Mục lục
Pháp luật Việt Nam về người đồng tính – Một số vấn đề đặt ra
Tác giả: Nguyễn Thị Yến [1]
TÓM TẮT
Trong những năm gần đây, xu hướng công khai giới tính ngày càng được quan tâm và công khai rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, vì vậy các vấn đề có liên quan tới người đồng tính, song tính, chuyển giới luôn được cộng đồng xã hội quan tâm. Trên thế giới có nhiều quốc gia đã công nhận hôn nhân đồng tính, song song với đó là ban hành nhiều đạo luật nhằm mục đích đảm bảo quyền lợi và sự công bằng cho những người đồng tính. Để làm rõ một số vấn đề pháp luật có liên quan trực tiếp với nhóm cộng đồng người đồng tính (LGBT), dưới góc độ tiếp cận của tác giả trong bài viết này chỉ giới hạn đề cập đến các văn bản pháp luật ở trong nước và nước ngoài có liên quan tới nhóm cộng đồng LGBT. Qua đó, trên quan điểm của tác giả sẽ đánh giá và phân tích các vấn đề pháp luật có liên quan tới nhóm cộng đồng LGBT.
1. Một số khái niệm liên quan tới người đồng tính
LGBT là cụm từ tiếng Anh viết tắt của đồng tính nữ (Lesbian); đồng tính nam (Gay); song tính (Bisexual); Chuyển giới (Transgender)2. Cộng đồng LGBT được hiểu là cộng đồng của những người mà có xu hướng tính dục hay bản dạng giới khác với những người có xu hướng tính dục và bản dạng giới bình thường. Mặc dù, LGBT là cụm từ viết tắt của Lesbian, Gay, Bisexual, Transgender nhưng hiện nay thì cụm từ này đã có sự mở rộng hơn với nhiều xu hướng tình dục hơn.
LGBTQIA, trong đó: Q viết tắt của Queer tức là những cá nhân có xu hướng tình dục không thuộc các phân loại khác; I viết tắt của Intersexvtức là để chỉ những người liên giới tính, không hẳn xác định là nam hay nữ; A tức là Asexual chỉ những người vô tính không có xu hướng tình dục với bất kỳ giới tính nào3.
Một số khái niệm khác liên quan tới người đồng tính như4:
Xu hướng tính dục: Là khả năng của mỗi người để có những cảm xúc, sự hấp dẫn sâu sắc và cuốn hút tình dục, mối quan hệ gần gũi với các cá nhân thuộc giới tính khác (dị tính) hay cùng giới tính (đồng tính) hoặc nhiều hơn một giới (song tính, toàn tính) (Uỷ ban Luật gia Quốc tế ICJ, 2007) (Những người nhận mình là vô tính là người không trải qua bất kỳ sự hấp dẫn về tình dục nào).
Liên giới tính: Là khái niệm để chỉ những người được sinh ra với các đặc điểm giới tính (như nhiễm sắc thể, nội tiết, cơ quan sinh dục) được coi là vừa của nam và của nữ, một phần của nam hay một phần của nữ, hay không phải của nam lẫn nữ).
Bản dạng giới: Là cảm nhận bên trong của một người về việc họ là nam, nữ, một giới khác hay kết hợp các giới. Bản dạng giới của một người có thể thống nhất hoặc không thống nhất với giới tính khi sinh ra của họ. Thể hiện giới là cách mà một người truyền tải những đặc tính được quy định bởi văn hoá về nam tính, nữ tính (hoặc cả hai, hoặc không cái nào) ra bên ngoài thông qua ngoại hình cơ thể (bao gồm quần áo, phụ kiện, kiểu tóc, trang sức, mỹ phẩm), cử chỉ điệu bộ, nói năng và các khuôn mẫu hành vi trong giao tiếp với người khác.
Phiền muộn giới: Là những sự không thoải mái hay lo âu gây ra bởi sự khác nhau giữa giới tính tự nhận của một người hay giới tính khi sinh ra của họ (hoặc với vai trò giới gắn với họ và/hoặc các đặc điểm giới tính chủ yếu và thứ yếu). Một vài người không theo định chuẩn giới cũng trải qua phiền muộn giới trong một số giai đoạn cuộc đời của họ.
