Mục lục
Bàn về một số nội dung trong hợp đồng mua bán nợ của Ngân hàng thương mại tại Việt Nam
Tác giả: Trần Thị Thanh Thủy
TÓM TẮT
Hợp đồng mua bán nợ là một phần không thể thiếu trong hoạt động mua bán nợ của ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Không đơn thuần chỉ là hợp đồng giao dịch tài sản với các nội dung của một hợp đồng dân sự thông thường mà hợp đồng mua bán nợ còn có những nội dung mang tính đặc trưng riêng của nó. Bài viết phân tích những quy định của pháp luật điều chỉnh những nội dung của hợp đồng mua bán nợ, từ đó, đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện khung hành lang pháp lý liên quan đến vấn đề này.
1. Phần mở đầu
Hoạt động mua bán nợ của ngân hàng thương mại là giao dịch dựa trên sự thoả thuận một cách tự nguyện giữa một bên là bên bán nợ, tức ngân hàng thương mại và bên còn lại là bên mua nợ, với đối tượng giao dịch là quyền yêu cầu khách hàng vay nợ thực hiện nghĩa vụ thanh toán khi đến hạn thanh toán, hay còn gọi là nợ của ngân hàng thương mại. Để xác lập cũng như đi đến ràng buộc quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động mua bán nợ thì cần phải có hợp đồng.
Hợp đồng mua bán nợ của ngân hàng thương mại thể hiện sự thoả thuận về giao dịch mua bán nợ giữa bên mua nợ và ngân hàng thương mại với vai trò là bên bán nợ. Việc giao kết hợp đồng mua bán nợ phải thoả mãn các nguyên tắc riêng về phương thức giao dịch, chủ thể giao dịch, đối tượng giao dịch và đặc biệt là nội dung của hợp đồng do sự đặc thù của hoạt động kinh doanh mua bán nợ này.
Nội dung hợp đồng mua bán nợ của ngân hàng thương mại bao gồm các điều khoản điều khoản cơ bản, điều khoản thông thường và điều khoản tùy nghi. Pháp luật có yêu cầu tối thiểu đối với nội
dung của loại hợp đồng này, cụ thể: (i) Thời gian ký kết hợp đồng mua bán nợ; (ii) Tên, địa chỉ của các bên tham gia ký kết hợp đồng mua bán nợ; (iii) Tên, chức danh người đại diện các bên tham gia ký kết hợp đồng mua bán nợ; (iv) Tên, địa chỉ của bên nợ và các bên có liên quan (nếu có) tới khoản nợ được mua, bán; (v) Chi tiết khoản nợ mua, bán: số tiền vay, thời gian vay, mục đích giá trị ghi sổ của khoản nợ đến thời điểm thực hiện mua bán nợ; (vi) Các biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ thanh toán của bên nợ đối khoản nợ được mua, bán (nếu có); (vii) Giá bán nợ, phương thức thanh toán, thời hạn thanh toán; (viii) Thời điểm, phương thức và thủ tục chuyển giao hồ sơ, chứng từ khoản nợ, bao gồm cả hồ sơ, tài liệu về tài sản bảo đảm của khoản nợ (nếu có); Thời điểm bên mua nợ trở thành người thế quyền, nghĩa vụ đối với khoản nợ của bên bán nợ; (ix) Quyền và nghĩa vụ của bên bán nợ, bên mua nợ; (x) Trách nhiệm của các bên do vi phạm hợp đồng; và quy định về (xi) Giải quyết tranh chấp phát sinh. Việc sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ nội dung hợp đồng mua bán nợ do các bên liên quan thỏa thuận, quyết định trên cơ sở bảo đảm tuân thủ quy định của pháp luật. Ngoài ra, trường hợp mua bán nợ bằng trái phiếu đặc biệt, hợp đồng mua bán nợ được ký kết giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (sau đây gọi tắt là VAMC), tổ chức tín dụng và các bên liên quan (nếu có) tối thiểu cần có các nội dung được quy định tại Khoản 1 Điều 20 Thông tư số 19/2013/TT-NHNN ngày 06 tháng 09 năm 2013.
2. Thực trạng quy định pháp luật về một số nội dung trong hợp đồng mua, bán nợ của ngân hàng thương mại
Thứ nhất, về đối tượng của hợp đồng mua bán nợ.
