Quyền khởi kiện người quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020
Tác giả: Đồng Thị Kim Thoa [1]
TÓM TẮT
Luật doanh nghiệp (LDN) năm 2020 có nhiều điểm mới quan trọng về quản trị doanh nghiệp và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư góp vốn vào doanh nghiệp. Bài viết này tập trung giới thiệu, phân tích một số vấn đề về quyền khởi kiện người quản lý doanh nghiệp theo quy định của LDN năm 2020 trong tương quan so sánh với LDN năm 2014 và pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doang thương mại tại Tòa án, đồng thời nêu một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi bổ sung quy định pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện chính sách đối với quyền lợi của nhà đầu tư cũng như sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam theo hướng tiên tiến, hiện đại.
1. Quy định của Luật doanh nghiệp năm 2020 về quyền khởi kiện người quản lý doanh nghiệp
Theo LDN năm 2020, doanh nghiệp (DN) là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh (Khoản 10 Điều 4); trong đó có các loại hình cụ thể như: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên, công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty cổ phần, công ty hợp danh. Người quản lý doanh nghiệp, theo Khoản 24 Điều 4 Luật này, là người quản lý doanh nghiệp tư nhân và người quản lý công ty, bao gồm chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác theo quy định tại Điều lệ công ty.
1.1. Quyền khởi kiện người quản lý doanh nghiệp trong công ty trách nhiệm hữu hạn
Trong công ty TNHH, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc, Tổng giám đốc và người quản lý khác có trách nhiệm:
(a) Thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp tối đa của công ty;
(b) Trung thành với lợi ích của công ty; không lạm dụng địa vị, chức vụ và sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh, tài sản khác của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;
(c) Thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho công ty về doanh nghiệp mà mình làm chủ hoặc có cổ phần, phần vốn góp và doanh nghiệp mà người có liên quan của mình làm chủ, cùng sở hữu hoặc sở hữu riêng cổ phần, phần vốn góp chi phối;
(d) Trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty (Khoản 1 Điều 71).
Việc khởi kiện người quản lý trong công ty TNHH được quy định tại Điều 72, với nội dung gồm:
(1) Thành viên công ty tự mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, người đại diện theo pháp luật và người quản lý khác do vi phạm quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người quản lý trong trường hợp sau đây:
(a) Vi phạm quy định tại Điều 71 như nêu trên;
(b) Không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, thực hiện không kịp thời hoặc thực hiện trái với quy định của pháp luật hoặc Điều lệ công ty, Nghị quyết, Quyết định của Hội đồng thành viên đối với quyền và nghĩa vụ được giao;
(c) Trường hợp khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty;
(2) Trình tự, thủ tục khởi kiện được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự;
(3) Chi phí khởi kiện trong trường hợp thành viên khởi kiện nhân danh công ty được tính vào chi phí của công ty, trừ trường hợp bị bác yêu cầu khởi kiện.
So với LDN năm 2014, LDN năm 2020 bổ sung làm rõ:
(1) căn cứ để đánh giá vi phạm của người quản lý ngoài quy định của pháp luật hoặc Điều lệ công ty, nghị quyết của Hội đồng thành viên còn có quyết định của Hội đồng thành viên, và
(2) chi phí khởi kiện trong trường hợp thành viên khởi kiện nhân danh công ty (Lưu ý: các chữ viết nghiêng trong đoạn trên đây là điểm mới so với quy định tương ứng tại LDN năm 2014).
1.2. Quyền khởi kiện người quản lý doanh nghiệp trong công ty cổ phần
LDN năm 2020 quy định quyền khởi kiện người quản lý trong công ty cổ phần nhằm bảo vệ tài sản cho cổ đông khi góp vốn cho công ty hoạt động2. Thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác có trách nhiệm quy định cụ thể tại Khoản 1 Điều 165, nếu vi phạm phải chịu trách nhiệm cá nhân hoặc liên đới đền bù lợi ích bị mất, trả lại lợi ích đã nhận và bồi thường toàn bộ thiệt hại cho công ty và bên thứ ba.