2. Khái quát nội dung về pháp luật có liên quan tới người đồng tính
Vào ngày 17/05/1990, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chính thức quyết định đưa đồng tính ra khỏi danh sách các rối loạn tâm thần, thừa nhận đồng tính không phải là bệnh và không thể, không được phép thực hiện các biện pháp chữa trị5. Ngày 17/05 đã chính thức được lựa chọn là ngày quốc tế chống kỳ thị đồng tính, song tính, chuyển giới/ International Day Against LGBT- phobia (IDAHOT).
Tính tới thời điểm hiện tại thì có gần 30 quốc gia trên thế giới đã công nhận hôn nhân đồng tính6: Hà Lan (2001); Bỉ (2003); Canada (2005); Tây Ban Nha (2005); Nam Phi (2006); Argentina (2010); Iceland (2010); Bồ Đào Nha (2010); Đan Mạch (2012); Pháp (2013); Anh (2013); Brazil (2013); Uruguay (2013); New Zealand (2013); Luxembourg (2014); Scotland (2014); Ireland (2015); Phần Lan(2015); Slovenia (2015); Mỹ (2015); Úc (2019); Đài Loan (2019)… Như vậy, nhiều quốc gia trên thế giới đã hợp pháp hoá hôn nhân đồng tính và ban hành nhiều đạo luật có liên quan tới người đồng tính, chẳng hạn như:
Hà Lan được biết đến là quốc gia đầu tiên trên thế giới công nhận hôn nhân đồng tính vào năm 2001, Luật về hôn nhân đồng tính tại nước này có hiệu lực vào ngày 01/04/2001, sau khi Luật có hiệu lực thì số lượng các cuộc hôn nhân đồng tính ở Hà Lan chiếm tỷ lệ cao. Theo Cục Thống kê Hà Lan đưa ra ước tính về số lượng các cuộc hôn nhân đồng tính được thực hiện mỗi năm: 2.500 năm 2001, 1.800 năm 2002, 1.200 năm 2004 và 1.100 năm 2005. Theo Hiến pháp Hà Lan quy định: “Tất cả mọi người Hà Lan sẽ được đối xử bình đẳng. Việc phân biệt đối xử dựa trên các yếu tố tôn giáo, tín ngưỡng, quan điểm chính trị, chủng tộc, giới tính hay bất kỳ yếu tố nào khác sẽ không được phép” (Điều 1 Hiến Pháp Hà Lan ngày 17/01/1983 (sửa đổi bổ sung năm 1989)7.
Đài Loan đã trở thành quốc gia đầu tiên ở châu Á hợp pháp hoá hôn nhân đồng tính8. Đài Loan thông qua Luật hôn nhân đồng tính cho thấy một bước tiến quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích và quyền lợi của cộng đồng người đồng tính, đặc biệt khẳng định sự mở đường tiên phong trong phong trào bảo vệ nhân quyền ở khu vực Châu Á. Bởi với các quốc gia ở khu vực Châu Á, đặc biệt là các nước Đông Á như Trung Quốc; Nhật Bản; Hàn Quốc, Việt Nam… ảnh hưởng nhiều bởi Nho giáo. Vì vậy, các vấn đề có liên quan tới cộng đồng người đồng tính ở các nước này cần phải có thời gian và quá trình vận động phong trào bảo vệ quyền lợi cho nhóm này.