Đối tượng được chuyển giao trong hợp đồng mua bán nợ của ngân hàng thương mại là quyền đòi nợ đối với khoản nợ phát sinh từ nghiệp vụ cho vay, theo đó bên bán nợ chuyển giao quyền sở hữu khoản nợ cho bên mua nợ và nhận tiền thanh toán từ bên mua nợ . Một khoản nợ có thể được bán một phần hoặc toàn bộ; bán cho một hoặc nhiều bên mua nợ; và có thể được mua, bán nhiều lần qua thị trường mua bán nợ sơ cấp và thứ cấp.
Đối tượng của hợp đồng mua bán nợ được ngân hàng thương mại chủ động lựa chọn dựa trên các khoản nợ được phép giao dịch theo quy định của pháp luật. Những khoản nợ được đưa vào mua, bán này hầu như là các khoản nợ xấu, khả năng thu hồi thấp, rủi ro tín dụng cao, ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của ngân hàng thương mại. Điều này thúc đẩy ngân hàng thương mại nên bán các khoản nợ như vậy nhằm làm sạch tình hình tài chính của mình.
Thông tin về đối tượng trong hợp đồng mua bán nợ của ngân hàng thương mại là nội dung chi tiết về khoản nợ được mua, bán, bao gồm các thông tin về số tiền vay, thời gian vay, mục đích vay, giá trị ghi sổ của khoản nợ đến thời điểm thực hiện mua bán nợ, tài sản bảo đảm… Những thông tin như vậy giúp định danh khoản nợ được mua, bán trong hợp đồng, đồng thời thể hiện những đặc điểm của khoản nợ. Cũng từ những tính chất này mà bên mua và bên bán có thể thoả thuận về giá mua, bán khoản nợ đó.
Thứ hai, về giá mua bán nợ.
Giá mua, bán nợ là số tiền bên mua nợ phải thanh toán cho bên bán nợ theo hợp đồng mua bán nợ . Giá mua bán nợ thông thường được dựa trên nguyên tắc giá trị thị trường, trừ trường hợp VAMC mua nợ dựa vào giá trị sổ sách. Nếu các bên tham gia vào hoạt động mua bán nợ qua phương thức thoả thuận, giá mua bán nợ cũng sẽ được xác định bằng cách thoả thuận. Nếu các bên tham gia vào hoạt động mua bán nợ qua phương thức đấu giá lên, giá mua bán nợ là giá được trả cao nhất trong phiên đấu giá.
Pháp luật chỉ quy định một cách khái quát, chung chung về cách thức xác định giá mua bán nợ khi mua bán nợ theo phương thức thoả thuận và cách thức xác định giá khởi điểm khi mua bán nợ theo phương thức đấu giá, cụ thể được xác định trên cơ sở giá trị ghi sổ khoản nợ, khoản lãi mà bên nợ sẽ phải trả trong tương lai, phân loại nhóm khả năng thu hồi của khoản nợ và giá trị tài sản bảo đảm (nếu có). Tuy nhiên, pháp luật vẫn chưa xây dựng một hệ thống quy tắc cụ thể chi tiết để định hướng cho các bên trong việc xác định giá mua, bán khoản nợ. Mặc dù theo kinh nghiệm từ thị trường thế giới thì mức giá giao dịch luôn thấp hơn nhiều so với giá trị sổ sách khoản nợ , tuy nhiên điều này cũng tác động ít nhiều, khiến cho bên bán nợ lo ngại, e dè trong việc bán nợ do không có cơ sở đánh giá liệu giá mua, bán khoản nợ là hợp lý hay chưa, đặc biệt là các ngân hàng thương mại có vốn ngân sách Nhà nước thì càng cần phải thận trọng, tránh thất thoát ngân sách.
Việc thẩm định giá khởi điểm của khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu đã được ban hành tại Nghị định 61/2017/NĐ-CP đã giúp các bên sử dụng phương thức đấu giá để mua bán nợ có thể có cơ sở xác định giá khởi điểm nhằm làm căn cứ để các bên đưa ra giá mua, bán chính thức khi đấu giá. Tuy nhiên, quy định này chỉ có hiệu lực áp dụng đối với hoạt động mua bán nợ của VAMC, với các trường hợp được quy định tại Điều 4 của Nghị định số 61/2017/NĐ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2017.