Về quyền khởi kiện đối với thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc, Tổng giám đốc, Điều 166 LDN năm 2020 quy định:
(1) Cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 01% tổng số cổ phần phổ thông có quyền tự mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm liên đới đối với các thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc để yêu cầu hoàn trả lợi ích hoặc bồi thường thiệt hại cho công ty hoặc người khác trong trường hợp sau đây:
(a) Vi phạm trách nhiệm của người quản lý công ty theo quy định tại Điều 165 của Luật này;
(b) Không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, thực hiện không kịp thời hoặc thực hiện trái với quy định của pháp luật hoặc Điều lệ công ty, nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị đối với quyền và nghĩa vụ được giao;
(c) Lạm dụng địa vị, chức vụ và sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh, tài sản khác của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;
(d) Trường hợp khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty;
(2) Trình tự, thủ tục khởi kiện thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Chi phí khởi kiện trong trường hợp cổ đông, nhóm cổ đông khởi kiện nhân danh công ty được tính vào chi phí của công ty, trừ trường hợp bị bác yêu cầu khởi kiện;
(3) Cổ đông, nhóm cổ đông theo quy định tại Điều này có quyền xem xét, tra cứu, trích lục thông tin cần thiết theo quyết định của Tòa án, trọng tài trước hoặc trong quá trình khởi kiện.
Quy định này có một số sửa đổi, bổ sung so với LDN năm 2014, cụ thể như sau: Về điều kiện khởi kiện, cổ đông, nhóm cổ đông chỉ cần sở hữu ít nhất 01% tổng số cổ phần phổ thông, không nhất thiết phải liên tục trong thời hạn 06 tháng; lý do khởi kiện là vi phạm nghĩa vụ người quản lý công ty được sửa thành vi phạm trách nhiệm người quản lý công ty; trách nhiệm dân sự trong LDN năm 2014 được cụ thể hóa hơn, gồm: trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm liên đới; việc khởi kiện có mục đích là để yêu cầu hoàn trả lợi ích hoặc bồi thường thiệt hại cho công ty hoặc người khác; căn cứ để đánh giá vi phạm của người quản lý ngoài quy định của pháp luật hoặc Điều lệ công ty, Nghị quyết của của Hội đồng quản trị còn có Quyết định của Hội đồng quản trị; phạm vi quyền của người khởi kiện: bổ sung quy định cổ đông, nhóm cổ đông có quyền xem xét, tra cứu, trích lục thông tin cần thiết theo quyết định của Tòa án, trọng tài trước hoặc trong quá trình khởi kiện.
Các sửa đổi đáng lưu ý như trên là tiến bộ và phù hợp với sự phát triển của doanh nghiệp theo hướng ngày càng hội nhập với thực tiễn tiên tiến trên thế giới, đảm bảo quyền của chủ sở hữu vốn khi đầu tư vào công ty cổ phần3.
Mặc dù vậy, quy định của LDN năm 2020 chưa thực sự rõ ràng, có thể sẽ gây ra nhiều khó khăn khi áp dụng4. Cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% tổng số cổ phần phổ thông có quyền tự mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm liên đới đối với các thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc để yêu cầu hoàn trả lợi ích hoặc bồi thường thiệt hại cho công ty hoặc người khác (Điều 166). Điều luật này chưa quy định rõ “người khác” là ai và quyền khởi kiện của cổ đông, nhóm cổ đông này khác gì với quyền khởi kiện (như kiện để đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng) của chính những “người khác” đó, nhóm cổ đông này khởi kiện vì quyền lợi cho “người khác” chứ không phải của công ty mà chi phí khởi kiện lại được tính vào chi phí của công ty.
