Mục lục
Mối quan hệ giữa Đảng ủy với Hội đồng trường và Hiệu trưởng trong các trường Đại học công lập Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Tuấn Hưng [1]
TÓM TẮT
Ngày 19 tháng 11 năm 2018 Quốc hội thông qua Luật số 34/2018/QH14 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục đại học (Luật số 34/2018/QH14) và có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2019, nhiều trường đại học công lập Việt Nam (TĐHCL) đã đẩy nhanh tiến trình thành lập Hội đồng trường (HĐT), cơ quan quyền lực tối cao của nhà trường trong thực thi thẩm quyền quản trị đại học. Đối với TĐHCL, xác định và vận hành hiệu quả thiết chế quyền lực này luôn gắn với một trong số vấn đề lý luận – pháp lý cơ bản, đó là mối quan hệ giữa Đảng ủy với HĐT và Hiệu trưởng. Bài viết dưới đây tập trung phân tích mối quan hệ này ở phương diện lý luận và thực tiễn thực hiện của TĐHCL Việt Nam.
1. Vai trò của Hội đồng trường, Hiệu trưởng và Đảng ủy trong tổ chức bộ máy của trường đại học công lập Việt Nam
Điểm a, Khoản 2, Điều 7 Luật số 34/2018/QH14 quy định: “Cơ sở giáo dục đại học công lập do Nhà nước đầu tư, bảo đảm điều kiện hoạt động và là đại diện chủ sở hữu”. Theo quy định của Luật số 34/2018/QH14, cơ cấu tổ chức của cơ sở giáo dục đại học công lập nói chung và TĐHCL nói riêng không thể thiếu hai thiết chế cơ bản là HĐT và Hiệu trưởng. HĐT là tổ chức quản trị, thực hiện quyền đại diện của chủ sở hữu và các bên có lợi ích liên quan còn Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm quản lý, điều hành các hoạt động của TĐHCL theo quy định của pháp luật; Quy chế tổ chức và hoạt động của nhà trường. Các quyết định do HĐT đưa ra không những hài hòa lợi ích các bên theo hướng đa mục tiêu mà còn phải chuẩn xác để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả, đồng thời phải có giá trị liên tục cải thiện môi trường, chất lượng hoạt động của tổ chức bộ máy nhà trường. Một nguyên lý rất cơ bản trong quản lý nhà nước (QLNN) về giáo dục đại học (GDĐH) là Nhà nước không thể trao quyền tự chủ trong quản trị, quản lý TĐHCL cho cá nhân Hiệu trưởng mà phải giao cho một tập thể lãnh đạo là HĐT. Tập thể này phải thực sự là tổ chức quyền lực cao nhất trong TĐHCL. Do đó, từ phương diện tổ chức của TĐHCL, việc quản trị và quản lý hoạt động giáo dục đào tạo của bất cứ nhà trường nào cần có hai thiết chế song song tồn tại là HĐT (để chỉ đạo, định hướng chiến lược, tầm nhìn của nhà trường) và Hiệu trưởng (để quản lý, điều hành việc thực hiện định hướng, chiến lược, mục tiêu, kế hoạch và tầm nhìn phát triển nhà trường đã xác định). Để đạt được điều này, HĐT cần bao gồm những người được bầu chọn, đại diện cho các nhóm lợi ích khác nhau ở trong và ngoài TĐHCL, có liên quan đến hoạt động giáo dục đào tạo của nhà trường. HĐT được hình thành, duy trì và phát triển dựa trên quan hệ bình đẳng về vị trí, quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm; có cơ chế ra quyết định tập thể bằng nghị quyết để quyết định những vấn đề quan trọng trong TĐHCL. Chức năng, nhiệm vụ, vị trí, vai trò, mối quan hệ và các vấn đề khác liên quan đến vận hành HĐT theo quy định của pháp luật về giáo dục đại học; Quy chế tổ chức và hoạt động của TĐHCL. HĐT là cầu nối giữa chủ sở hữu cộng đồng với nhà trường để đồng hành cùng Hiệu trưởng Người giữ vai trò cầu nối giữa HĐT và mọi thành viên trong nhà trường.