Một là, khoản nợ xấu được VAMC mua theo giá trị ghi sổ bằng trái phiếu đặc biệt mà khi xác định giá khởi điểm để đấu giá, VAMC không thỏa thuận được với ngân hàng thương mại bán nợ về giá khởi điểm. Do đặc điểm của các khoản nợ xấu mà VAMC mua lại này khi đến hạn thanh toán trái phiếu đặc biệt, VAMC sẽ chuyển giao lại cho ngân hàng thương mại khoản nợ chưa thu hồi được và ngân hàng thương mại đã bán nợ sẽ sử dụng trái phiếu đặc biệt tương ứng mua lại khoản nợ xấu từ VAMC theo giá trị ghi sổ số dư nợ gốc đang theo dõi trên sổ sách của VAMC. VAMC căn cứ vào giá trị ghi sổ số dư nợ gốc và việc chuyển giao khoản nợ không phải là tuyệt đối, mà VAMC sẽ hoàn trả khi không xử lý được, nên chi trong trường hợp các bên không thoả thuận được giá khởi điểm thi mới cân thiết thuê doanh nghiệp thâm định giá đê xác định giá khởi điêm.
Hai là, khoản nợ xấu được VAMC mua theo giá trị thị trường. Do đặc điểm của khoản nợ xấu này là khoản nợ xâu được chuyên giao hoàn toàn cho VAMC và việc xử lý khoản nợ xâu sẽ ảnh hưởng trực tiêp tới hoạt động sử dụng vôn của VAMC (có nguồn vôn Nhà nước) nên cần phải có các quy định ràng buộc cụ thể, rõ ràng, một mặt nhằm tránh thất thoát ngân sách Nhà nước, một mặt nhằm giúp các chuyên viên VAMC có cơ sở để đưa ra kết luận một cách chính xác, tránh rủi ro nghiệp vụ.
Ba là, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu mà khi xác định giá khởi điểm để đấu giá, VAMC không thỏa thuận được với bên bảo đảm về giá khởi điểm. Quy định này áp dụng cho cả trường hợp mua theo giá trị sổ sách và mua theo giá trị thị trường, do viêc xử lý tài sản bảo đảm ảnh hưởng trực tiêp tới quyên lợi của bên bảo đảm, do đó việc xác định giá khởi điêm của tài sản bảo đảm trước hêt cân tôn trọng thoả thuận giữa bên bảo đảm với bên nhận bảo đảm (VAMC). Trong trường hợp các bên không thoả thuận được giá khởi điêm, đê bảo đảm quyên lợi của bên bảo đảm thi cân thuê doanh nghiêp thâm định giá đê xác định giá khởi điêm.
Khi xảy ra một trong các trường hợp trên, VAMC cần phải lựa chọn doanh nghiệp thẩm định giá thực hiện thẩm định giá khởi điểm của khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu và sử dụng kết quả thẩm định giá để xác định giá khởi điểm của khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu.
Xác định giá mua bán khoản nợ là một trong những bước khó khăn nhất đối với các bên tham gia vào hoạt động này, việc không thống nhất được giá giữa bên mua và bên bán là chuyện thường xuyên xảy ra. Ở nhiều nước, việc định giá khoản nợ xấu chỉ bằng 20 – 30% giá trị sổ sách, trong khi đó tại Việt Nam, nhiều bên bán lại mong muốn bán nợ xấu phải bằng cả nợ gốc thậm chí cả lãi vay . Điều này là không thể thực hiện được do bên mua nợ không chấp nhận. Việc không thỏa thuận được giá mua, bán là một trong những lý do lớn nhất khiến việc đàm phán hợp đồng mua bán nợ không đi đến giai đoạn ký kết.
Thứ ba, về quyền và nghĩa vụ của các bên.
Trong hợp đồng mua bán nợ, điều khoản về quyền và nghĩa vụ của các bên luôn là điều khoản tối thiểu cần có. Pháp luật cũng có những quy định cợ bản nhất đối với quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia hợp đồng mua bán nợ, ngoài các quyền và nghĩa vụ này, các bên có thể thoả thuận đưa vào các điều khoản phù hợp. Cụ thể, quyền và nghĩa vụ của bên mua nợ được quy định tại Khoản 1 và Khoản 2, Điều 16 Thông tư số 09/2015/TT-NHNN ngày 17 tháng 07 năm 2015. Song song đó, quyền và nghĩa vụ của bên bán nợ được ghi nhận tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 17 Thông tư số 09/2015/TT-NHNN.
