Mục lục
Cơ sở pháp lý về quyền tự chủ đại học tại Việt Nam và một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
Tác giả: Phan Thị Lan Hương [1] & Nguyễn Thị Thanh Tú [2]
TÓM TẮT
Hiện nay, tự chủ đại học được xem là xu thế phát triển được rất nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng và tại Việt Nam thời gian gần đây, một số cơ sở đào tạo cũng đã áp dụng thí điểm cơ chế tự chủ đại học và đây được coi là một trong những giải pháp quan trọng trong cải cách ngành giáo dục tại Việt Nam. Tuy nhiên trong quá trình áp dụng cơ chế này đã và đang cho thấy những cơ hội và thách thức nhất định. Bài viết đánh giá khung pháp lý nhằm thực hiện tự chủ đại học tại Việt Nam, qua việc chỉ rõ các bấp cập phát sinh trong thực tế triển khai tự chủ đại học được đánh giá trên 3 nhóm nội dụng: tự chủ học thuật và chuyên môn, tự chủ về tổ chức và nhân sự, tự chủ về tài chính. Trên cơ sở đặc thù thực hiện tự chủ đại học tại Việt Nam, giải pháp trên 3 nội dung tự chủ được đưa ra, đặc biệt nhấn mạnh tự chủ học thuật, quyền chủ động quyết định về biên chế và quyền tự chủ tài chính đặt trong sự hỗ trợ tài chính của Nhà nước và cơ chế hợp lí linh hoạt, để khai thác hiệu quả và tối đa năng lực của các cơ sở đào tạo.
1. Thực trạng chính sách pháp luật thực hiện tự chủ đại học tại Việt Nam
Theo Hiệp hội các trường đại học Châu Âu- UAE (University Autonomy in Europe) tự chủ đại học gồm bốn nội dung chính: Tự chủ về tổ chức; tự chủ về tài chính; tự chủ về nhân sự; tự chủ về học thuật3.
Hiện nay, chính sách và pháp luật tại Việt Nam đã tạo cơ sở pháp lý tương đối đầy đủ, rõ ràng trong triển khai tự chủ đại học tại Việt Nam. Vấn đề tự chủ của các cơ sở giáo dục – đào tạo nói chung, đặc biệt cơ sở giáo dục đại học, đã được đề cập trong các văn bản chính thức của Đảng và Nhà nước từ khá sớm. Nghị Quyết số 14/2005 của Chính phủ năm 2005 về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học Việt Nam có đề cập đến việc đảm bảo quyền tự chủ, tăng cường trách nhiệm xã hội và tính minh bạch của cơ sở đào tạo đại học, phát huy tính chủ động,… Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) cũng xác định “tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo” là một trong những nhiệm vụ cải cách giáo dục, đào tạo. Tiếp đó Chính phủ ban hành Nghị quyết số 77/NQ-CP về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014 – 2017, Nghị quyết là văn bản pháp quy đầu tiên hướng dẫn thực hiện tự chủ cho các trường Đại học hình thức tự chủ có điều kiện.
Luật giáo dục đại học năm 2012 sửa đổi bổ sung năm 2018 (Luật GDĐH) cũng đã quy định cụ thể về tự chủ đại học. Các nội dung quyền tự chủ, các nội dung tự chủ học thuật, tự chủ trong tổ chức và nhân sự, tự chủ trong tài chính và tài sản của trường đại học được quy định cụ thể (Điều 4, Điều 32).