2. Một số vấn đề cần lưu ý từ nội dung quy định về quyền khởi kiện
2.1. Quy định về quyền khởi kiện người quản lý theo hướng nâng cao mức độ bảo vệ nhà đầu tư đồng thời đảm bảo cân bằng và dung hòa lợi ích của các nhóm cổ đông trong công ty
Quyền khởi kiện phái sinh. Kiện phái sinh là việc một người khởi kiện nhân danh một người khác vì cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người kia bị xâm hại, khác với vụ kiện trực tiếp (direct suit) là việc người khởi kiện muốn quyền, lợi ích của chính mình. Đây là biện pháp pháp lý nhằm bảo vệ cổ đông thiểu số, là một nội dung mới trong pháp luật Việt Nam khi LDN năm 2014 (được LDN năm 2020 kế thừa, phát triển) có hai điều khoản riêng về kiện phái sinh áp dụng cho công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên (Điều 72) và công ty cổ phần (Điều 161) đều quy định thành viên, cổ đông được lựa chọn giữa khởi kiện trực tiếp hoặc nhân danh công ty (được xem là kiện phái sinh) để truy cứu trách nhiệm người quản lý công ty. Điều này tương tự như ở Hoa Kỳ và các nước thuộc truyền thống thông luật (common law), thẩm phán sẽ là người xác định tính chất của một vụ kiện là trực tiếp hay phái sinh bằng cách đặt ra các câu hỏi như: Ai là người bị thiệt hại do sai phạm của người quản lý, ai là người được lợi từ việc hành vi sai phạm đó được khắc phục? Nếu công ty là:
(i) Bên bị thiệt hại và
(ii) Sẽ được hưởng lợi nếu nguyên đơn thắng kiện, đây sẽ là một vụ kiện phái sinh5.
LDN năm 2020 nâng cấp quy định về quản trị DN theo hướng tiến gần hơn thông lệ quốc tế, trong đó điểm mới quan trọng là nâng cao mức độ bảo vệ nhà đầu tư, bảo vệ cổ đông thiểu số, hướng tới mục tiêu đảm bảo cân bằng, dung hòa lợi ích của các nhóm cổ đông. Theo hướng này, LDN năm 2020 mở rộng mức độ, phạm vi quyền của cổ đông nhằm tạo điều kiện thuận lợi để cổ đông bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình và khởi kiện trong trường hợp người quản lý lạm dụng địa vị, quyền hạn gây thiệt hại cho công ty và cổ đông; mở rộng quyền tiếp cận thông tin của cổ đông về tình hình hoạt động của công ty; tạo thuận lợi hơn cho cổ đông thực hiện quyền khởi kiện người quản lý. Theo các chuyên gia, nếu thực thi tốt cơ chế này sẽ khuyến khích nhiều cổ đông nhỏ yên tâm góp vốn đầu tư cũng như hạn chế tình trạng lạm quyền của cổ đông lớn; thay đổi này sẽ tác động quan trọng tới sự phát triển DN, thu hút vốn đầu tư6.
2.2. Căn cứ pháp lý thực hiện quyền khởi kiện người quản lý doanh nghiệp của thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, cổ đông công ty cổ phần trong mối liên hệ với pháp luật tố tụng dân sự hiện hành
Điểm mới tiến bộ của LDN năm 2014 tiếp tục được kế thừa trong LDN năm 2020 là quyền khởi kiện của thành viên công ty TNHH, cổ đông công ty cổ phần gia tăng hơn theo thông lệ quốc tế, được trực tiếp hoặc nhân danh công ty khởi kiện (theo cơ chế kiện phái sinh). Tuy vậy, những cải cách của LDN mới chỉ cải thiện một phần khả năng bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông nhỏ lẻ (thiểu số), phần quan trọng còn lại phụ thuộc nhiều vào mức độ cải cách của hệ thống tư pháp về tố tụng dân sự, cơ quan tòa án trong giải quyết tranh chấp.
Pháp luật về tố tụng dân sự của Việt Nam hiện chưa có các quy định cụ thể về quyền khởi kiện của thành viên công ty TNHH và cổ đông công ty cổ phần theo Điều 72, Điều 161 LDN năm 2014 cũng như quy định tương ứng tại Điều 72 và Điều 166 LDN năm 2020. Theo Văn bản số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử của Hội đồng thẩm phán TANDTC ngày 29/7/2019, Khoản 4 Điều 30 của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 không quy định trường hợp tranh chấp giữa thành viên công ty khởi kiện Giám đốc công ty nên khi thành viên công ty TNHH hoặc cổ đông công ty cổ phần khởi kiện Giám đốc công ty TNHH hoặc Giám đốc công ty cổ phần vì cho rằng Giám đốc không thực hiện đúng nghĩa vụ, gây thiệt hại đến lợi ích của thành viên hoặc công ty TNHH; cổ đông hoặc công ty cổ phần, Toà án phải căn cứ quy định tại Khoản 5 Điều 30 của BLTTDS (các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại…)7 và quy định tương ứng của LDN (đối với công ty TNHH là Điều 71, Điều 72 LDN năm 2014 hoặc Điều 71, Điều 72 LDN năm 2020, Nghị quyết của Hội đồng thành viên và Điều lệ của công ty; đối với công ty cổ phần là Điều 160, Điều 161 LDN năm 2014 hoặc Điều 165, Điều 166 LDN năm 2020, Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông và Điều lệ công ty) để thụ lý, giải quyết vụ án, nếu việc nhân danh công ty của thành viên công ty TNHH hoặc cổ đông công ty cổ phần là hợp pháp.