Các quy định này có vai trò định hướng cho các bên trong giao dịch mua bán nợ hiểu một cách cợ bản về quyền và nghĩa vụ của mình. Với nghĩa vụ cợ bản của bên mua là phải thanh toán và nghĩa vụ cợ bản của bên bán là phải chuyển quyền sở hữu khoản nợ cho bên mua, đối ứng lại, bên bán có được quyền cợ bản là nhận được khoản tiền từ việc bán nợ, còn bên mua sẽ trở thành chủ sở hữu mới của khoản nợ và về nguyên tắc, kèm theo là các quyền, nghĩa vụ gắn liền với khoản nợ mà đã được phát sinh từ thoả thuận cho vay ban đầu. Đó là những quyền yêu cầu khách hàng nợ thanh toán nợ, quyền đối với tài sản bảo đảm với tư cách là bên nhận bảo đảm… đồng thời kế thừa các nghĩa vụ của chủ nợ.
Đối với quy định nghĩa vụ của bên bán nợ về việc cung cấp các thông tin liên quan đến khoản nợ được bán theo yêu cầu của bên mua nợ. Quy định này chưa thể hiện rõ bên mua nợ khi có yêu cầu thì phải mô tả thông tin mình cần đến mức độ nào, trong trường hợp bên mua nợ yêu cầu một cách chung nhất rằng cung cấp tất cả các thông tin mà bên bán nợ có được liên quan đến khoản nợ, thì bên bán có quyền từ chối một yêu cầu chung chung như vậy và yêu cầu bên mua phải mô tả rõ hơn không. Trường hợp cần mô tả chi tiết có thể dẫn đến rủi ro bên mua nợ không thể biết hết để có thể yêu cầu tất cả các thông tin liên quan khoản nợ, hậu quả là sẽ đưa ra lựa chọn dựa trên sự thiếu hụt về dữ liệu. Do đó, các bên trong hợp đồng được khuyến nghị là nên thoả thuận chi tiết, cụ thể hơn về điều khoản cung cấp thông tin này cũng như những điều khoản còn lại trong hợp đồng để hạn chế tranh chấp xảy ra.
Thứ tư, về hiệu lực của hợp đồng mua bán nợ.
Liên quan đến hiệu lực của hợp đồng mua bán nợ của ngân hàng thương mại có ba vấn đề cần đề cập đó là: (i) Các điều kiện để hợp đồng mua bán nợ của ngân hàng thương mại có hiệu lực; (ii) Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng mua bán nợ; và (iii) Việc hợp đồng mua bán nợ vô hiệu.
Về điều kiện có hiệu lực, hợp đồng đó phải đáp ứng các yêu cầu về nguyên tắc xác lập hợp đồng và hình thức hợp đồng mua bán nợ theo quy định của pháp luật. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, để hợp đồng có hiệu lực phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau: (i) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; (ii) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; (iii) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; (iv) Thỏa mãn quy định về hình thức phải lập thành văn bản của hợp đồng mua bản nợ .
Về thời điểm bắt đầu có hiệu lực, thời điểm này có thể là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hợp đồng mua bán nợ hoặc một thời điểm khác do các bên thoả thuận với nhau. Trường hợp các bên thỏa thuận về việc yêu cầu công chứng hợp đồng thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng mua bán nợ là thời điểm công chứng viên ký và có đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng. Hợp đồng mua bán nợ được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, hoặc hai bên trong hợp đồng có thể thỏa thuận khác đi , trừ trường hợp hai bên thỏa thuận công chứng hợp đồng mua bán nợ thì hợp đồng công chứng này có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng .
Về sự vô hiệu của hợp đồng, hợp đồng mua bán nợ không đáp ứng được các điều kiện có hiệu lực thì vô hiệu. Hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập, khi hợp đồng vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường .
Thứ năm, về chấm dứt hợp đồng mua bán nợ.