Cùng với các quy định tại Luật GDĐH, nội dung quyền tự chủ đại học cũng được đặt ra trong các quy định về quyền tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập. Hiện nay nội dung này được điều chỉnh tại Nghị định số 16/2015/NĐ-CP thay thế Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Theo quy định hiện hành, “Quyền tự chủ là quyền của cơ sở giáo dục đại học được tự xác định mục tiêu và lựa chọn cách thức thực hiện mục tiêu; tự quyết định và có trách nhiệm giải trình về hoạt động chuyên môn, học thuật, tổ chức, nhân sự, tài chính, tài sản và hoạt động khác trên cơ sở quy định của pháp luật và năng lực của cơ sở giáo dục đại học”4… Quyền tự chủ gắn với trách nhiệm nhiệm giải trình của cơ sở đào tạo đại học. Có thể thấy, tự chủ đại học, đặt trong bối cảnh thành lập, thực trạng tổ chức và hoạt động tại Việt Nam hiện nay, sẽ được hiểu là quyền tự quyết định các vấn đề trong phạm vi chức năng và phụ thuộc vào năng lực của chính cơ sở đào tạo đó. Nói cách khác bảo đảm quyền tự chủ đó là hạn chế bớt sự can thiệp của cơ quan chủ quản, trao quyền cho đơn vị sự nghiệp nói chung – cơ sở đào tạo đại học nói riêng quyền chủ động, sáng tạo trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, giảm bớt nguồn kinh phí hỗ trợ từ ngân sách nhà nước.
Tại Việt Nam những năm gần đây, mục tiêu tự chủ đại học đã được thể hiện ngày càng cụ thể trong chính sách, định hướng phát triển ngành giáo dục5 và các quy định pháp luật, đặc biệt trong bối cảnh đại học công lập vẫn giữ vị thế chủ yếu trong cơ cấu trường đại học tại Việt Nam (trên 70% tức 172 trường công lập trên tổng số 237 trường đại học trong năm học 2018-2019)6.
Thực tiễn triển khai quyền tự chủ đại học tại Việt Nam thời gian qua cho thấy ngành giáo dục đã đạt được nhiều thành quả đáng ghi nhận. Một số trường thí điểm thực hiện tự chủ phản ánh chất lượng đào tạo đã được nâng cao, gắn với thực tiễn, phát triển nghiên cứu khoa học ở một số cơ sở giáo dục đại học hàng đầu. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số vấn đề trong từng nhóm hoạt động tự chủ cần xem xét đánh giá và tìm hướng giải quyết trong thời gian tới.
(i) Thực hiện quyền tự chủ về học thuật, hoạt động chuyên môn và nhiệm vụ khác.
Một là, hiện nay trong tổ chức hoạt động giáo dục đào tạo không có sự phân hóa giữa hai loại hình: đào tạo theo nhu cầu thị trường và đào tạo để thực hiện cung cấp dịch vụ công (giáo dục, y tế, an ninh). Do sự phân bổ thiếu tính đặc thù nên chính sách áp dụng với tất cả các cơ sở đào tạo dựa trên cơ chế tự chủ về tài chính sẽ không đảm bảo được sự phát triển với những cơ sở đào tạo ngành nghề không theo nhu cầu thị trường, ví dụ như các trường đại học sư phạm khó khăn trong tuyển sinh vì tỷ lệ sinh viên ứng tuyển thấp, hơn nữa nếu không được đầu tư về tài chính thì cơ sở để nâng cao chất lượng đào tạo cũng sẽ bị hạn chế.
Hai là, một số quy định còn thiếu linh hoạt gây khó khăn nhất định cho trường trong mở mã ngành, đặc biệt ngành liên quan đến ứng dụng. Điều lệ trường đại học năm 2014 quy định về tự chủ học thuật ở Điều 5 là “tự chủ trong tuyển sinh, phát triển chương trình đào tạo, lựa chọn và biên soạn giáo trình, quản lý và cấp văn bằng, triển khai các hoạt động khoa học công nghệ, đảm bảo chất lượng và lựa chọn tổ chức kiểm định chất lượng”. Tuy nhiên trong các quy định cụ thể triển khai hoạt động này chưa thật sự thể hiện được tinh thần này. Thông tư số 07/2015/TT-BGDĐT quy định về các yêu cầu của chương trình đào tạo các cấp học và quy trình phát triển chương trình đào tạo (tối thiểu 120 tín chỉ trình độ cử nhân, thạc sỹ là 30 – 60 tín chỉ, tiến sĩ là 90 – 120 tín chỉ). Tiếp đó, điều kiện mở ngành đào tạo, số lượng sinh viên được quy định theo số giảng viên cơ hữu. Điều kiện này hiện nay ở mức cao, nhiều ý kiến cho rằng chỉ thích hợp với loại trường đại học theo hướng học thuật chứ không phải theo hướng ứng dụng7.
