn với tổ chức đấu giá trong quá trình đấu giá tài sản. Do vậy, để thống nhất trong việc lập hồ sơ tài sản đấu giá tài sản nói chung và đấu giá tài sản công nói riêng, pháp luật về đấu giá tài sản cần bổ sung quy định về thời điểm lập hồ sơ tài sản đấu giá (sau thời điểm ban hành Quy chế cuộc đấu giá và trước thời điểm niêm yết việc đấu giá tài sản công); về các tài liệu cần có trong hồ sơ (các tài liệu thể hiện nguồn gốc, hiện trạng, giá trị chất lượng tài sản đấu giá; Quy chế cuộc đấu giá; Thông báo đấu giá; mẫu đơn đăng ký tham gia đấu giá; mẫu giấy ủy quyền; mẫu phiếu trả giá (để cho người tham gia đấu giá tham khảo trước trong trường hợp đấu giá bằng hình thức bỏ phiếu trực tiếp tại cuộc đấu giá).

Về việc bán và thu hồ sơ đấu giá tài sản công, hầu hết hiện nay các tổ chức đấu giá tài sản đều chỉ áp dụng một hình thức duy nhất là bán và thu hồ sơ trực tiếp. Thực tế hiện nay, hiện tượng hạn chế bán và tiếp nhận hồ sơ đăng ký tham gia đấu giá, nhất là đấu giá những “khu đất vàng” vẫn diễn ra. Đây chính là rào cản khiến cho người có nhu cầu khó tiếp cận mua tài sản đấu giá, làm giảm lượng khách hàng tham gia đấu giá, từ đó giảm tính cạnh tranh và giá bán tài sản. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển mạnh mẽ như hiện nay, để tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia đấu giá, tăng cường tính công khai, minh bạch, từ đó thu hút được nhiều người tham gia đấu giá, tăng tính cạnh tranh, hiệu quả trong đấu giá tài sản công, cần sửa đổi Luật đấu giá tài sản theo hướng mở rộng hình thức phát hành và thu hồ sơ tham gia đấu giá (vừa thực hiện theo hình thức trực tiếp, vừa theo hình thức trực tuyến). Các tổ chức đấu giá khi thực hiện việc đấu giá tài sản công phải đáp ứng các tiêu chí16, trong đó bắt buộc phải thiết lập website và đưa lên website toàn bộ hồ sơ từng cuộc đấu giá tài sản công, để những người có nhu cầu có thể truy cập tham khảo trực tiếp hoặc download hồ sơ thay vì phải mua hồ sơ trực tiếp như hiện nay. Việc nộp hồ sơ đấu giá tài sản công có thể thực hiện theo hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp, trực tuyến.

Về thời hạn nộp tiền đặt trước: Trước đây, pháp luật về đấu giá không quy định về thời hạn thu tiền đặt trước nên nhiều tổ chức đấu giá tài sản lạm dụng quy định thời hạn nộp tiền đặt trước rất sớm nhằm hưởng lợi (lãi tiền gửi). Khắc phục hiện tượng trên, Luật đấu giá tài sản (Khoản 2 Điều 39) đã quy định tổ chức đấu giá tài sản chỉ được thu tiền đặt trước của người tham gia đấu giá trong thời hạn 03 ngày làm việc trước ngày mở cuộc đấu giá, trừ trường hợp tổ chức đấu giá tài sản và người tham gia đấu giá có thỏa thuận khác nhưng phải trước ngày mở cuộc đấu giá. Tuy nhiên, thời hạn thu tiền đặt trước kết thúc sát ngay thời điểm tổ chức cuộc đấu giá, dẫn đến các tổ chức đấu giá tài sản gặp rất nhiều khó khăn trong công tác chuẩn bị tổ chức cuộc đấu giá, nhất là đối với các cuộc đấu giá có đông người tham gia, đấu giá bằng bỏ phiếu trực tiếp tại cuộc đấu giá hoặc cuộc đấu giá được tổ chức cách xa trụ sở của tổ chức đấu giá tài sản. Do vậy, mặc dù pháp luật quy định tổ chức đấu giá thu tiền đặt trước trong thời hạn 03 ngày làm việc, nhưng thực tế nhiều tổ chức đấu giá chỉ thực hiện thu tiền đặt trước trong thời hạn từ một đến hai ngày làm việc trước ngày mở cuộc đấu giá; còn lại ngày thứ ba để chuẩn bị cho tổ chức cuộc đấu giá. Mặc dù vậy, đối với những cuộc đấu giá có đông người tham gia, 01 ngày chuẩn bị vẫn được cho là quá ngắn, dẫn đến quá trình chuẩn bị tổ chức cuộc đấu giá dễ bị nhầm lẫn, sai sót. Do vậy, cần sửa đổi pháp luật về đấu giá tài sản theo hướng quy định thời điểm kết thúc việc thu tiền đặt trước trùng với thời điểm kết thúc viêc tiếp nhận hồ sơ tham gia đấu giá tài sản công (kết thúc trước ngày mở cuộc đấu giá tài sản công là 02 ngày).