Một hợp đồng mua bán nợ thường sẽ có điều khoản quy định về các trường hợp mà hợp đồng mua bán nợ chấm dứt. Trường hợp chấm dứt hợp đồng khác nhau có thể mang đến hậu quả pháp lý khác nhau. Dựa trên nguyên nhân chấm dứt, các trường hợp chấm dứt hợp đồng cơ bản có thể được chia thành các nhóm sau:
Một là, nguyên nhân khách quan, bao gồm các trường hợp sau đây: (i) Hợp đồng đã được hoàn thành; (ii) Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân giao kết hợp đồng chấm dứt tồn tại mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện; (iii) Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn; (iv) Hợp đồng chấm dứt khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản theo quy định nhưng các bên không thể thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng trong một thời hạn hợp lý. Nhìn chung các trường hợp này đều có một đặc điểm là hợp đồng không thể nào tiếp tục thực hiện được nữa, việc hai bên cần làm là chấm dứt hợp đồng. Mặc dù có thể các bên đã đạt được những mục tiêu ban đầu của mình khi giao kết hợp đồng như trường hợp chấm dứt do hợp đồng đã được hoàn thành, hoặc có thể các bên hoặc một bên không đạt được mục tiêu của mình như các trường hợp còn lại.
Hai là, nguyên nhân chủ quan của hai bên đó là khi hợp đồng được chấm dứt theo sự thoả thuận của các bên. Bản chất của việc giao kết và thực hiện hợp đồng là sự thoả thuận, nên việc chấm dứt thực hiện hợp đồng này cũng sẽ ưu tiên sự thoả thuận của các bên. Khi chấm dứt hợp đồng trong trường hợp này, các bên vẫn đồng nhất, dung hòa ý chí, vì vậy các vấn đề về giải quyết thiệt hại (nếu có phát sinh) cũng dễ dàng được các bên thoả thuận.
Ba là, nguyên nhân chủ quan của một bên trong hợp đồng, hai trường hợp phổ biến chấm dứt hợp đồng bởi nguyên nhân này đó là: (i) Hợp đồng bị hủy bỏ và (ii) Hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện.
Đối với trường hợp huỷ bỏ hợp đồng, một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận, hoặc bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng, không thực hiện đúng nghĩa vụ của một bên đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng11. Khi hợp đồng bị hủy bỏ, hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp, các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận sau khi trừ chi phí hợp lý trong thực hiện hợp đồng và chi phí bảo quản, phát triển tài sản, bên bị thiệt hại do hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên kia được bồi thường .
Đối với trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng, một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định, khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt kể từ thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt, các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp, bên bị thiệt hại do hành vi không thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng của bên kia được bồi thường . Ngoài ra, VAMC có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng mua bán nợ trong các trường hợp sau đây : (i) Có bằng chứng về việc khoản nợ xấu đã mua không đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy để được VAMC mua bằng trái phiếu đặc biệt, trừ trường hợp Ngân hàng Nhà nước xem xét trình Thủ tướng Chính phủ quyết định việc VAMC mua các khoản nợ xấu của ngân hàng thương mại không đáp ứng đầy đủ các điều kiện này theo đề nghị của VAMC nhằm bảo đảm an toàn hoạt động của ngân hàng thương mại và xử lý nhanh nợ xấu; hoặc (ii) Tổ chức tín dụng bán nợ vi phạm các trách nhiệm, nghĩa vụ được quy định tại Khoản 2 Điều 21, các điểm a, b Khoản 3 và Khoản 4 Điều 31 Nghị định số 53/2013/NĐ-CP ngày 18 tháng 5 năm 2013.
Thứ sáu, về xử lý tranh chấp phát sinh.
Việc xử lý tranh chấp phát sinh trong hoạt động mua bán nợ thực hiện theo thỏa thuận của các bên tại hợp đồng mua bán nợ nhưng không trái với quy định của pháp luật. Trường hợp mua bán nợ có yếu tố nước ngoài, các bên có thể thỏa thuận luật áp dụng tòa án hoặc trọng tài thương mại nước ngoài để giải quyết tranh chấp phát sinh đối với giao dịch mua bán nợ nếu việc thỏa thuận đó không trái với quy định của pháp luật Việt Nam15. Hiện tại, ở Việt Nam, các tranh chấp phát sinh trong hoạt động mua bán nợ chịu sự điều chỉnh của pháp luật chung về hợp đồng tố tụng. Theo đó, có những phương thức khác nhau để giải quyết một tranh chấp kinh doanh thương mại như thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại, tòa án. Việc lựa chọn phương thức nào do các bên tranh chấp thỏa thuận quyết định.
3. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về một số nội dung trong hợp đồng mua bán nợ của ngân hàng thương mại
Bản chất hoạt động mua bán nợ rất phức tạp, vì vậy các bên cần có hành lang pháp lý tốt nhất thực hiện hoạt động kinh doanh của mình, hạn chế phát sinh những rủi ro pháp lý, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của ngành kinh tế giàu tiềm năng và lợi ích này. Để đáp ứng được yêu cầu này, pháp luật về hoạt động mua bán nợ của ngân hàng thương mại đòi hỏi phải ngày càng hoàn thiện hơn, bảo đảm tính thống nhất, minh bạch, rõ ràng, tránh mâu thuẫn, chồng chéo các quy định pháp luật với nhau:
Thứ nhất, pháp luật cần xác định cụ thể về định nghĩa của giao dịch mua bán nợ. Mua bán nợ là sự chuyển giao quyền đòi nợ đối với khoản nợ, theo đó bên bán chuyển giao quyền sở hữu khoản nợ cho bên mua nợ16. Tuy rằng, trong quy định về quyền và nghĩa vụ của bên mua nợ, pháp luật đã yêu cầu bên mua nợ có nghĩa vụ kế thừa đầy đủ các nghĩa vụ của bên bán nợ đối với khoản nợ theo thỏa thuận17, nhưng cũng vì vậy mà định nghĩa trên chưa thể hiện được bản chất của giao dịch mua bán nợ. Do đó pháp luật cần làm rõ mua bán nợ là sự chuyển giao “toàn bộ quyền và nghĩa vụ đối với khoản nợ”, bởi trong giao dịch này, bên bán không chỉ chuyển giao quyền mà còn chuyển giao nghĩa vụ của mình cho bên mua, quyền mà bên bán chuyển giao không chỉ có quyền đòi nợ.
Thứ hai, ban hành quy định pháp luật để định giá khoản nợ, nhằm xác định giá mua, bán trong hợp đồng mua bán nợ. Pháp luật cần xây dựng quy định để định giá các khoản nợ nhằm giải quyết những bất cập này, thúc đẩy thị trường mua bán nợ phát triển hơn. Cụ thể, cần ban hành quy tắc xác định giá mua, bán khoản nợ: Việc chưa có một hệ thống quy tắc cụ thể chi tiết để định hướng cho các bên trong việc xác định giá mua, bán khoản nợ mang lại những bất cập nhất định trong việc định giá khoản vay được mua, bán. Các quy định pháp luật không định nghĩa rõ như thế nào là giá “thị trường”, cũng không gợi ý cho tổ chức tín dụng có thể áp dụng phương pháp định giá để tạo thành tiêu chuẩn chung cho hoạt động mua bán nợ của ngân hàng thương mại và tránh những rủi ro hoạt động cho các chuyên viên chịu trách nhiệm về việc mua bán nợ của ngân hàng thương mại. Vì vậy, việc xây dựng bộ quy tắc hướng dẫn xác định giá mua bán nợ là điều cần thiết, lấy đó làm cơ sở đàm phán giữa các bên mua bán nợ. Thực tế hiện nay khi áp dụng phương thức thỏa thuận, sự chênh lệch lớn giữa giá bên chào bán và giá bên chào mua đưa ra do chưa có một hệ thống xác định giá chuẩn, làm kéo dài thời gian thương thảo, thất bại trong việc đi đến thỏa thuận hợp đồng. Do đó, pháp luật cần xây dựng một khung cơ sở định giá khoản nợ để xác định giá mua, bán trong hợp đồng. Ngoài ra, trong trường hợp đấu giá khoản nợ thì phương thức xác định giá khởi điểm cũng được xác định rõ để định hướng cho các trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản. Hiện nay, việc tổ chức đấu giá các khoản nợ được thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu giá, giá được đưa ra đấu giá là giá do ngân hàng bán nợ hoặc một công ty có chức năng định giá khoản nợ đưa ra. Nếu được quy định và hướng dẫn rõ ràng, cụ thể, biện pháp này sẽ tăng thêm kênh mua, bán có hiệu quả cho thị trường mua bán nợ.
Ngoài ra, việc quốc tế hóa các chuẩn mực kế toán cũng là một vấn đề quan trọng. Trong bối cảnh hội nhập của nền kinh tế Việt Nam nói chung và hoạt động mua bán nợ của ngân hàng thương mại nói riêng, Việt Nam cần nâng cao các quy tắc, chuẩn mực kế toán dựa trên chuẩn mực của thế giới. Việc này giúp cho các bên thuận tiện trong việc nghiên cứu các báo cáo tài chính, các số liệu kế toán cũng trở nên chính xác, đáng tin hơn. Điều này cần được chú trọng bởi đây là một nguồn thông tin quan trọng đối với các bên, đặc biệt là bên mua nợ, trong việc định giá khoản nợ.