(ii) Thực hiện quyền tự chủ về bộ máy và nhân sự.
Nhìn chung, các cơ sở giáo dục đại học đã có quyền chủ động trong việc quyết định chỉ tiêu biên chế tuyển dụng đội ngũ cán bộ, giảng viên theo quy định chung của pháp luật (Luật viên chức) và theo định hướng xây dựng đề án vị trí việc làm. Vấn đề còn tồn tại phát sinh qua nghiên cứu thể hiện ở hai điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, việc trả lương theo vị trí việc làm tạo ra thách thức nhất định cho các cơ sở giáo dục đại học chưa tự chủ về chi thường xuyên và đầu tư. Theo quy định tại Nghị định số 99/2019/NĐ-CP, Điều 12, Khoản 2 về quyền tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự, cơ sở giáo dục đại học công lập thực hiện quyền tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự nhưng “không được làm tăng số lượng người làm việc hưởng lương, mức lương (bao gồm cả lương và phụ cấp) từ quỹ lương do ngân sách nhà nước cấp”. Việc quy định không được làm tăng số lượng người làm việc hưởng lương, mức lương từ quỹ lương do ngân sách nhà nước cấp rõ ràng không bảo đảm quyền tự chủ của cơ sở đại học công lập. Nếu như yêu cầu mở rộng mã ngành đào tạo, liên kết đào tạo nhưng chưa tự chủ về tài chính thì cơ sở đại học công lập không có quyền tăng biên chế. Điều đáng nói là, số lượng giảng viên cơ hữu sẽ là căn cứ để xác định chỉ tiêu tuyển sinh. Theo Thông tư số 07/2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định: “Giảng viên cơ hữu của cơ sở giáo dục công lập là viên chức được tuyển dụng, sử dụng và quản lý theo quy định của pháp luật về viên chức hoặc người lao động của các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng quy định tại Khoản 2 Điều 32 của Luật giáo dục đại học, được tuyển dụng, sử dụng và quản lý theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 13 của Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục đại học”. Như vậy, nếu cơ sở giáo dục đại học công lập muốn tăng chỉ tiêu tuyển sinh thì phải tăng số lượng giảng viên cơ hữu, tuy nhiên nếu chưa tự chủ về tài chính thì các cơ sở giáo dục đại học công lập lại không có quyền tăng số lượng giảng viên. Quy định này lại cho thấy sự chồng chéo trong cách tiếp cận của các cơ chế, chính sách bảo đảm tự chủ ở nước ta.
Thứ hai, cấu trúc của tự chủ đại học đặt trọng tâm vào hội đồng trường ở trường công và một phần với hội đồng quản trị với trường tư, coi đây là “khâu đột phá” trong tự chủ đại học, tuy nhiên thực tế cho thấy hội đồng trường đến nay vẫn chưa thực sự hiệu quả, nhiều trường còn nặng về hình thức. Tinh thần Luật giáo dục đại học và văn bản hướng dẫn quy định về vai trò, nhiệm vụ của Hội đồng trường tương đối toàn diện ở 10 vấn đề bao trùm hoạt động cơ bản của nhà nước. Hội đồng trường tổ chức quản trị, thực hiện quyền đại diện của chủ sở hữu và các bên có lợi ích liên quan, chịu trách nhiệm toàn diện về hoạt động của trường. Tuy nhiên, qua quá trình triển khai, Hội đồng trường chưa phải là tổ chức có tiếng nói quyết định trong các đại học công. Vướng mắc không chỉ ở việc các tổ chức nội bộ trong trường đại học (bao gồm ban giám hiệu, hội đồng khoa học, Đảng ủy, hội đồng trường) có chức năng và nhiệm vụ chồng chéo trong các vai trò lãnh đạo, điều hành, vận hành, quản lý, giám sát…
(iii) Thực hiện quyền tự chủ về tài chính.