Thứ sáu, sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức cuộc đấu giá tài sản công.

Đối với hình thức đấu giá trực tiếp bằng lời nói tại cuộc đấu giá: trình tự, thủ tục đấu giá thực hiện theo quy định tại Điều 41 Luật đấu giá tài sản. Là hình thức đấu giá truyền thống trong pháp luật đấu giá tài sản ở Việt Nam, tuy nhiên đến nay, một số vấn đề liên quan đến hình thức đấu giá này vẫn chưa được pháp luật quy định như: cách thức xác định người được quyền trả giá (người tham gia đấu giá được tự do trả giá/hay trả giá theo thứ tự danh sách theo tên/mã số của người tham gia đấu giá mà tổ chức đấu giá lập trước (danh sách tên/mã số của người tham gia đấu giá xếp theo thứ tự bảng chữ cái/hay thứ tự đăng ký tham gia đấu giá); về cách thức giải quyết trong trường hợp có từ hai người trở lên cùng phát tín hiệu trả giá; cách thức xác định kết quả đấu giá trong trường hợp chỉ có duy nhất một người trả giá bằng giá khởi điểm17; v.v.

Đấu giá trực tiếp bằng lời nói là cuộc đấu giá có khả năng kích thích khách hàng trả giá, đẩy giá bán tài sản lên cao nếu được tổ chức một cách khách quan, minh bạch, công bằng. Tuy nhiên, nếu không có quy định rõ ràng và không kiểm soát tốt, hình thức đấu giá này có thể bị “vỡ trận”, nhất là đối với những cuộc đấu giá có đông người tham gia hoặc phức tạp (có sự tham gia của lực lượng “đầu gấu”, “xã hội đen” hoặc có dấu hiệu thông đồng, v.v..). Do vậy, để phát huy hiệu quả của hình thức đấu giá trực tiếp bằng lời nói tại cuộc đấu giá tài sản công, hạn chế tình trạng lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trục lợi, pháp luật về đấu giá tài sản cần quy định bổ sung các vấn đề nêu trên để các tổ chức đấu giá tài sản thực hiện một cách thống nhất.

Đối với hình thức đấu giá bằng bỏ phiếu trực tiếp tại cuộc đấu giá: đây là hình thức đấu giá phổ biến hiện nay, được thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định tại Điều 42 Luật đấu giá tài sản. Tuy nhiên, do pháp luật còn thiếu những quy định cụ thể nên thực tế hiện nay, việc đấu giá tài sản công bằng hình thức bỏ phiếu trực tiếp tại cuộc đấu được thực hiện không thống nhất giữa các địa phương, giữa các tổ chức đấu giá tài sản, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, của người tham gia đấu giá và tổ chức đấu giá tài sản18. Do đó, để việc đấu giá tài sản công được thực hiện một cách thống nhất, hiệu quả, pháp luật về đấu giá tài sản cần bổ sung quy định về các vấn đề như: bổ sung quy định chi tiết về việc xây dựng phiếu trả giá trực tiếp tại cuộc đấu giá tài sản công; xây dựng những tiêu chí cơ bản để xác định phiếu trả giá hợp lệ/hoặc không hợp lệ; về cách thể hiện ý chí của người tham gia đấu giá khi họ không muốn đấu giá tiếp; về cách thức giải quyết khi có từ hai người trở lên cùng trả giá cao nhất bằng nhau, v.v.