Thụy Điển là quốc gia có sự tiến bộ nhất trên thế giới về việc ghi nhận, thực hiện và bảo đảm quyền của nhóm người đồng tính. Đây cũng là nước đầu tiên trên thế giới cho phép thực hiện phẫu thuật chuyển đổi giới tính và đăng ký lại các giấy tờ của bản thân. Đạo luật của Thụy Điển còn cho phép chuyển đổi giới tính mà không cần phẫu thuật, liệu pháp thay thế hormone. Quốc hội Pháp đã thông qua đạo Luật cấm phân biệt đối xử với người đồng tính trong công việc, vấn đề nhà ở, cung cấp các hàng hoá, dịch vụ công và tư vào năm 1985. Ngày 30/12/2004, Luật về chống phân biệt đối xử và bình đẳng được ban hành, trong đó bổ sung thêm một số hành vi vi phạm pháp luật quy định ở Luật ngày 29/7/1881 (các Điều 20, 21 tại Mục 3) như các hành vi: hành vi gây tổn thương, lăng mạ, xúc phạm, xúi giục việc thù ghét hay bạo động hoặc kỳ thị một người, nhóm người vì giới tính, xu hướng tình dục hoặc bệnh tật của họ9.
Nhiều nước trên thế giới đã công nhận và bảo vệ đầy đủ quyền của nhóm người đồng tính, tuy nhiên cũng có một số quốc gia đã có sự bảo vệ quyền cho nhóm này nhưng chưa hoàn toàn hoặc cũng có những quốc gia đang còn nhiều hạn chế về các vấn đề liên quan tới người đồng tính chẳng hạn như quyền kết hôn, quyền chuyển đổi giới tính, quyền nhận con nuôi…
Đối với Việt Nam là một quốc gia có đặc trưng là nền văn hoá Á Đông chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo, do vậy những người đồng tính công khai giới tính vẫn còn e dè và gặp nhiều rào cản từ phía gia đình, xã hội. Tuy nhiên, trong một vài năm gần đây thì tư tưởng của xã hội đã có nhiều cởi mở và có cái nhìn thoáng hơn về người đồng tính, với sự nỗ lực không ngừng của nhóm cộng đồng người đồng tính thì hệ thống pháp luật ở nước ta cũng có nhiều thay đổi quan trọng. Nếu như trước đây pháp luật nước ta chưa quy định hay công nhận việc chuyển giới
bằng phẫu thuật mà chỉ quy định về xác định lại giới tính đối với những trường hợp khi sinh ra có sự xác định nhầm giới tính tự nhiên của cá nhân thì theo Điều 36 Bộ luật dân sự năm 2005 chỉ cho phép trường hợp một người chỉ được quyền yêu cầu xác định lại giới tính của mình khi họ có khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc giới tính chưa định hình chính xác.
Theo Nghị định 88/2008/NĐ-CP về xác định lại giới tính ngày 05/08/2008 quy định việc xác định lại giới tính đối với người có khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc giới tính chưa được định hình chính xác. Đặc biệt văn bản này cũng xác định các hành vi bị nghiêm cấm, cụ thể trong nội dung Điều 4. Hành vi bị nghiêm cấm khi thực hiện các nội dung sau đây: “1. Thực hiện việc chuyển đổi giới tính đối với những người đã hoàn thiện về giới tính; 2. Thực hiện việc xác định lại giới tính khi chưa được phép của Bộ Y tế hoặc Sở Y tế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo quy định tại Điều 8 Nghị định này; 3. Tiết lộ thông tin về việc xác định lại giới tính của người khác; 4. Phân biệt đối xử đối với người đã xác định lại giới tính”.
Tuy nhiên cho đến khi Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thì đã thừa nhận quyền xác định lại giới tính và chuyển đổi giới tính. Đây được xem là nội dung quan trọng đối với nhóm cộng đồng người đồng tính và quy định cụ thể tại Điều 36 Bộ luật dân sự năm 2015 về quyền xác định lại giới tính10. Ngoài ra trong Bộ luật dân sự năm 2015 cũng xác định rõ về nội dung chuyển đổi giới tính, nội dung cụ thể được quy định tại Điều 37. Chuyển đổi giới tính, theo đó “Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan”.
Mặc dù, với những điểm mới trong Bộ luật dân sự năm 2015 về chuyển đổi giới tính xong trong quy định nêu trên mới chỉ mang tính chất nguyên tắc bởi việc chuyển đổi giới tính chỉ được thực hiện theo quy định của luật, vì vậy cho đến khi Quốc hội ban hành luật về chuyển đổi giới tính thì những người đồng tính mới có thể chính thức thực hiện quyền chuyển đổi giới tính này. Nhiệm vụ đặt ra là cần sớm ban hành pháp luật có liên quan tới chuyển đổi giới tính, nhưng cũng cần đảm bảo các vấn đề có liên quan tới văn hoá, thuần phong mỹ tục của người Việt Nam.