Thứ ba, quyền yêu cầu và nghĩa vụ cung cấp thông tin trong hợp đồng mua bán nợ phải được cụ thể hóa. Hiện tại pháp luật chỉ quy định bên bán nợ phải có nghĩa vụ cung cấp các thông tin liên quan đến khoản nợ được bán theo yêu cầu của bên mua nợ, bảo đảm tuân thủ quy định pháp luật và không trái với các thỏa thuận tại hợp đồng cấp tín dụng, hợp đồng bảo đảm đã ký kết .
Nhưng trong trường hợp các thông tin quan trọng liên quan đến khoản nợ mà bên mua không biết đến sự tồn tại của nó để yêu cầu bên bán cung cấp. Việc này ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ của bên mua. Đặc biệt là trong trường hợp bên bán không có thiện chí cung cấp tất cả thông tin có khả năng ảnh hưởng đến giá mua, bán mà bên mua đưa ra dẫn đến rủi ro lựa chọn đối nghịch do thông tin bất cân xứng xảy ra đối với bên mua.
Vì vậy, pháp luật nên quy định bên mua có quyền yêu cầu bên bán và bên bán phải có nghĩa vụ cung cấp mọi thông tin liên quan đến khoản nợ được mua, bán, cho bên mua, miễn là bảo đảm tuân thủ quy định pháp luật và không trái với các thỏa thuận tại hợp đồng cấp tín dụng, hợp đồng bảo đảm đã ký kết. Ngoài ra, pháp luật cũng cần có cơ chế ràng buộc trách nhiệm của bên bán trong trường hợp không cung cấp đủ các thông tin theo quy định.
Thứ tư, hoàn thiện quy định về chấm dứt hợp đồng mua bán nợ. Việc chấm dứt hợp đồng mua bán nợ khi các bên chưa đạt được mục đích ký kết hợp đồng có thể khiến cho các bên chịu nhiều thiệt hại, ví dụ như việc tiêu tốn thời gian, giảm uy tín, thất thoát chi phí… Vì vậy, pháp luật cần quy định cụ thể, rõ ràng nhằm hạn chế rủi ro cho các bên tham gia giao dịch.
Điển hình, các nhà làm luật cần có hướng dẫn rõ hơn trường hợp chấm dứt hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản theo quy định nhưng các bên không thể thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng trong một thời hạn hợp lý. Các chủ thể vận dụng quy định này chỉ được áp dụng trong các trường hợp mà sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh thực sự làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng tiếp tục thực hiện hợp đồng như những thỏa thuận ban đầu.
4. Kết luận
Hợp đồng mua bán nợ đóng vai trò vô cùng quan trọng, là cơ sở để xác lập hoạt động mua bán nợ của ngân hàng thương mại. Mặc dù, pháp luật hiện hành cũng đã ghi nhận, điều chỉnh nhất định các nội dung đặc trưng của hợp đồng mua bán nợ, song vẫn tồn đọng những khiếm khuyết cần được hoàn thiện. Theo đó, việc hoàn thiện các quy định pháp luật về nội dung trong hợp đồng mua bán nợ không những giúp hoạt động này diễn ra dễ dàng, thuận lợi hơn, hợp đồng được xây dựng đầy đủ hơn, hạn chế rủi ro pháp lý cho các bên tham gia vào giao dịch, mà sự hoàn thiện này còn mang lại lợi ích lâu dài, đó là giải quyết tình trạng nợ xấu, nợ khó có khả năng thu hồi, thúc đẩy sự phát triển của thị trường mua bán nợ, giúp lành mạnh hệ thống ngân hàng./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Cấn Văn Lực, Phạm Thị Hạnh, Lại Thị Thanh Loan (2017), Kinh nghiệm quốc tế về phát triển và quản lý thị trường mua bán nợ – Gợi ý đối với Việt Nam.
- Nguyễn Thị Hồng Lê (2015), Hợp đồng mua bán nợ của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội.
- Xuân Yến (2019), “Thị trường mua bán nợ: Tắc vì định giá”, Báo Đấu thầu, https:// baodauthau.vn/tai-chinh/thi-truong-mua-ban- no-tac-vi-dinh-gia-115701.html.
Trả lời