2.3. Những bất cập, hạn chế của quy định pháp luật từ góc độ thực tiễn chính sách bảo vệ quyền lợi của cổ đông, thành viên công ty
Các quy định trực tiếp liên quan đến quyền khởi kiện người quản lý DN gồm: Quyền đề cử, bầu, bổ nhiệm người quản lý; quyền tiếp cận thông tin giao dịch công ty; chi phí và thời gian khởi kiện tại Tòa án8. Dù pháp luật về DN hiện nay đã có nhiều điểm mới tiến bộ theo hướng ngày càng bảo vệ tốt hơn quyền lợi của cổ đông, thành viên công ty nhưng thực tế cho thấy vẫn còn có những bất cập nhất định.
Thứ nhất, các vấn đề bất cập trong việc khởi kiện phái sinh ở Việt Nam.
– Giống như LDN năm 2014, LDN năm 2020 không có quy định cụ thể phân biệt giữa kiện trực tiếp và kiện phái sinh.
– Việc tham gia tố tụng, vai trò của doanh nghiệp (công ty) với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể gặp khó khăn trong trường hợp người quản lý không muốn công ty tham gia vào vụ kiện khi mà chính họ là người bị kiện. Hiện chưa có quy định cụ thể về vấn đề này.
– Chưa có quy định cụ thể yêu cầu khi thành viên khởi kiện người quản lý nhân danh công ty thì công ty phải chịu thiệt hại từ hành vi vi phạm của người quản lý, nói cách khác thiệt hại của công ty và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại không phải là một điều kiện cho quyền khởi kiện. Từ góc độ thực tế, thành viên khởi kiện vẫn cần chứng minh thiệt hại của công ty và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm của người quản lý và thiệt hại của công ty để yêu cầu đền bù thiệt hại. Thành viên hoặc cổ đông khởi kiện cũng không được yêu cầu phải thông báo trước cho công ty về việc mình khởi kiện và dành quyền ưu tiên cho công ty khởi kiện người quản lý. Do vậy, công ty sẽ không có cơ sở rõ ràng theo luật để chấm dứt hoặc làm ảnh hưởng đến việc khởi kiện của thành viên hoặc cổ đông (ví dụ: vụ kiện không phục vụ vì lợi ích công ty, công ty đã có xử lý người quản lý thông qua các biện pháp đền bù thiệt hại theo thỏa thuận giữa công ty và người quản lý). LDN hiện không có quy định về quyền của thành viên hoặc cổ đông trong việc thỏa thuận với người quản lý về việc đền bù thiệt hại (ví dụ, một thỏa thuận như vậy có cần sự chấp thuận của tòa án hoặc công ty hay không).
Thứ hai, hạn mức về tỷ lệ nắm giữ cổ phần trong điều kiện về quyền khởi kiện của cổ đông thiểu số.
Cổ đông thiểu số hay cổ đông nhỏ, là cổ đông, nhóm cổ đông góp vốn vào doanh nghiệp theo một tỷ lệ nhỏ, không có quyền biểu quyết hoặc giữ tỷ lệ cổ phần có quyền biểu quyết dưới 50%, do đó sẽ có những hạn chế về quyền và phạm vi hoạt động trong doanh nghiệp. Để bảo vệ cổ đông thiểu số cần phải sử dụng công cụ pháp luật trong đó quyền của cổ đông thiểu số giữ vai trò quan trọng, đây là điều kiện tiên quyết và là phương tiện để cổ đông thiểu số tự bảo vệ mình.