Ngoài ra, đối với vấn đề hôn nhân đồng tính thì hệ thống pháp luật Việt Nam cũng đã có những thay đổi theo chiều hướng tích cực cho người đồng tính, nếu như trước đây, trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 theo Khoản 5 Điều 10 quy định về những trường hợp cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính. Hiện nay, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã bỏ quy định này thay thế bằng quy định “không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính” (Khoản 2 Điều 8). Trước đây, theo điểm e Khoản 1 Điều 8 Nghị định 87/2001/NĐ-CP (đã hết hiệu lực) việc kết hôn những người cùng giới tính sẽ bị phạt tiền từ 100.000 – 500.000 đồng, tuy nhiên đến Nghị định 82/2020/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 01/09/2020 đã không còn quy định xử phạt những người đồng tính kết hôn với nhau nhằm đồng bộ với quy định tại Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều này có nghĩa là những người cùng giới tính có thể tổ chức đám cưới và sống chung với nhau như vợ chồng.
Về vấn đề kết hôn, tại Điều 36 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định nam, nữ có quyền kết hôn, dựa trên nguyên tắc tự nguyện tiến bộ, Nhà nước sẽ bảo hộ hôn nhân và gia đình11. Hiến pháp được coi là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, mới chỉ khẳng định nam, nữ có quyền kết hôn, tuy nhiên quyền kết hôn được hiểu như thế nào thì không có định nghĩa cụ thể về quyền kết hôn. Theo Khoản 5 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”. Việc quy định về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn tại Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 vẫn đang là rào cản lớn đối với những cặp đôi đồng tính.
Nếu pháp luật không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính thì ngoài những phát sinh về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, phân chia tài sản thì vấn đề về nhận con nuôi cũng là một trong những vấn đề pháp luật cần quan tâm đối với các cặp đôi đồng tính. Theo quy định của Điều 14 Luật nuôi con nuôi năm 201012 thì điều kiện để được nhận con nuôi phải đáp ứng các điều kiện chẳng hạn có năng lực hành vi dân sự, hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên, cũng như phải có sức khoẻ, điều kiện kinh tế, chỗ ở đảm bảo việc chăm sóc và nuôi dưỡng con nuôi. Mặc dù, không có quy định cấm việc những người đồng tính nhận con nuôi, nhưng nếu các cặp đôi người đồng tính mà có mong muốn và nhu cầu nhận con nuôi thì họ hoàn toàn có quyền nhận con nuôi theo Luật nhận con nuôi năm 2010 nếu như đảm bảo đầy đủ các nội dung điều kiện như trên. Tuy nhiên, trên thực tế việc nhận con nuôi của các cặp đôi đồng tính gặp nhiều khó khăn và bất cập. Vấn đề đặt ra “Liệu rằng đứa trẻ sống trong gia đình nếu như có hai bố hoặc hai mẹ” thì chúng có được phát triển đầy đủ về nhận thức, về tâm sinh lý hay không? Và trong quá trình xã hội hoá cá nhân, trong những giai đoạn phát triển của những đứa trẻ đó liệu có bị ảnh hưởng gì hay không?… Đây cũng là vấn đề cần có sự cân nhắc kỹ lưỡng đối với các cặp đôi đồng tính có nhu cầu nhận con nuôi.