Nguồn thu các trường đại học tại Việt Nam chủ yếu từ học phí, ngân sách nhà nước (đối với trường công lập) và các nguồn khác như từ hoạt động dịch vụ, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ nhưng không đáng kể.
Về nguồn thu từ học phí, mặc dù đã có nhiều thay đổi song các quy định hiện hành chưa thực sự tạo cơ chế tự do cho các trường công lập trong quyết định học phí. Hiện nay, tại các trường đại học công lập, nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp, bao gồm nguồn thu từ sinh viên và các nguồn thu khác chiếm khoảng 60% – 70% tổng nguồn thu. Bình quân các trường đại học công lập tự đảm bảo cân đối chi thường xuyên được khoảng 75% từ nguồn thu sự nghiệp8. Trên thực tế, mặc dù việc cải cách, đổi mới chính sách học phí, lộ trình tăng học phí của các trường đại học trong thời gian qua đã được thực hiện theo Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 15/5/2010 của Chính phủ cho giai đoạn 2010 – 2015 và Nghị định số 86/2015/NĐ-CP từ năm học 2015 – 2016 đến năm học 2020 – 2021, tuy nhiên, việc thực hiện cải cách này vẫn còn tồn tại nhiều vấn như phân loại nhóm ngành, mức học phí vẫn còn thấp, chưa phù hợp với chi phí đào tạo thực tế của các nhóm ngành và các loại hình đào tạo bậc đại học. Ví dụ Nghị định số 86/2015/NĐ-CP về mức trần học phí của cơ sở giáo dục từ năm học 2015 – 2016 đến năm học 2020 – 2021 so sánh 02 loại mức học phí này có sự khác biệt tương đối lớn, có thể chênh nhau đến 2,09 lần (so sánh mức học phí khối khoa học xã hội, kinh tế, luật, nông, lâm, thủy sản năm học 2020 – 2021 giữa đơn vị tự chủ về chi thường xuyên và chi đầu tư (2.050.000 đồng/tháng/sinh viên) với đơn vị chưa tự chủ về chi thường xuyên và chi đầu tư (980.000 đồng/tháng/sinh viên). Cách quy định này dẫn đến sự khác biệt lớn trong mức học phí giữa các cơ sở đào tạo đại học có cùng chuyên ngành, ví dụ giữa Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân là đơn vị tự chủ toàn bộ với Trường Đại học Luật Hà Nội (chưa tự chủ toàn bộ). Có thể thấy cách áp đặt mức trần khung học phí dựa trên tiêu chí tự chủ về tài chính (chi thường xuyên và chi đầu tư) mà không tính theo chất lượng đào tạo sẽ là rào cản đầu tiên làm hạn chế việc thực hiện quyền tự chủ. Quy định mức trần học phí sẽ “trói” các cơ sở giáo dục đại học chưa tự chủ hoàn toàn về tài chính và đây cũng chính là rào cản để các cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự chủ về nhiệm vụ, xây dựng chương trình đào tạo, tổ chức bộ máy và nhân sự. Ngoài ra, việc chưa tự chủ về chỉ tiêu tuyển sinh, ngành nghề đào tạo do phụ thuộc vào điều kiện về tự chủ tài chính cũng đã làm hạn chế nguồn thu của cơ sở giáo dục đại học. Kết quả là các cơ sở giáo dục đại học vẫn đang loay hoay với giải pháp tăng nguồn thu để đảm bảo mục tiêu tự chủ về chi thường xuyên và chi đầu tư.
Ngoài ra, chính sách miễn giảm học phí đối với các đối tượng cũng ảnh hưởng đến nguồn thu của cơ sở đào tạo đại học. Chưa có quy định rõ về kinh phí mà cơ sở giáo dục đại học nhận được nếu áp dụng chính sách miễn giảm học phí theo quy đinh. Thông thường một số quốc gia sẽ tiến hành chính sách hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng để đảm bảo không ảnh hưởng đến nguồn thu của cơ sở giáo dục, ví dụ ở Nhật bản chương trình học bổng sẽ bao gồm sinh hoạt phí và học phí, học phí sẽ trả trực tiếp cho nhà trường.