Đối với hình thức đấu giá bằng bỏ phiếu gián tiếp: trình tự, thủ tục đấu giá được thực hiện theo quy định tại Điều 43 Luật đấu giá tài sản. Với mong muốn bảo mật thông tin, hạn chế sự tiếp xúc giữa những người tham gia đấu giá, đấu giá bằng bỏ phiếu gián tiếp được kỳ vọng sẽ tác động tích cực đến hoạt động đấu giá tài sản, góp phần khắc phục tình trạng thông đồng, dìm giá, tình trạng khống chế việc trả giá nhằm trục lợi, gây thất thoát tài sản, đặc biệt trong đấu giá tài sản công. Tuy nhiên, là một hình thức đấu giá mới được quy định trong Luật đấu giá tài sản, một số vấn đề đến nay vẫn chưa được pháp luật quy định chi tiết dẫn đến khó khăn trong quá trình thực hiện như: Thời điểm nộp phiếu trả giá (từ thời điểm đăng ký đấu giá/hay trước khi nộp tiền đặt trước/hay trùng thời điểm nộp tiền đặt trước/hay trong trong thời hạn nào đó trước ngày mở cuộc đấu giá?); cách thức nộp hồ sơ và phiếu trả giá (bảo mật phiếu và nộp cùng trong túi hồ sơ hay tách riêng? nếu tách riêng thì phong bì đựng phiếu trả giá có ghi tên, địa chỉ của người tham gia đấu giá hay không?); việc niêm phong thùng phiếu khi hết thời hạn nhận phiếu (tổ chức đấu giá tự niêm phong khi hết thời hạn nhận phiếu hay phải có sự chứng kiến/cùng tham gia niêm phong của người có tài sản đấu giá/người tham gia đấu giá); cách thức giải quyết trong trường hợp phiếu trả giá gửi qua đường bưu chính nhưng vì lý do khách quan mà tổ chức đấu giá tài sản không nhận được đúng thời gian quy định? v.v.. Do vậy, để hình thức đấu giá bằng bỏ phiếu gián tiếp phát huy hiệu quả như mong muốn, pháp luật về đấu giá tài sản cần bổ sung quy định chi tiết các vấn đề như đã nêu trên. Thứ bảy, sửa đổi quy định về cách thức xử lý  khi người trúng đấu giá không thực hiện đúng nghĩa vụ nộp tiền trong trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất để nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất.

Theo quy định tại Nghị định số 43/2014/NĐ- CP, trong trường hợp người trúng đấu giá không thực hiện đúng nghĩa vụ nộp tiền khi đấu giá quyền sử dụng đất để nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ xử lý hủy quyết định công nhận kết quả trúng đấu giá (điểm d khoản 5 Điều 68). Tuy nhiên, Nghị định 45/2014/NĐ-CP (khoản 4 Điều 14) và Nghị định số 46/2014/NĐ- CP (Điều 24) lại không quy định về việc hủy kết quả trúng đấu giá như Nghị định số 43/2014/NĐ- CP, chỉ quy định người trúng đấu giá phải nộp tiền chậm nộp đối với số tiền chưa nộp đúng hạn theo mức quy định của pháp luật về quản lý thuế. Thực tế hiện nay, giữa các địa phương đang xử lý rất khác nhau trong trường hợp này. Có nhiều địa phương thực hiện việc hủy quyết định công nhận kết quả trúng đấu giá và không hoàn trả khoản tiền đặt trước cho người trúng đấu giá như: Hà Nội, Đà Nẵng, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Bắc Giang, Yên Bái, Bắc Ninh, Hà Nam, Ninh Bình, v.v. Có địa phương không hủy kết quả đấu giá mà thực hiện phạt tiền chậm nộp theo quy định của pháp luật quản lý thuế như: Đồng Tháp, An Giang, v.v. Do vậy, cần sửa đổi Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, Nghị định 45/2014/NĐ-CP và Nghị định số 46/2014/NĐ-CP để thống nhất cách thức xử lý khi người trúng đấu giá vi phạm nghĩa vụ nộp tiền trúng đấu giá khi đấu giá quyền sử dụng đất để nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất.