3. Những vấn đề đặt ra đối với pháp luật Việt Nam về người đồng tính
Hiện nay, trên thế giới đã có nhiều quốc gia đã ban hành luật và cho phép kết hôn đồng tính. Đối với nước ta, hiện tại Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính. Quy định pháp luật về vấn đề này như sau:
Thứ nhất, điểm mới của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính, tuy nhiên quy định này đã mở ra một cơ hội được “kết hôn” cho những người đồng tính, mặc dù từ “cấm” chuyển thành “không thừa nhận” thì việc kết hôn của người đồng tính mới chỉ có ý nghĩa về mặt thực tế, tức là họ vẫn được tổ chức đám cưới nhưng lại không có ý nghĩa về mặt pháp lý, nếu như Nhà nước không thừa nhận thì cuộc hôn nhân của họ sẽ không được pháp luật bảo hộ, nếu không được pháp luật thừa nhận thì sẽ không có những phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng, tài sản chung vợ chồng… Như vậy, nếu như cuộc hôn nhân của người đồng tính không được pháp luật bảo vệ vậy liệu rằng những người đồng tính có cân nhắc tới việc “kết hôn” hay không? Do không được pháp luật thừa nhận cho nên giữa những người đồng tính họ sẽ không bị “ràng buộc” bởi bất kỳ điều gì về mặt pháp lý. Hôn nhân của họ cũng không được xem là quan hệ vợ chồng. Vì vậy, họ cũng sẽ không có các phát sinh về quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, cũng như chế độ tài sản của vợ chồng.
Thứ hai, về con cái của các cặp đôi đồng tính, trên thực tế họ có thể xin con nuôi, mang thai hộ hoặc nhờ can thiệp của các biện pháp y khoa… Tuy nhiên, xét trong phạm vi nào đó, thì con cái là kết quả được sinh ra từ hôn nhân – một điều gì đó thiêng liêng mà tạo hoá đã mang lại. Nhưng đối với cặp vợ chồng là người đồng tính thì con cái sống trong môi trường như thế có đảm bảo đủ quyền lợi của pháp luật hay không? Các vấn đề phát sinh như nhận con nuôi, mang thai hộ, phân chia tài sản… cũng là một trong những nội dung cần phải được điều chỉnh bởi pháp luật.
Thứ ba, theo Tổ chức Nhân quyền quốc tế đã khẳng định: “Quyền con người là những quyền gắn với một con người, không phụ thuộc vào quốc tịch, nơi sinh sống, giới tính, dân tộc, màu da, tôn giáo, ngôn ngữ, hay bất cứ đặc điểm nào khác. Mọi tự nhiên nhân đều bình đẳng trong việc có quyền con người mà không có phân biệt đối xử. Những quyền này có mối quan hệ tương quan, phụ thuộc lẫn nhau và không thể tách rời”. Đối với nước ta, Chính phủ Việt Nam chấp nhận khuyến nghị của Chi-lê trong phiên họp thứ 18 của Báo cáo kiểm điểm định kỳ phổ quát về Nhân quyền (UPR) vào tháng 06/2014 kêu gọi ban hành một đạo luật chống phân biệt đối xử bao gồm trên cơ sở bản dạng giới và xu hướng tính dục. Tháng 09 năm 2014, Việt Nam bỏ phiếu thông qua Nghị quyết về nhân quyền, xu hướng tính dục và bản dạng giới của Hội đồng nhân quyền, thể hiện cam kết loại bỏ bạo hành và kỳ thị dựa trên xu hướng tính dục và bản dạng giới. Đó là trên cơ sở lý thuyết của pháp luật, khi người đồng tính được đảm bảo các quyền lợi như người bình thường, tuy nhiên trên thực tế, người đồng tính gặp nhiều khó khăn khi hoà nhập cộng đồng, hay đi xin việc làm, họ gặp phải những ánh nhìn kỳ thị, xa lánh… Xét về góc độ tâm lý, đây là trở ngại lớn khiến cho nhiều người đồng tính không muốn công khai giới tính chấp nhận chịu nhiều thiệt thòi và tổn thương tâm lý. Điều này khác hẳn với một số quy định của luật pháp quốc tế. Vấn đề đặt ra cho pháp luật Việt Nam, cần hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể và chi tiết các nội dung có liên quan tới người đồng tính xét cả khía cạnh hôn nhân, việc làm, sự kỳ thị của xã hội… Có như vậy mới đảm bảo được quyền lợi và lợi ích hợp pháp của nhóm cộng đồng người đồng tính cũng như phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế.