Hiện nay, trung bình trong một năm học tại các trường đại học công, mỗi sinh viên chỉ phải nộp khoảng 4,5 triệu đồng học phí9. Mức thu này có linh hoạt cho các lớp chất lượng cao nhưng điều này vẫn chưa mang tính chất phổ biến. Việc trả lương cho giảng viên vẫn chủ yếu theo hệ số, cấp bậc, phụ thuộc vào thang bảng lương theo quy định của Nhà nước, dẫn đến các trường đại học gặp khó khăn nhất định trong thu hút giảng viên, chuyên gia tham gia đào tạo chất lượng cao. Ví dụ, trong đào tạo chuyên ngành luật, do đặc thù ngành yêu cầu kĩ năng, kinh nghiệm của người hành nghề như các luật sư, chuyên gia, cán bộ tại các cơ quan như toà án, viện kiểm soát,… là rất lớn. Kinh nghiệm, kĩ năng tích luỹ không chỉ có ý nghĩa về truyền tải kiến thứcmà còn làm cảm hứng, tình yêu nghề. Tuy nhiên, định mức chi trả cho mời giảng viên, chuyên gia tuân theo quy chế, phần nào gây khó khăn cho hoạt động đào tạo. Sự tham gia của các luật sư, chuyên gia chủ yếu dựa trên quan hệ cá nhân và mang tính chất khuyến khích, hỗ trợ, hợp tác đối với nhà trường, bộ môn đào tạo và như vậy thiếu tính hệ thống và bền vững.
Về nguồn thu từ Ngân sách Nhà nước (NSNN), nguồn thu từ NSNN chiếm từ 30-40% tổng thu của các trường đại học hàng năm. Điểm đáng lưu ý là việc phân bổ ngân sách vẫn chưa thực sự gắn với kết quả đầu ra, chất lượng của hoạt động. Hoạt động phân bổ NSNN cho các trường đại học công lập thông qua cơ quan chủ quản khác nhau của các trường đại học công lập (các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh), dẫn đến có sự không thống nhất về tiêu chí phân bổ, chưa thực sự công bằng trong việc thụ hưởng NSNN. Điều này dẫn đến giảm động lực cạnh tranh giữa các trường, ít nhiều ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng ngân sách. Trong sử dụng tài sản công, mặc dù có Luật quản lý, sử dụng tài sản công, Nghị định số 15/2015/NĐ-CP, song nhìn chung vẫn chưa có cơ chế thực sự rõ ràng và linh hoạt hướng dẫn quá trình liên kết giữa các đơn vụ sự nghiệp về giáo dục với đối tác, trong sử dụng tài sản. Do đó, đến hiện nay, việc khai thác tài sản công mới chỉ dừng ở mức các trường học cho thuê tài sản công dưới hình thức là tận dụng cơ sở vật chất như cho thuê tận dụng phòng học, phòng thí nghiệm, hội trường, sân bãi tập thể thao, máy bán hàng tự động, trông giữ xe, cung cấp dịch vụ căng tin… Về cơ bản là chưa thực sự tiến hành sử dụng tài sản công vào mục đích kinh doanh dịch vụ, cho thuê, liên doanh, liên kết một cách sâu sắc và chưa hiệu quả.
2. Một số khuyến nghị về giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện tự chủ đại học tại Việt Nam
Thứ nhất, trong thực hiện quyền tự chủ về học thuật, hoạt động chuyên môn và nhiệm vụ khác.
Một là, trong các quy định về tự chủ của trường đại học cần đề cập đến tự do học thuật. Các trường đại học cần nghiên cứu, xây dựng các cơ chế cho phép và khuyến khích tự do học thuật như là một khía cạnh của tự chủ đại học để phát huy tốt nội lực của đội ngũ giảng viên.