Thiết chế Hiệu trưởng được thiết kế theo cấu trúc tập quyền, đan xen giữa các quan hệ thứ bậc hành chính và quan hệ quản lý chuyên môn học thuật, tổ chức, nhân sự, tài chính, tài sản, với đặc trưng là sự hiện hữu của quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình trước HĐT và chủ thể quản lý trực tiếp TĐHCL. Để đạt được yêu cầu có sự tương tác, phối hợp hiệu quả với sự chỉ đạo của tổ chức quản trị cao nhất TĐHCL thì Hiệu trưởng cùng với bộ máy quản lý của mình phải đảm bảo thực hiện tốt chức năng tham mưu và tổ chức triển khai thực hiện các nghị quyết của HĐT. Một HĐT thực quyền quản trị đại học song hành với Hiệu trưởng thực quyền quản lý, vận hành tổ chức bộ máy nhà trường được xác định là những yếu tố tạo ra sự đột phá trong đổi mới phương thức quản trị đại học của TĐHCL Việt Nam hiện nay.
Do đặc thù về tổ chức và hoạt động của TĐHCL Việt Nam, mọi hoạt động quản trị, quản lý nhà trường gắn chặt với vai trò lãnh đạo của Đảng. Trong TĐHCL, Đảng ủy là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. đồng thời lãnh đạo thực hiện có chất lượng, hiệu quả các chủ trương, kế hoạch, nhiệm vụ công tác của trường. Vai trò của Đảng ủy là lãnh đạo toàn diện về chính trị, tư tưởng dựa trên quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng trong nhà trường thông qua nghị quyết của Đảng ủy, được chuyển hóa vào các nghị quyết của HĐT mà không làm giảm hiệu lực, hiệu quả sự chỉ đạo của HĐT.
2. Mối quan hệ giữa Đảng ủy với Hội đồng trường và Hiệu trưởng trong các trường đại học công lập Việt Nam
Mối quan hệ giữa Đảng ủy với HĐT và Hiệu trưởng là một trong số vấn đề lý luận pháp lý căn bản đặt ra cho mỗi TĐHCL hoạt động theo cơ chế tự chủ về tổ chức bộ máy. Mối quan hệ này được thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc: (i) Bảo đảm tăng cường sự thống nhất trong tổ chức và hoạt động giữa các thiết chế và tổ chức cơ sở đảng, nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả mọi mặt hoạt động của nhà trường; (ii) Tuân thủ nghiêm các quy định pháp luật của Nhà nước và quy định của Đảng Cộng sản Việt Nam; (iii) Sử dụng hiệu quả cơ chế trao đổi, phối hợp để giải quyết các công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ của nhà trường cũng như các công việc phát sinh trong mọi hoạt động giáo dục đào tạo ở nhà trường.
Trong Luật giáo dục đại học hiện hành2, HĐT là thiết chế chỉ đạo về chiến lược và quản trị đại học thông qua nghị quyết tập thể, với yêu cầu không tạo ra hệ quả gây áp lực tác động trực tiếp đến bộ máy quản lý, điều hành của Hiệu trưởng. HĐT chịu trách nhiệm trước cơ quan QLNN trực tiếp TĐHCL và trước các bên liên quan về những quyết định của HĐT nói riêng, của TĐHCL nói chung. Sự chỉ đạo của HĐT với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất trong TĐHCL đối với các thiết chế bên trong cũng như các mối quan hệ của nhà trường với bên ngoài. HĐT đưa ra những quyết định quan trọng đối với sự phát triển của nhà trường trên tư cách pháp lý của chủ thể quản trị hoạt động giáo dục đào tạo trong nhà trường. Nhiệm vụ trọng tâm của HĐT là xây dựng chính sách, kế hoạch tổng thể, sử dụng chính sách làm công cụ để quản trị nhà trường theo chủ trương của Đảng ủy. Các chính sách mà HĐT xây dựng bao gồm hai loại là các mục tiêu cuối cùng cần đạt được và các giới hạn không được phép vượt qua khi vận hành.
Bên cạnh HĐT, Hiệu trưởng của TĐHCL là người chịu trách nhiệm quản lý, điều hành các hoạt động của cơ sở giáo dục đại học theo quy định của pháp luật; quy chế tổ chức và hoạt động của nhà trường. Hiệu trưởng TĐHCL do HĐT quyết định và được cơ quan quản lý có thẩm quyền công nhận3. Quy định này trong Luật giáo dục đại học hiện hành được hiểu theo hai góc độ: Một mặt, Hiệu trưởng là một bộ phận không thể tách rời trong cơ cấu và hoạt động của HĐT (Hiệu trưởng là thành viên đương nhiên của HĐT); Nhưng mặt khác, Hiệu trưởng lại là thiết chế vừa thực hiện chức năng quản lý đại học độc lập tương đối với HĐT, vừa chịu sự chỉ đạo, giám sát về chất lượng và hiệu quả hoạt động của HĐT. Khác với HĐT, Hiệu trưởng có trách nhiệm tổ chức thực hiện các quyết định của HĐT theo quy định pháp luật và thể chế quản trị nội bộ. Hiệu trưởng chịu trách nhiệm trước tập thể HĐT về hoạt động quản lý, điều hành nhà trường của mình và chịu trách nhiệm trước cơ quan quản lý trực tiếp TĐHCL. Ranh giới thẩm quyền chỉ đạo, quản trị của HĐT và thẩm quyền quản lý, điều hành của Hiệu trưởng chính là giới hạn phạm vi chức năng, nhiệm vụ của hai thiết chế này.
Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi thiết chế dựa trên cơ sở quan hệ cộng sự, phối hợp, bình đẳng, nhưng phải tuân thủ cơ chế giám sát và đánh giá phù hợp do chính TĐHCL tự xây dựng chứ không theo quan hệ hành chính mệnh lệnh trên dưới. Sự độc lập của hai cơ chế HĐT và Hiệu trưởng được bảo đảm bởi quy định của Luật GDĐH hiện hành và quy chế tổ chức, hoạt động của mỗi TĐHCL. Do đặc tính này nên vị trí Chủ tịch HĐT và Hiệu trưởng không thể do cùng một nhân sự đảm nhiệm. Việc một cá nhân kiêm nhiệm đồng thời vị trí Chủ tịch HĐT và Hiệu trưởng tất yếu dẫn đến trạng thái “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, trái với bản chất cơ chế HĐT là để thực hiện vai trò chống lạm quyền, chống sự thiếu dân chủ, thiếu minh bạch trong hoạt động của TĐHCL khi đã được Nhà nước chuyển giao, phân cấp, ủy quyền quản lý cơ sở giáo dục đại học công lập. HĐT phải luôn là cơ chế có đủ năng lực để thay mặt Nhà nước, thay mặt cộng đồng sở hữu của các bên liên quan thực hiện quyền lựa chọn, đánh giá, giám sát hiệu quả hoạt động của Hiệu trưởng và bộ máy quản lý của nhà trường.
Ở Việt Nam, cơ chế hoạt động của HĐT và Hiệu trưởng gắn chặt với vai trò và sự lãnh đạo của Đảng ủy trong TĐHCL. Đảng ủy lãnh đạo toàn diện về chính trị, tư tưởng bên trong tổ chức TĐHCL theo chức năng, nhiệm vụ và quy định của Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng ủy lãnh đạo HĐT cũng như hệ thống quản lý của Hiệu trưởng thông qua Nghị quyết của Đảng ủy. Đảng ủy (đứng đầu là Bí thư Đảng ủy) chính là đại diện sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng tại TĐHCL, giữ vai trò trung tâm trong việc lãnh đạo về tư tưởng và chiến lược đối với hoạt động quản trị của HĐT cũng như hoạt động quản lý điều hành của Hiệu trưởng. Vị trí Bí thư Đảng ủy là cơ cấu nhân sự đương nhiên, đại diện cho tổ chức Đảng tại HĐT, có trách nhiệm thông báo chủ trương, nghị quyết của Đảng ủy đối với HĐT và bảo đảm để nghị quyết của Đảng ủy được thực thi một cách đầy đủ trước hết bởi HĐT. Từ nhận thức nêu trên về vị trí của từng thành tố trong tổ chức bộ máy của TĐHCL mà việc phân định sự chỉ đạo của HĐT và tổ chức Đảng trong TĐHCL được thực hiện theo hướng, Đảng ủy tạo ra sự hỗ trợ cho những quyết định đúng đắn và góp phần ngăn chặn quyết định không phù hợp của HĐT, từ đó tạo sự đồng thuận cao trong nhà trường.
3. Thực hiện mối quan hệ giữa Đảng ủy với Hội đồng trường và Hiệu trưởng tại một số trường đại học công lập hiện nay
Việc vận hành quan hệ giữa Đảng ủy với HĐT và Hiệu trưởng trong thực tiễn của các TĐHCL hiện nay có liên quan đến vấn đề nhân sự của cả ba vị trí: Chủ tịch HĐT, Hiệu trưởng và Bí thư đảng ủy. Hiện các TĐHCL đang có các sự lựa chọn khá khác nhau. Có trường lựa chọn phương án Bí thư Đảng ủy đồng thời là Chủ tịch HĐT (như trường hợp của Trường Đại học Luật Hà Nội). Có trường xác định ba vị trí Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐT và Hiệu trưởng do ba nhân sự độc lập đảm nhiệm. Cũng có trường đi theo phương án Hiệu trưởng đồng thời là Bí thư Đảng ủy (như trường hợp của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội).
