Mục lục
Phân tích các yếu tố đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật
- [SO SÁNH] Phân biệt trách nhiệm pháp lý với các trách nhiệm xã hội khác
- Trách nhiệm pháp lý là gì? Trách nhiệm pháp lý của chủ thể vi pham luật
- Trình bày các loại vi phạm pháp luật. Cho ví dụ?
- Cho ví dụ và phân tích mặt chủ quan của vi phạm pháp luật đó
- Cho ví dụ và phân tích mặt khách quan của vi phạm pháp luật đó
- Cho ví dụ và phân tích các dấu hiệu của vi phạm pháp luật đó
- Vi phạm pháp luật là gì? Các dấu hiệu của vi phạm pháp luật
- Về quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính với người vi phạm pháp luật
- Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính theo pháp luật hiện hành
- Áp dụng pháp luật tương tự là gì? Vì sao phải áp dụng pháp luật tương tự?
1 – Vi phạm pháp luật là gì?
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật và có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Ví dụ: Sinh viên A sử dụng tài liệu trong lúc làm bài tập cá nhân tuần mặc dù Đề cương môn học không cho phép.
2 – Các yếu tố đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật
Các yếu tố đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật là các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật. Cụ thể như sau:
a – Các yếu tố thuộc mặt khách quan của vi phạm pháp luật
– Hành vi trái pháp luật xảy ra trong thực tế là một trong những cơ sở để xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật.
Ví dụ: Hành vi sử dụng tài liệu làm bài thi khi không được phép của sinh viên sẽ ít nguy hiểm cho xã hội hơn là hành vi cầm dao chém người khác bị thương nặng. Do đó, hành vi trái pháp luật là một trong các yếu tố đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật, dựa vào hành vi trái pháp luật xảy ra trong thực tế có thể xác định được đó là vi phạm kỷ luật, vi phạm hành chính hay là phạm tội.
– Hậu quả nguy hiểm cho xã hội là một trong các yếu tố đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật, vì thiệt hại mà xã hội phải gánh chịu do vi phạm pháp luật gây ra càng lớn thì mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật càng cao.
Chẳng hạn, cùng là hành vi vi phạm Luật giao thông đường bộ nhưng nếu chưa gây ra tai nạn giao thông, chưa làm cho ai bị thương hoặc chết thì mức độ nguy hiểm cho xã hội sẽ thấp hơn là gây ra tai nạn giao thông, làm cho ai đó bị thương hoặc chết.
– Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội chính là căn cứ để xác định thiệt hại mà xã hội phải gánh chịu trong thực tế có phải do hành vi trái pháp luật gây ra hay không.
– Thời gian vi phạm có thể là yếu tố đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật, bởi lẽ, cùng một hành vi trái pháp luật nhưng nếu xảy ra vào ban ngày thì sẽ ít nguy hiểm hơn là xảy ra vào ban đêm, vì vào ban ngày thì khả năng ngăn chặn thiệt hại và khắc phục hậu quả sẽ dễ hơn vào ban đêm.
– Địa điểm vi phạm có thể là yếu tố đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật.
Ví dụ: Cùng một hành vi khủng bố nhưng nếu xảy ra ở địa điểm tụ tập đông nguời như rạp hát, sân vận động… thì mức độ nguy hiểm cho xã hội sẽ cao hơn khi xảy ra ở nơi ít người hoặc ở vùng hẻo lánh, ít người qua lại, bởi vì, hành vi đó được thực hiện ở nơi đông người sẽ có khả năng gây sát thương cho nhiều người hơn.
– Phương tiện vi phạm là một trong các yếu tố đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật, bởi cùng là hành vi vận chuyển hàng lậu song nếu phương tiện được sử dụng để chở hàng là xe đạp thì sẽ ít nguy hiểm hơn là bằng ô tô, vì số lượng hàng lậu được vận chuyển trong cùng một thời gian sẽ ít hơn.
b – Các yếu tố thuộc mặt chủ quan của vi phạm pháp luật
– Lỗi là một trong các yếu tố đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật, bởi vì, nếu cùng một hành vi trái pháp luật và hậu quả nguy hiểm cho xã hội, song khi chủ thể thực hiện với lỗi cố ý thì mức độ nguy hiểm cho xã hội sẽ cao hơn là với lỗi vô ý vì khi đó, chủ thể đã biết rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó gây ra cho xã hội mà lại mong muốn cho hậu quả đó xảy ra hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
– Động cơ vi phạm pháp luật là yếu tố đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật, vì nó là động lực thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật và khi chủ thể vi phạm có động cơ rõ ràng thì thường dễ theo đuổi đến cùng việc thực hiện hành vi trái pháp luật.
Mục đích vi phạm pháp luật có thể là yếu tố đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật, vì khi chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật có mục đích cụ thể, rõ ràng thì thường họ sẽ cố ý thực hiện hành vi, tức là có lỗi cố ý.
c – Chủ thể của vi phạm pháp luật
Chủ thể của vi phạm pháp luật là một trong những yếu tố đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật, vì với cùng một hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng nếu chủ thể là người đã thành niên thì mức độ nguy hiểm cho xã hội sẽ cao hơn so với chủ thể là người chưa thành niên. Bởi vì, nếu chủ thể là người đã thành niên, tức là đã có đủ khả năng nhận thức về hành vi và hậu quả của hành vi đó gây ra cho xã hội, đã có đủ khả năng cân nhắc, tính toán thiệt hơn mà vẫn cố tình lựa chọn và thực hiện hành vi trái pháp luật thì mức độ nguy hiểm cho xã hội sẽ cao hơn so với người chưa thành niên, là người còn bồng bột, “ăn chưa no, lo chưa tới”, chưa đủ khả năng cân nhắc, tính toán cẩn thận trước khi lựa chọn và thực hiện hành vi trái pháp luật.
d – Khách thể của vi phạm pháp luật
Khách thể của vi phạm pháp luật là một trong những yếu tố đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật, vì quan hệ xã hội bị xâm hại bởi vi phạm pháp luật càng quan trọng thì mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật càng cao. Trong số các loại quan hệ xã hội có thể bị xâm hại thì an ninh quốc gia là loại quan hệ xã hội quan trọng nhất, do vậy, xâm phạm an ninh quốc gia là loại vi phạm pháp luật có mức độ nguy hiểm cho xã hội cao nhất.
Trả lời