Hai là, cần nghiên cứu việc trao quyền tự chủ cho các trường trong việc xây dựng các kế hoạch hoạt động theo yêu cầu phát triển của xã hội: đào tạo đại học gắn liền với nhu cầu của thị trường, các trường đại học cần chủ động xây dựng kế hoạch phát triển cho các giai đoạn trung hạn và dài hạn, đảm bảo chuẩn đầu ra đáp ứng các yêu cầu của nhà tuyển dụng trong và ngoài nước. Các chương trình đào tạo cần được cải tiến cho phù hợp với các chương trình đào tạo tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, dần xóa bỏ khoảng cách trong các chương trình đào tạo (chương trình đào tạo hội nhập).
Ba là, cần xây dựng cơ chế kiểm tra và đánh giá chất lượng đào tạo của các trường đại học: tự chủ tạo điều kiện cho các trường đại học chủ động trong học thuật, đào tạo và nghiên cứu. Tuy nhiên, Nhà nước vẫn cần giữ vai trò quản lý chất lượng đào tạo của các trường. Bên cạnh việc quy định các trường đại học tự kiểm soát và tự đánh giá thì việc thành lập một cơ quan kiểm tra, đánh giá chất lượng dựa trên bộ tiêu chí cụ thể là hết sức cần thiết. Các tiêu chí đánh giá phải được xây dựng theo chuẩn của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trong nước, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển trong khu vực, đảm bảo yêu cầu hội nhập và toàn cầu hóa. Nhà nước cần phải thay đổi phương thức quản lý các trường đại học bằng cách tập trung vào đánh giá kết quả hoạt động và không can thiệp quá sâu vào các công việc nội bộ của trường. Nâng cao quyền chủ động của mỗi trường, đồng thời quy định rõ trách nhiệm, bảo đảm xử lý nghiêm minh các vi phạm
Thứ hai, kiến nghị trong thực hiện quyền tự chủ về tổ chức và nhân sự.
Một là, các trường đại học cần thực hiện thành lập Hội đồng trường và xác định rõ phạm vi quyền – trách nhiệm với bộ phận lãnh đạo khác của Nhà nước. Xây dựng quy chế làm việc và hoạt động cân nhắc theo bộ máy của một tập đoàn, công ty có Chủ tịch và Hội đồng quản trị, bên cạnh đó có hệ thống các Hội đồng quản lý, Hội đồng giáo dục và nghiên cứu, bộ phận giúp việc, có sự phân công rõ trách nhiệm, quyền hạn. Chủ tịch tập đoàn là người có quyền đưa ra các quyết định và chịu trách nhiệm về các quyết định đó. Cơ chế này đảm bảo việc tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu, giảm các quyết định mang tính chất tập thể (giảm số lượng các cuộc họp quyết định các vấn đề theo đa số).
Quy định về Hội đồng trường cũng cần làm rõ, đặc biệt cần nghiên cứu kỹ lưỡng và xác định rõ ràng về cấu trúc quản trị. Bất kể là cấu trúc “đơn viện” (Hội đồng trường là cấp cao duy nhất) hay “lưỡng viện” (Hội đồng trường song song giữ vai trò lãnh đạo cùng với một tổ chức khác như Đảng ủy) cũng cần được làm rõ để xác định đầy đủ sự tham gia và vai trò của các tổ chức nội bộ trong hệ thống quản trị nhà trường.
Hai là, cơ chế tự chủ cần đảm bảo cho các trường đại học có quyền chủ động quyết định về biên chế (số lượng người lao động): có chính sách thu hút nhân tài (không chỉ theo hình thức tuyển dụng viên chức như hiện nay), có cơ chế trả lương theo vị trí việc làm và không áp dụng hệ thống thang bảng lương theo thâm niên. Chủ động trong việc tuyển dụng và sử dụng nhân sự là điều kiện để các trường thu hút được những người đang làm việc ở các công ty tư nhân, ở nước ngoài trở thành các giảng viên, chuyên gia trong các trường đại học. Để làm được điều này, cần thiết phải thực hiện được một trong ba điểm yếu mà giáo sư Hoàng Tuy cho rằng đã dẫn đến sự lạc lối trong giáo dục địa học tại Việt Nam, đó là hệ thống thù lao không hợp lý mà hiện đang là một trở ngại nguy hiểm chết người ở những khoa nghiên cứu.