Pháp luật 04 nước Thái Lan, Singapore, Malaysia, Philipines đều cho phép mọi cổ đông nói chung và cổ đông thiểu số nói riêng, có quyền khởi kiện tại tòa án về việc công ty hoặc các thành viên Hội đồng quản trị hoặc những người khác có hành vi vi phạm về quyền hợp pháp của họ. Quyền này có phần khác nhau giữa các nước mà phần lớn được quy định rộng rãi theo luật công ty của Singapore và Malaysia, những nước này cũng trao quyền cho các tòa án những quyền lực cụ thể, linh hoạt để thi hành quyền của cổ đông và đền bù những sai lầm9. Ở Hoa Kỳ, Luật mẫu Công ty kinh doanh (Model Business Corporation Act) không đặt ra tỷ lệ sở hữu hoặc thời gian sở hữu vốn của người đi kiện nhưng đơn kiện sẽ bị bác nếu người đi kiện không phải là cổ đông trong thời gian xảy ra hành vi vi phạm. Điều này nhằm tránh việc ai đó lợi dụng hành vi sai phạm của người quản lý để trục lợi là chính và do vậy có thể ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của doanh nghiệp10.
Theo LDN của Việt Nam (Điều 166 LDN năm 2020) quyền khởi kiện nêu trên không dành cho cổ đông quá nhỏ mà chỉ cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 01% số cổ phần phổ thông mới có quyền khởi kiện và phải trả chi phí khởi kiện khi bị bác đơn kiện. Có ý kiến cho rằng, việc này chủ yếu nhằm gây sức ép tinh thần, mang ý nghĩa thể hiện thái độ, chính kiến, sự tín nhiệm nhiều hơn là có thể giải quyết vấn đề, vì LDN năm 2014, năm 2020 trao quyền quyết định mọi thứ quan trọng nhất, kể cả việc sửa điều lệ, giải thể công ty cho nhóm cổ đông sở hữu 51% thông qua việc lấy ý kiến bằng văn bản. Việc LDN năm 2020 vẫn giữ lại quy định của LDN năm 2014 về tỷ lệ sở hữu cổ phần trong điều kiện về quyền khởi kiện người quản lý là chưa phù hợp với thông lệ quản trị doanh nghiệp tiên tiến trên thế giới, chưa phù hợp với Điều 30 Hiến pháp năm 2013 cũng như các nguyên tắc cơ bản về quyền được yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp được quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, hạn chế quyền của cổ đông thiểu số trong các DN quy mô lớn.
Thứ ba, về trình tự, thủ tục khởi kiện theo pháp luật về tố tụng dân sự.
Điều bất cập với cổ đông thiểu số khi thực hiện khởi kiện không chỉ ở điều kiện về tỷ lệ số cổ phần biểu quyết mà còn do trình tự, thủ tục khởi kiện theo pháp luật về tố tụng dân sự, nổi bật là11:
– Quyền tiếp cận thông tin về công ty để thực hiện nghĩa vụ chứng minh chỉ dành cho cổ đông hoặc nhóm cổ đông từ 10% vốn điều lệ trở lên. Nghĩa vụ chứng minh của cổ đông khi khởi kiện người quản lý công ty không thuộc các trường hợp được miễn trừ theo Điều 91 BLTTDS mặc dù các tài liệu, chứng cứ được lưu trữ tại công ty và cổ đông nhỏ cũng không được tiếp cận.
– Chi phí tố tụng, theo LDN, khi khởi kiện nhân danh công ty sẽ tính vào chi phí của công ty (trừ trường hợp thành viên khởi kiện bị bác yêu cầu khởi kiện hoặc việc khởi kiện này không nhân danh công ty thì các cổ đông, nhóm cổ đông khởi kiện phải tự chịu chi phí khởi kiện). Quy định của LDN năm 2014 và năm 2020 không khác biệt với quy định của các nước theo thông luật (common law) về chi phí tố tụng trong kiện phái sinh. Tuy nhiên, thực tế người quản lý doanh nghiệp không dễ dàng chi trả các khoản chi phí mà người khởi kiện phải đóng tạm ứng án phí để được Tòa án thụ lý (Điều 195.1 BLTTDS) và các chi phí tố tụng khác như giám định, ủy thác tư pháp nếu có phát sinh hay chi phí cho người phiên dịch, cho luật sư (Điều 144.2 BLTTDS quy định do người có yêu cầu chịu trừ trường hợp các bên đương sự có thoả thuận khác), làm hạn chế động lực khởi kiện của cổ đông nhỏ. Theo khảo sát bước đầu trên trang http://congbobanan. toaan.gov.vn/ của Tòa án nhân dân tối cao, số lượng bản án về vụ án khởi kiện người quản lý doanh nghiệp còn rất ít ỏi.