Có thể nhận thấy, mỗi phương án thiết kế đều có những điểm tích cực và điểm hạn chế. Chẳng hạn, ở phương án Chủ tịch HĐT đồng thời là Bí thư đảng ủy, việc tập trung quyền lãnh đạo toàn diện về chính trị, tư tưởng và quyền chỉ đạo của cơ quan quyền lực cao nhất TĐHCL vào cùng một vị trí nhân sự sẽ tạo được sự thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động của nhà trường, góp phần giảm thiểu sự phối hợp không hiệu quả giữa cơ cấu quản trị và tổ chức Đảng. Nhưng mặt trái của cơ cấu này là tiềm ẩn nguy cơ lạm quyền khi đồng thời cả hai bộ phận quyền lực tối cao của tổ chức Đảng và tổ chức quản trị nhà trường tập trung vào cùng một vị trí nhân sự. Tương tự, đối với phương án cơ cấu nhân sự độc lập tại ba vị trí thì điểm mạnh là phát huy tối đa trí tuệ, năng lực, giá trị cống hiến của từng nhân sự cấp cao trong nhà trường, nhưng điểm hạn chế là nguy cơ về sự phối hợp thiếu hiệu quả của ba vị trí trong quá trình lãnh đạo, quản trị, quản lý nhà trường.
Trong bối cảnh Luật số 34 trao quyền tự chủ cho TĐHCL trong xác định phương án bố trí nhân sự tại từng thiết chế trong tổ chức bộ máy nhà trường như hiện nay thì việc đa dạng trong cách tiếp cận về các vị trí lãnh đạo, quản trị và quản lý là một thực tế khách quan. Nhưng, điều quan trọng nằm ở chỗ, dù thiết kế hệ thống quản trị, quản lý nhà trường theo phương án nào thì yêu cầu cơ bản là các thiết kế bên trong hệ thống tổ chức TĐHCL phải thể hiện được “năng lực tạo ra và duy trì một cơ chế “đối trọng” để định hướng, quản trị và kiểm soát tốt nhất chất lượng, hiệu quả mọi hoạt động giáo dục đào tạo của nhà trường, đặt trong mối quan hệ với những thiết chế điều hành khác, nhằm đáp ứng yêu cầu của tự chủ đại học”4. Sự đối trọng này phải tuyệt đối không tạo thành sự đối lập, không thống nhất trong nhận thức và hành động giữa HĐT với phần còn lại của cả hệ thống tổ chức TĐHCL. Giá trị thực tế của sự đối trọng là để tạo ra vị thế cân bằng giữa quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của TĐHCL, đảm bảo dân chủ và minh bạch hóa mọi hoạt động của trường mà cộng đồng xã hội và pháp luật đòi hỏi. Đó cũng nhằm hài hòa hóa lợi ích các bên trong môi trường GDĐH, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của TĐHCL tại thị trường đào tạo đại học trong nước, khu vực và quốc tế. Nó cũng góp phần kiến tạo và duy trì năng lực cạnh tranh về thương hiệu TĐHCL với các cơ sở đào tạo đại học khác. Do đó, một HĐT tiềm ẩn hoặc dẫn đến sự đối kháng với các thiết chế khác của TĐHCL đều phải được nhận diện là sự biến dạng về cơ chế hoạt động và phải kiên quyết loại bỏ ngay từ những bước đi đầu tiên.
Một vấn đề khác đang đặt ra trong thực tiễn thực hiện mối quan hệ giữa Đảng ủy với HĐT và Hiệu trưởng, đó là xác định ai là người đứng đầu TĐHCL? Theo quan điểm của Bộ Nội vụ, trong điều kiện Luật số 34/2018/QH14 không quy định về vấn đề này thì căn cứ quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, người đứng đầu cơ sở giáo dục đại học công lập trong đó có TĐHCL được xác định là Hiệu trưởng5.
Trong bối cảnh nhiều TĐHCL đang xây dựng các quy định liên quan đến mối quan hệ giữa Đảng ủy với HĐT và Hiệu trưởng trong thể chế nội bộ của mình thì việc xác định Hiệu trưởng là người đứng đầu TĐHCL cần được cân nhắc từ nhiều phương diện để không làm giảm bớt thực quyền lãnh đạo và hiệu quả thực thi trách nhiệm giải trình của HĐT về những quyết định được đưa ra từ HĐT đối với hoạt động quản lý của Hiệu trưởng. Đặc biệt, khi xác định Hiệu trưởng là người đứng đầu TĐHCL thì trách nhiệm của Hiệu trưởng về hiệu quả triển khai thực hiện quyết định của HĐT là trách nhiệm cá nhân nhưng trách nhiệm của Hiệu trưởng trong vai trò thành viên HĐT lại là trách nhiệm tập thể. Vậy cơ chế thực thi thẩm quyền và trách nhiệm của Hiệu trưởng từ hai cương vị tại thiết chế HĐT và thiết chế Hiệu trưởng phải rõ ràng, phù hợp thì mới mang lại hiệu quả cho hoạt động của Hiệu trưởng tại những thiết chế này.