Thứ ba, kiến nghị trong thực hiện quyền tự chủ về tài chính.
Giáo dục có ý nghĩa hết sức quan trọng trong định hướng phát triển bất kì quốc gia nào, do đó, chi cho giáo dục luôn là khoản chi được ưu tiên và có xu hướng tăng lên trong cơ cấu ngân sách. Nghiên cứu cho thấy, tự chủ tài chính song vẫn cần thiết có sự hỗ trợ tài chính của Nhà nước. Vấn đề mấu chốt trong tự chủ tài chính là tạo ra cơ chế hợp lí, linh hoạt để khai thác được năng lực của các cơ sở đào tạo. Nhận thức được cơ cấu, vị trí và đặc thù các khoản thu của các cơ sở đào tạo đại học, chúng tôi cho rằng trong quy định về vấn đề tự chủ tài chính của cơ sở đào tại đại học cần xem xét một số vấn đề sau:
Trước hết, các trường đại học cần được tự quyết định và chủ động về khai thác, tìm kiếm các nguồn tài chính; cách thức sử dụng các nguồn tài chính và tài sản hiện có, đầu tư cho tài sản tương lai; cân đối các nguồn tài chính thu, chi nhằm đảm bảo hệ thống tài chính minh bạch, tuân thủ pháp luật và không vụ lợi. Các trường có quyền tự chủ trong quyết định các nguồn thu và mức chi theo quy chế chi tiêu nội bộ của trường.
Về khoản thu liên quan học phí, trường đại học cần có cơ chế khai thác tối đa khả năng huy động nguồn học phí trong khuôn khổ cho phép như xây dựng các chương trình chất lượng cao, liên kết. Để làm được điều này, cần thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao, tăng cường các quan hệ hợp tác quốc tế với các cơ sở đào tạo các nước có nền giáo dục tiên tiến. Hoạt động này không chỉ nâng cao vị thế, tạo điều kiện để các cơ sở đào tạo đại học phát triển quy mô, chất lượng, vị thế, đồng thời còn tạo điều kiện, môi trường nâng cao chất lượng giáo viên, chương trình đào tạo. Việc quyết định dạy và học bằng tiếng nước ngoài cũng được ghi nhận trong Luật giáo dục đại học, theo đó “cơ sở giáo dục đại học quyết định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong nhà trường” (Điều 10).
Về khoản thu từ NSNN, xem xét áp dụng kết hợp nhiều phương thức phân bổ ngân sách nhằm tạo tính cạnh tranh và góp phần khuyến khích nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu và giảng dạy tại các trường. Tại Việt Nam hiện nay, xu hướng tự chủ ở các trường đại học lớn ở Việt Nam là phấn đấu tự chủ 100% về nguồn tài chính. Tuy nhiên, nếu áp dụng tự chủ 100% có thể dẫn đến tình trạng một số trường không thu hút được sinh viên, không thể có đủ nguồn thu; hoặc phải tăng mức học phí tối đa để đảm bảo nguồn thu. Hai khả năng này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến người học cũng như không đảm bảo cho một số ngành đào tạo đặc thù. Do đó, cơ chế tự chủ không đồng nghĩa với việc xóa bỏ hoàn toàn phần ngân sách nhà nước cấp, mà việc cấp ngân sách sẽ được thực hiện trên cơ sở kế hoạch hoạt động của mỗi trường cũng như mục tiêu mà cơ quan quản lý đã đề ra để đảm bảo việc phân bổ và sử dụng ngân sách hiệu quả.