Thực tế nêu trên dẫn đến những năm gần đây, mức độ bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư ở Việt Nam được Ngân hàng Thế giới (WB) xếp hạng ở mức thấp so với các quốc gia trong khu vực và thế giới12, như chỉ số năm 2015: Mức độ trách nhiệm của người quản lý (điểm 4/10), Cơ cấu sở hữu và kiểm soát (điểm 5/10), mức độ dễ dàng khi cổ đông khởi kiện người quản lý (02/10 điểm, do LDN vẫn quy định: Chi phí khởi kiện trong trường hợp cổ đông, nhóm cổ đông khởi kiện nhân danh công ty sẽ tính vào chi phí của công ty, trừ trường hợp thành viên khởi kiện bị bác yêu cầu khởi kiện, trong khi WB lại đánh giá cao quy định cổ đông được hỗ trợ chi phí khởi kiện trong mọi trường hợp (kể cả khi khởi kiện không thành công), nhóm cổ đông nắm giữ 10% cổ phần có quyền kiểm tra các chứng từ liên quan đến giao dịch trước khi khởi kiện và có thể yêu cầu bất cứ chứng từ nào từ bị đơn hoặc nhân chứng trong quá trình xét xử13.
Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP ngày 06/02/2017 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh năm 2017, định hướng đến năm 2020 xác định mục tiêu từng bước nâng cao thứ hạng Chỉ số bảo vệ cổ đông thiểu số theo đánh giá của World Bank (WB) từ thứ 87/189 (năm 2016) lên thứ 80 (năm 2017) và 60 (năm 2020). Tuy vậy, Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2019 vẫn đánh giá tiêu chí khởi kiện dễ dàng tại Việt Nam ở thang điểm thấp hơn so với mặt bằng chung của các quốc gia khác (một số quốc gia còn áp dụng trình tự, thủ tục riêng giải quyết việc khởi kiện giữa cổ đông, công ty và đại diện cho công ty là bên có nghĩa vụ phải chứng minh đã làm tròn trách nhiệm, trung thực, cẩn trọng và trung thành với lợi ích của công ty)14. Đây là vấn đề quan trọng đặt ra yêu cầu trong thực thi, hoàn thiện LDN năm 2020 để góp phần nâng cao thứ hạng doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế.
3. Một số vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu, thực hiện trong quá trình thực thi, hoàn thiện Luật doanh nghiệp năm 2020
3.1. Quy định về mức độ chịu trách nhiệm của người quản lý và quyền khởi kiện người quản lý doanh nghiệp
Quy định về trách nhiệm chịu chi phí tố tụng trong trường hợp thành viên công ty TNHH, cổ đông, nhóm cổ đông trong công ty cổ phần khởi kiện nhân danh công ty cần sửa đổi như sau: Chi phí khởi kiện trong trường hợp thành viên công ty TNHH, cổ đông, nhóm cổ đông trong công ty cổ phần khởi kiện nhân danh công ty sẽ tính vào chi phí của công ty.
Gia tăng quyền cho cổ đông thiểu số theo hướng:
(1) Tăng quyền tiếp cận thông tin cho cổ đông góp vốn nhỏ để họ vẫn có quyền tiếp cận thông tin tất cả các giao dịch của công ty hàng quý, từ đó tăng cường sự giám sát đối với người quản lý công ty;
(2) Hủy bỏ hoặc giảm tối đa quy định yêu cầu về tỷ lệ cổ phần sở hữu đối với cổ đông trong quyền khởi kiện, nhằm mục tiêu “cởi trói” thực sự cho cổ đông nhỏ, giúp họ có đủ khả năng bảo vệ được quyền lợi, tài sản trước hành vi vi phạm của người quản lý công ty.