Khi quy định Hiệu trưởng là người đứng đầu TĐHCL thì trong nhiều trường hợp tất yếu liên quan đến vấn đề xác định trách nhiệm cá nhân đối với vị trí nhân sự này. Chẳng hạn, nếu phát sinh trường hợp HĐT ra một quyết định gây ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của người học thì khi đó, trách nhiệm của Hiệu trưởng sẽ được hiểu như thế nào? Trong trường hợp Hiệu trưởng đã có ý kiến bảo lưu đối với quyết định không phù hợp của HĐT trên tư cách thành viên HĐT nhưng ở vị trí Hiệu trưởng, trách nhiệm phải chấp hành quyết định đó Hiệu trưởng có được đặt ra không? Câu trả lời là có, vì khi quyết định đã được thông qua bởi HĐT theo đúng quy định của thể chế quản trị nội bộ thì trách nhiệm thực hiện quyết định của HĐT đối với Hiệu trưởng là bắt buộc. Ngược trở lại, việc xác định trách nhiệm của HĐT về quyết định không phù hợp này trước hết là trách nhiệm tập thể của HĐT.
4. Kết luận chung
Mối quan hệ giữa Đảng ủy với HĐT và Hiệu trưởng trong TĐHCL được ví như “kiềng ba chân”, với sự quy định rõ tại thể chế quản trị, quản lý nội bộ của TĐHCL trong cơ chế tự chủ đại học. Song song với đó, khi triển khai vào thực tế thì phần quan trọng tùy thuộc khá nhiều vào nhận thức của tập thể lãnh đạo từng trường. Nhận thức không đồng bộ với thể chế quản trị nội bộ sẽ không làm được. Bên cạnh đó, phải có sự tin tưởng, mạnh dạn phân cấp theo luật từ chủ thể quản lý trực tiếp cho nhà trường thì mới có điều kiện để hiện thực hóa mối quan hệ này. Ngoài ra, sự đồng thuận, đoàn kết, thống nhất giữa các thiết chế lãnh đạo, quản trị, quản lý của nhà trường cũng là điều kiện để mối quan hệ này diễn ra thuận lợi, từ đó tạo thành lực đẩy tích cực cho các mặt hoạt động của trường, vì nếu các bộ phận trong nội bộ không đoàn kết sẽ không làm được, nhất là không đúng vị trí, vai trò của từng thiết chế tất sẽ dẫn đến sai sót. Đơn cử, vai trò HĐT trong TĐHCL không phải là quyết định tuyển sinh đối với một lớp hay một khóa học cụ thể. Đây là công việc thuộc bộ máy quản lý của Hiệu trưởng. HĐT chỉ quyết về chiến lược, định hướng lớn trong thực hiện tự chủ về tuyển sinh đã được Chính phủ giao cho từng trường. Nói cách khác, khi TĐHCL được phân cấp, trao quyền thì nhà trường không vượt quá giới hạn thẩm quyền, lạm dụng những hạn chế, vướng mắc trong thể chế để có được lợi ích không chính đáng. Trái lại, những người có trách nhiệm trong từng thiết chế quản trị, quản lý và trong Đảng ủy nhà trường phải luôn ý thức thật rõ rằng, mọi hoạt động giáo dục đào tạo mà nhà trường thực hiện phải trên cơ sở chính sách, quy định pháp luật của Nhà nước để đảm bảo không chệch hướng khỏi định hướng phát triển chung của nền giáo dục đại học Việt Nam hiện đại./.
CHÚ THÍCH
- Thạc sỹ, Trường Đại học Y Hà Nội.
- Điều 16 Luật số 34/2018/QH14, ngày 19 tháng 11 năm 2018 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục đại học.
- Điều 20 Luật số 34/2018/QH14, ngày 19 tháng 11 năm 2018 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục đại học.
- Neave Guy (2012), The evaluative state, institutional autonomy and reengineering higher education in Western Europe The Prince and his pleasure, Palgrave Macmillan, United Kingdom.
- Công văn số 110/BNVCCVC ngày 08/01/2021 của Bộ Nội vụ gửi Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc xác định người đứng đầu cơ sở giáo dục đại học công lập.
Trả lời