Thứ tám, sửa đổi, bổ sung quy định về thù lao dịch vụ đấu giá, chi phí đấu giá tài sản công.

Thù lao đấu giá, chi phí đấu giá nói chung và đấu giá tài sản công nói riêng hiện nay thực hiện theo quy định tại Điều 66, 68 Luật đấu giá tài sản, Thông tư số 45/2017/TT-BTC và Thông tư số 48/2017/TT-BTC. Tuy nhiên, theo phản ánh của nhiều tổ chức đấu giá tài sản tại các hội nghị tập huấn nghiệp vụ của Bộ Tư pháp thì mức thù lao đấu giá hiện nay là quá thấp, các tổ chức đấu giá tài sản “không đủ sống”. Ví dụ, năm 2019, cả nước có 535 tổ chức đấu giá tài sản, thu được 244.714.496.615 đồng tiền thù lao dịch vụ đấu giá19, như vậy tính trung bình trong năm 2019 mỗi tổ chức đấu giá thu 457,4 triệu đồng.

Thù lao dịch vụ đấu giá giữ vai trò quan trọng trong hoạt động đấu giá tài sản nói chung và đấu giá tài sản công nói riêng. Nếu thù lao dịch vụ đấu giá tài sản công thấp, chi phí nhà nước phải chi trả sẽ giảm nhưng không khuyến khích được các tổ chức đấu giá tài sản/đấu giá viên. Mặt khác, thù lao đấu giá thấp cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc tổ chức đấu giá tài sản/đấu giá viên vi phạm, thông đồng nhằm trục lợi khi thực hiện việc đấu giá tài sản công. So sánh với một số nước trên thế giới cho thấy, pháp luật nhiều nước quy định mức thù lao dịch vụ đấu giá tài sản khá cao (ví dụ như ở Pháp, đối với tài sản tư pháp, thù lao đấu giá là 12% giá trị tài sản bán được chưa kể chi phí đấu giá; đối với tài sản tự nguyện của tổ chức, cá nhân, mức thù lao đấu giá thu theo thỏa thuận; ở Trung Quốc, thù lao dịch vụ đấu giá thu theo thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận thì tổ chức đấu giá tài sản được thu không quá 5% giá trị tài sản bán được, v.v..). Gắn với mức thù lao đấu giá cao sẽ là những đòi hỏi khắt khe trong hoạt động nghề nghiệp của đấu giá viên, từ đó chất lượng hoạt động đấu giá sẽ được nâng cao, vi phạm trong đấu giá sẽ giảm. So sánh với mức thù lao dịch vụ đấu giá tài sản của một số nước cho thấy, mức thù lao dịch vụ đấu giá tài sản nói chung và đấu giá tài sản công nói riêng ở Việt Nam hiện nay là khá thấp. Từ thực tế trên cho thấy, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung các quy định về thù lao dịch vụ đấu giá, chi phí đấu giá và chế độ tài chính trong đấu giá tài sản công, cụ thể:

Đối với Thông tư số 45/2017/TT-BTC:

(1) sửa đổi, bổ sung theo hướng tách riêng thù lao dịch vụ đấu giá và chi phí đấu giá tài sản cho phù hợp với quy định tại Điều 66 Luật đấu giá tài sản và đảm bảo mức chi phí tối thiểu cho mỗi hợp đồng dịch vụ đấu giá, hạn chế tình trạng cạnh tranh không lành mạnh khi tham gia lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản đấu giá là tài sản công. Trường hợp đấu giá thành, tổ chức đấu được thanh toán thù lao dịch vụ đấu giá và chi phí đấu giá theo thỏa thuận; trường hợp đấu giá không thành, tổ chức đấu được thanh toán chi phí đấu giá theo thỏa thuận;

(2) tăng mức thù lao cố định trong khung tối đa thù lao dịch vụ đấu giá cho phù hợp với mức tăng chỉ số tiêu dùng các mặt hàng và mức tăng lương hàng năm;

(3) bổ sung khung thù lao dịch vụ đấu giá theo giá khởi điểm/hợp đồng tại 02 Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư số 45/2017/TT-BTC;

(4) Tăng mức tối đa mức thù lao dịch vụ đấu giá tài sản từ 300 triệu đồng lên tối thiểu là 450 triệu đồng;

(5) tăng mức tỷ lệ phần trăm mà tổ chức đấu giá được hưởng trong phần chênh lệch giữa giá trúng đấu giá với giá khởi điểm của tài sản nhằm động viên, khuyến khích các đấu giá viên/tổ chức đấu giá tài sản;

Đối với Thông tư số 48/2017/TT-BTC: sửa đổi, bổ sung quy định về sử dụng tiền bán hồ sơ tham gia đấu giá cho phù hợp với chi phí mà tổ chức đấu giá tài sản phải bỏ ra trong quá trình làm hồ sơ tài sản đấu giá, phù hợp với việc phát hành/thu hồ sơ đấu giá tài sản công theo hình thức trực tuyến./.