3.2. Đảm bảo sự đồng bộ giữa quy định của Luật doanh nghiệp với pháp luật về tố tụng dân sự và giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án
Để cơ chế kiện phái sinh phát huy tốt hiệu quả trong bảo vệ cổ đông, cần sớm bổ sung các quy định về trình tự, thủ tục của cơ chế khởi kiện phái sinh (bao gồm quy định hợp lý về trách nhiệm chi phí tố tụng do LDN quy định), quy định về miễn nghĩa vụ chứng minh cho cổ đông khi khởi kiện vì các tài liệu chứng cứ được lưu trữ tại công ty và quy định về quyền khởi kiện tập thể được áp dụng cho trường hợp khởi kiện của cổ đông và nhóm cổ đông, đồng thời bổ sung quy định về áp dụng thủ tục điều tra doanh nghiệp theo yêu cầu của cổ đông/thành viên công ty nếu đủ căn cứ, hoặc vì lợi ích doanh nghiệp khi quy định trách nhiệm của cơ quan đăng ký kinh doanh trong việc tiến hành điều tra, buộc các thành viên điều hành doanh nghiệp giao nộp chứng cứ, tài liệu cho cổ đông/thành viên công ty nếu đủ căn cứ theo yêu cầu của cổ đông/thành viên công ty, hoặc vì lợi ích xã hội. Bên cạnh giải quyết tranh chấp bằng tòa án, cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án như hòa giải thương mại, hòa giải ngoài tòa án cần tích cực phát huy vai trò và hiệu quả đối với tranh chấp từ hoạt động của doanh nghiệp, trong đó sử dụng các chuyên gia không chỉ là luật sư, thẩm phán/trọng tài viên mà còn chú trọng các hiệp hội doanh nghiệp, các doanh nhân uy tín, giàu kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động quản trị doanh nghiệp.
Đối với mục tiêu tránh khả năng lợi dụng quyền khởi kiện để thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh và gây rối, phá hoại doanh nghiệp, giải pháp cần chú trọng là bổ sung quy định về chế tài xử lý các hành vi lợi dụng quyền khởi kiện cho các mục đích cá nhân không chính đáng./.
CHÚ THÍCH
- Tiến sỹ, Phó Giám đốc Trung tâm liên kết đào tạo luật sư thương mại quốc tế, Học viện Tư pháp.
- Nguyễn Duy Anh, Quyền khởi kiện của cổ đông hoặc công ty đối với người quản lý trong công ty cổ phần.
- Các điểm mới quan trọng của quyền cổ đông trong LDN năm 2020, https://www.viac.vn/goc-nhin-trong-tai- vien/cac-diem-moi-quan-trong-cua-quyen-co-dong-trong-luat-doanh-nghiep-2020-a1031.html, 04/02/2021.
- Trương Hữu Ngữ, Dương Minh Lệ Trang, Những băn khoăn về một số điểm của LDN năm 2020, https://lsvn.vn/nhung-ban-khoan-ve-mot-so-diem-cua-luat-doanh-nghiep-2020.html, 28/07/2020.
- Kiện phái sinh, https://vietnamlawgate.wordpress.com/2015/11/03/kien-phai-sinh, 03 Nov, 2015.
- Trung Hiếu, Luật doanh nghiệp năm 2020: Nâng cao mức độ bảo vệ nhà đầu tư, https://baodauthau.vn/luat- doanh-nghiep-2020-nang-cao-muc-do-bao-ve-nha-dau-tu-post92445.html, ngày 14/07/2020.
- Điều 30 BLTTDS năm 2015 quy định những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án như sau: “… 4. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. 5. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật”.
- Nguyễn Duy Anh, Quyền khởi kiện của cổ đông hoặc công ty đối với người quản lý trong công ty cổ phần.
- Huỳnh Thị Trúc Linh, Thực trạng về nhóm quyền khởi kiện bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam so sánh với Thái Lan, Malaysia, Singapore và Philipines, http://tapchicongthuong.vn/bai- viet/thuc-trang-ve-nhom-quyen-khoi-kien-bao-ve-co-dong-thieu-so-trong-cong-ty-co-phan-theo-phap-luat-viet- nam-so-sanh-voi-thai-lan-malaysia-singapore-va-philipines-55756.htm, 03/10/2018.