Về quản lý tài sản nhà nước, cần khuyến khích các đơn vị sự nghiệp giáo dục đào tạo công lập nói chung và đào tạo đại học nói riêng tập trung khai thác có hiệu quả, đồng thời quản lý chặt chẽ tài sản công. Một số giải pháp cụ thể cần xem xét như sau: cần phân cấp cụ thể hơn nữa vấn đề quản lý tài sản công, tạo điều kiện cho các bộ, ngành, địa phương có thẩm quyền quyết định phương án xử lý tài sản công ở đơn vị, địa phương mình; cần có hướng dẫn chi tiết về tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản chuyên dùng thuộc lĩnh vực giáo dục và đào tạo để các đơn vị chủ quản có sơ sở xây dựng, ban hành tiêu chuẩn, định mức cho cơ sở đào tạo xây dựng ban hành tiêu chuẩn./.
CHÚ THÍCH
- Tiến sỹ, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Tiến sỹ, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- https://www.university-autonomy.eu/, truy cập ngày 22/9/2020.
- Điều 4 Luật số 34/2018/QH14 sửa đổi bổ sung một số điều Luật giáo dục đại học, ngày 19/11/2018.
- Điều 4 Luật số 34/2018/QH14 sửa đổi bổ sung một số điều Luật giáo dục đại học, ngày 19/11/2018.
- Số liệu thống kê giáo dục đại học năm học 2018-2019, Bộ Giáo dục và Đại học, https://moet.gov.vn/thong- ke/Pages/thong-ko-giao-duc-dai-hoc.aspx?ItemID=6636, truy cập ngày 23/9/2020. (Số liệu không bao gồm các trường Đại học, học viện thuộc khối An ninh, Quốc phòng).
- Thông tư số 22/2017/TT-BGD ĐT ngày 06/9/2017 ban hành quy định điều kiện, trình tự thủ tục mở ngành đào tạo và đình chỉ tuyển sinh, thu hồi quyết định mở ngành đào tạo trình độ Đại học, quy định ngành đào tạo phải có ít nhất 01 tiến sĩ chịu trách nhiệm chủ trì, ít nhất 10 giảng viên cơ hữu có trình độ thạc sĩ trở lên cùng ngành hoặc gần ngành đăng kí,… (Điều 2).
- Hoàng Thị Cẩm Thương (2017), Giải pháp tăng cường tự chủ Đại học ở Việt Nam, Tạp chí tài chính, kì 1, số tháng 3/2017.
- Đọc thêm Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 quy định mức trần học phí của cơ sở giáo dục từ năm học 2015 – 2016 đến năm học 2020 – 2021.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nguyễn Xuân Xanh (2018), Đại học – Định chế giáo dục cao thay đổi thế giới từ Trung cổ đến Hiện đại, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
- John Fielden, Global trends in university governance, World Bank, 2008, http://documents1. worldbank.org/curated/en/588801468140667685/pdf/442440NWP0BOX311.pdf, truy cập ngày 22/9/2020.
- Kemal Gurus (2011). “University Autonomy and Academic Freedom: A Historial Perspective”, trong “International Higher Education”, No 63, Spring 2011.
- Hoàng Thị Cẩm Thương (2017), Giải pháp tăng cường tự chủ Đại học ở Việt Nam, Tạp chí tài chính, kì 1, số thàng 3/2017.
- Phạm Xuân Trường (2019), Tài chính cho các trường đại học công lập khi thực hiện cơ chế tự chủ, Tạp chí tài chính kì 1 tháng 11/2019, http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/tai-chinh- cho-cac-truong-dai-hoc-cong-lap-khi-thuc-hien-co- che-tu-chu-318052.html, truy cập ngày 24/9/2020.
- Phan Thị Lan Hương (2019), Trao quyền tự chủ đại học tại Nhật Bản và kinh nghiệm đối với Việt Nam, Tạp chí Tổ chức nhà nước, https://tcnn.vn/news/detail/45861/Trao-quyen-tu- chu-dai-hoc-cua-Nhat-Ban-va-kinh-nghiem-doi- voi-Viet-Nam.html, truy cập ngày 25/9/2020.
Trả lời