CHÚ THÍCH

  1. Thạc sỹ, Phó Trưởng phòng Đào tạo và công tác học viên, Học viện Tư pháp, NCS Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
  2. Xem thông báo lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản để thực hiện đấu giá Quyền sử dụng đất để thực hiện dự án phát triển đô thị số 5A, phường Đề Thám, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Cao Bằng (thời gian đăng lúc 13:47 28/09/2020, thời gian tiếp nhận hồ sơ: từ ngày 28/09/2020 đến hết ngày 30/09/2020, https://dgts.moj.gov.vn/thong-bao-lua-chon-to-chuc-dau-gia/quyen-su-dung-dat-de-thuc-hien-du-an- phat-trien-do-thi-so-5a-phuong-de-tham-thanh-pho-cao-bang-tinh-cao-bang-5867.html).
  3. Thông báo số 1642/TB-VTHT-KTKH ngày 30/9/2020 của Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam – Viễn thông Hà Tĩnh.
  4. Xem Thông báo số 2491/TB-STNMT ngày 28/9/2020 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Cao Bằng.
  5. Đã có nhiều trường hợp, tổ chức đấu giá tài sản đề xuất mức thù lao dịch vụ đấu giá rất thấp, sẵn sàng bù lỗ chi phí để được lựa chọn. Ví dụ: việc đấu giá 325,86 ha cây cao su thanh lý để tái canh đợt 3 năm 2020 của Công ty TNHH MTV cao su Dầu Tiếng, tổ chức đấu giá tài sản được lựa chọn là đơn vị đề xuất mức thù lao đấu giá rất thấp, chỉ có 1.000.000 đồng. Tuy nhiên, mức thù lao này không đủ để trang trải các chi phí mà tổ chức đấu giá tài sản phải bỏ ra như: chi phí đăng thông báo trên báo in/báo hình, chi phí in, photocopy hồ sơ để cung cấp cho người có nhu cầu tham gia đấu giá, chi phí tổ chức cuộc đấu giá, v.v (Thông báo số 314a/TB-CSDT ngày 19/3/2020 của Công ty TNHH MTV cao su Dầu Tiếng về kết quả lựa chọn đơn vị tổ chức đấu giá tài sản).
  6. Trường hợp này, nếu người tham gia đấu giá trả một bước giá bằng 1 triệu đồng, hai bước giá bằng 2 triệu đồng,v.v. là phù hợp; nhưng nếu trả 1,5 triệu đồng là sai (trả bước giá lẻ).
  7. Trường hợp này, người tham gia đấu giá có thể trả giá tùy chọn nhưng thấp nhất phải từ 1 triệu đồng trở lên (có thể trả bước giá lẻ 1,1 triệu đồng).
  8. Trường hợp này, mỗi lần trả giá người tham gia đấu giá chỉ được trả trong phạm vi mức tối thiểu và mức tối đa;
  9. Trường hợp này, người tham gia đấu giá có thể trả giá tùy chọn ở tối thiểu nhưng tối đa không được trả quá 100 triệu đồng
  10. Đỗ Văn Nhân (2012), Quy định bước giá trong hoạt động bán đấu giá chưa hợp lý, https://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/469602-.html, truy cập 11/10/2019.
  11. Nghị định số 17/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04/3/2010 về bán đấu giá tài sản và Thông tư số 23/2010/TT- BTP ngày 06/12/2010 của Bộ Tư pháp Quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/03/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản.
  12. Đỗ Văn Nhân (2012), Quy định bước giá trong hoạt động bán đấu giá chưa hợp lý, https://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/469602-.html, truy cập 11/10/2019.
  13. 14. Xem thêm Nguyễn Thị Thu Hồng, Hoàn thiện quy định pháp luật về tài sản công đưa ra đấu giá và tổ chức đấu giá tài sản công ở Việt Nam, Tạp chí Nghề Luật, số 9 năm 2020, tr. 7-13.
  14. Các tổ chức đấu giá tài sản lý giải: càng làm nhiều hồ sơ thì càng lỗ, bởi tổ chức đấu giá tài sản phải bỏ ra các chi phí làm hồ sơ (chi phí in, photocopy, đóng quyển hồ sơ, túi đựng hồ sơ, v.v.), trong khi đó, tiền bán hồ sơ thuộc về người có tài sản đấu giá.
  15. Nguyễn Thị Thu Hồng (2020), Hoàn thiện quy định pháp luật về tài sản công đưa ra đấu giá và tổ chức đấu giá tài sản công ở Việt Nam, Tạp chí Nghề Luật, số 9 năm 2020, tr. 7-13.
  16. 18. Nguyễn Thị Thu Hồng (2020), Đấu giá tài sản không thành theo quy định của Luật đấu giá tài sản, Tạp chí Nghề Luật, số tháng 6 năm 2020, tr 45-49.
  17. Báo cáo tổng kết công tác tư pháp năm 2019 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2020 số 01/BC- BTP ngày 01/01/2020 của Bộ Tư pháp (Biểu mẫu số 20).
Chia sẻ bài viết:
  • Share on Facebook

Bài viết liên quan

Hoàn thiện quy định pháp luật về tài sản công đưa ra đấu giá và tổ chức đấu giá tài sản công ở Việt Nam
Hoàn thiện quy định pháp luật về tài sản công đưa ra đấu giá và tổ chức đấu giá tài sản công ở Việt Nam
Biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá - Một số bất cập và hướng hoàn thiện
Biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá – Một số bất cập và hướng hoàn thiện
Bình luận các sai sót trong quá trình kê biên, xử lý tài sản thế chấp để thi hành bản án, quyết định kinh doanh thương mại
Bình luận các sai sót trong quá trình kê biên, xử lý tài sản thế chấp để thi hành bản án, quyết định kinh doanh thương mại
Một số tranh chấp phổ biến liên quan đến tình trạng pháp lý của tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất từ thực tiễn giám đốc thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao
Một số tranh chấp phổ biến liên quan đến tình trạng pháp lý của tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất từ thực tiễn giám đốc thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao
Hoàn thiện chế định đình chỉ thi hành án dân sự theo Pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam
Hoàn thiện chế định đình chỉ thi hành án dân sự theo Pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam
Xác định các căn cứ pháp lý để tính toán lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác một số loại tài sản
Xác định các căn cứ pháp lý để tính toán lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác một số loại tài sản