- Kiện phái sinh, https://vietnamlawgate.wordpress.com/2015/11/03/kien-phai-sinh/ 03 Tuesday November 2015.
- Nguyễn Duy Anh, Quyền khởi kiện của cổ đông hoặc công ty đối với người quản lý trong công ty cổ phần, https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2020/04/19/quyen-khoi-kien-cua-co-dng-hoac-cng-ty-doi-voi-nguoi-quan-l- trong-cng-ty-co-phan/, 19/04/2020.
- Hữu Đạo, Quyền khởi kiện của cổ đông: “Mở” nhưng vẫn “đóng”, https://tinnhanhchungkhoan.vn/quyen-khoi- kien-cua-co-dong-mo-nhung-van-dong-post116821.html, 06/07/2015.
- Lê Thị Xuân Huế, Bảo vệ cổ đông thiểu số ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, http://kinhtevadubao.vn/chi- tiet/91-8946-bao-ve-co-dong-thieu-so-o-viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap.html, 01/08/2017.
- Thanh Thủy, Trám “lỗ hổng thể chế” để bảo vệ cổ đông thiểu số, https://baodautu.vn/tram-lo-hong-the-che-de- bao-ve-co-dong-thieu-so-d117252.html, 06/03/2020.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Kiện phái sinh, https://vietnamlawgate. wordpress.com/2015/11/03/kien-phai-sinh, 03 Nov, 2015.
- Huỳnh Thị Trúc Linh, Thực trạng về nhóm quyền khởi kiện bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam so sánh với Thái Lan, Malaysia, Singapore và Philipines,http://tapchicongthuong.vn/bai- viet/thuc-trang-ve-nhom-quyen-khoi-kien-bao- ve-co-dong-thieu-so-trong-cong-ty-co-phan-theo- phap-luat-viet-nam-so-sanh-voi-thai-lan- malaysia-singapore-va-philipines-55756.htm, 03/10/2018.
- Hữu Đạo, Quyền khởi kiện của cổ đông: “Mở” nhưng vẫn “đóng”, https://tinnhanh chungkhoan.vn/quyen-khoi-kien-cua-co-dong- mo-nhung-van-dong-post116821.html, 06/07/2015.
- Lê Thị Xuân Huế, Bảo vệ cổ đông thiểu số ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, http://kinhtevadubao.vn/chi-tiet/91-8946-bao-ve- co-dong-thieu-so-o-viet-nam-thuc-trang-va-giai- phap.html, 01/08/2017.
- Trung Hiếu, LDN năm 2020: Nâng cao mức độ bảo vệ nhà đầu tư, https://baodauthau. vn/luat-doanh-nghiep-2020-nang-cao-muc-do- bao-ve-nha-dau-tu-post92445.html, 14/07/2020.
- Thanh Thủy, Trám “lỗ hổng thể chế” để bảo vệ cổ đông thiểu số, https://baodautu.vn/ tram-lo-hong-the-che-de-bao-ve-co-dong-thieu- so-d117252.html, 06/03/2020.
- Nguyễn Duy Anh, Quyền khởi kiện của cổ đông hoặc công ty đối với người quản lý trong công ty cổ phần, https://thongtinphapluat dansu.edu.vn/2020/04/19/quyen-khoi-kien-cua- co-dng-hoac-cng-ty-doi-voi-nguoi-quan-l-trong- cng-ty-co-phan/, 19/04/2020.
- Trương Hữu Ngữ, Dương Minh Lệ Trang, Những băn khoăn về một số điểm của LDN 2020, https://lsvn.vn/nhung-ban-khoan-ve-mot-so- diem-cua-luat-doanh-nghiep-2020.html, 28/07/2020.
- Các điểm mới quan trọng của quyền cổ đông trong LDN năm 2020, https://www.viac. vn/goc-nhin-trong-tai-vien/cac-diem-moi-quan- trong-cua-quyen-co-dong-trong-luat-doanh- nghiep-2020-a1031.html, 04/02/2021.
Trả lời