Kết luận
Với những người đồng tính thì mong muốn được sống thật với giới tính của mình cũng như được công nhận hôn nhân hợp pháp là mong muốn cần thiết nhất để họ có thể được sống là chính mình.
Ở một số quốc gia trên thế giới đã công nhận hôn nhân giữa hai người cùng giới tính, điều đó càng làm cho những người đồng tính ở Việt Nam có thêm động lực và niềm tin để nước ta có thể công nhận hôn nhân đồng tính. Tuy nhiên ở Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều từ tư tưởng Nho giáo, việc chấp nhận những người đồng tính kết hôn có thể có những vấn đề phát sinh gây ảnh hưởng tới gia đình và xã hội, không phù hợp với thuần phong mỹ tục, không phù hợp với các giá trị truyền thống gia đình của người Việt. Mặc dù, hiện nay thì xã hội đã có cái nhìn rộng mở, cởi mở và tích cực hơn về người đồng tính, nhưng để được hợp pháp hoá hôn nhân đồng tính thì cũng cần thêm thời gian và quá trình thay đổi nhận thức xã hội.
Trong phạm vi bài phân tích nêu trên đã đưa ra các vấn đề đặt ra đối với pháp luật nước ta có liên quan tới cộng đồng người đồng tính nhằm đảm bảo quyền lợi cho nhóm cộng đồng người đồng tính./.
CHÚ THÍCH
- Thạc sỹ, Giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội.
- LGBT là gì?, https://sapphovn.com/lgbt-la-gi/, xem ngày 20/9/2020.
- Thuật ngữ LGBTQ+ tổng hợp, https://sapphovn.com/thuat-ngu-lgbt/, xem ngày 21/1/2021.
- Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (2015), tài liệu Hướng dẫn tổng thể hướng dẫn chăm sóc toàn diện cho người chuyển giới và cộng đồng người chuyển giới và cộng đồng người chuyển giới tại Châu Á và Thái Bình Dương. Hà Nội, năm 2015.
- WHO (2014). “Proposed declassification of disease categories related to sexual orientation in the International Statistical Classification of Diseases and Related Health Problems (ICD)”,<https://www.who.int/bulletin/ volumes/92/9/14-135541/en/>,accessed September 2014.
- Nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đã công nhân hôn nhân đồng giới,<https://vov.vn/the-gioi/cuoc-song-do- day/nhieu-quoc-gia-va-vung-lanh-tho-da-cong-nhan-hon-nhan-dong-gioi-847579.vov>, xem ngày 2/4/2021.
- Hà Lan là quốc gia đầu tiên công nhận hôn nhân đồng giới, <http://www.cpcs.vn/ha-lan-la-quoc-gia-dau-tien- cong-nhan-hon-nhan-dong-gioi-d9242.html>, xem ngày 01/06/2019.
- Ánh Ngọc (2019). Đài Loan trở thành nơi đầu tiên tại châu Á hợp pháp hoá hôn nhân đồng giới, <https://vnexpress.net/dai-loan-tro-thanh-noi-dau-tien-tai-chau-a-hop-phap-hoa-hon-nhan-dong-gioi- 3925124.html>, xem ngày 17/5/2019.
- Nguyễn Thị Lan, (2019) Pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về chống phân biệt đối với nhóm LGBT, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học cấp trường Đại học Luật Hà Nội, tr.142 – 144.
- Điều 36. Quyền xác định lại giới tính: 1. Cá nhân có quyền xác định lại giới tính. Việc xác định lại giới tính của một người được thực hiện trong trường hợp giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ giới tính; 2. Việc xác định lại giới tính được thực hiện theo quy định của pháp luật; 3. Cá nhân đã thực hiện việc xác định lại giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp vơi giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.
- Điều 36 Hiến pháp năm 2013: 1. Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau; 2. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em.
- Điều 14. Điều kiện đối với người nhận con nuôi: 1. Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây: a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; b) Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; c) Có điều kiện về sức khoẻ, kinh tế, chỗ ở đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; d) Có tư cách đạo đức tốt.
Trả lời