Chuyên mục: Dân sự/ Đấu giá Từ khóa: Bán đấu giá/ Tài sản công/ Trình tự thủ tục

Previous Post: « Tội phạm lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa
Next Post: Xác định các căn cứ pháp lý để tính toán lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác một số loại tài sản »

Reader Interactions

Trả lời Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Primary Sidebar

Tìm kiếm nhanh tại đây:

Tài liệu học Luật

  • Trắc nghiệm Luật | Có đáp án
  • Nhận định Luật | Có đáp án
  • Bài tập tình huống | Đang cập nhật
  • Đề cương ôn tập | Có đáp án
  • Đề Thi Luật | Cập nhật đến 2021
  • Giáo trình Luật PDF | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | TRẢ PHÍ
  • Từ điển Luật học Online| Tra cứu ngay

Tổng Mục lục Tạp chí ngành Luật

  • Tạp chí Khoa học pháp lý
  • Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
  • Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
  • Tạp chí Kiểm sát
  • Tạp chí nghề Luật

Chuyên mục bài viết:

  • An sinh xã hội
  • Cạnh tranh
  • Chứng khoán
  • Cơ hội nghề nghiệp
  • Dân sự
    • Luật Dân sự Việt Nam
    • Tố tụng dân sự
    • Thi hành án dân sự
    • Hợp đồng dân sự thông dụng
    • Pháp luật về Nhà ở
    • Giao dịch dân sự về nhà ở
    • Thừa kế
  • Doanh nghiệp
    • Chủ thể kinh doanh và phá sản
  • Đất đai
  • Giáo dục
  • Hành chính
    • Luật Hành chính Việt Nam
    • Luật Tố tụng hành chính
    • Tố cáo
  • Hiến pháp
    • Hiến pháp Việt Nam
    • Hiến pháp nước ngoài
    • Giám sát Hiến pháp
  • Hình sự
    • Luật Hình sự – Phần chung
    • Luật Hình sự – Phần các tội phạm
    • Luật Hình sự quốc tế
    • Luật Tố tụng hình sự
    • Thi hành án hình sự
    • Tội phạm học
    • Chứng minh trong tố tụng hình sự
  • Hôn nhân gia đình
    • Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam
    • Luật Hôn nhân gia đình chuyên sâu
  • Lao động
  • Luật Thuế
  • Môi trường
  • Ngân hàng
  • Quốc tế
    • Chuyển giao công nghệ quốc tế
    • Công pháp quốc tế
    • Luật Đầu tư quốc tế
    • Luật Hình sự quốc tế
    • Thương mại quốc tế
    • Tư pháp quốc tế
    • Tranh chấp Biển Đông
  • Tài chính
    • Ngân sách nhà nước
  • Thương mại
    • Luật Thương mại Việt Nam
    • Thương mại quốc tế
    • Pháp luật Kinh doanh Bất động sản
    • Pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm
    • Nhượng quyền thương mại
  • Sở hữu trí tuệ
  • Kiến thức chung
    • Đường lối Cách mạng ĐCSVN
    • Học thuyết kinh tế
    • Kỹ năng nghiên cứu và lập luận
    • Lý luận chung Nhà nước – Pháp luật
    • Lịch sử Nhà nước – Pháp luật
    • Lịch sử văn minh thế giới
    • Logic học
    • Pháp luật đại cương
    • Tư tưởng Hồ Chí Minh
    • Triết học

Quảng cáo:

Copyright © 2022 · Luật sư Online · Giới thiệu ..★.. Liên hệ ..★.. Tuyển CTV ..★.. Quy định sử dụng