Mục lục
Hoàn thiện chế định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trong giai đoạn thi hành quyết định tuyên bố phá sản [1]
Tác giả: Hồ Quân Chính [2]
TÓM TẮT
Ở nước ta, sau khi Luật phá sản năm 2014 (LPS năm 2014) có hiệu lực, chế định quản tài viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, bước đầu đã cho thấy được hiệu quả của nó, đặc biệt là trong giai đoạn Tòa án giải quyết phá sản đã tạo ra sự chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa và linh hoạt trong quản lý, thanh lý tài sản giúp cho quá trình giải quyết phá sản của Tòa án được hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong giai đoạn thi hành quyết định tuyên bố phá sản thì vẫn còn một số hạn chế cần tiếp tục nghiên cứu để có những sửa đổi, bổ sung kịp thời.
LPS năm 2014 có hiệu lực từ 01/01/2015, có nhiều điểm mới so với LPS năm 2004. Đây là kết quả của việc tổng hợp thực tiễn ở nước ta trong thời gian thi hành LPS năm 2004 và là sự tiếp thu có chọn lọc pháp luật về phá sản của một số nước trên thế giới. Một trong những điểm mới, tiến bộ đáng được ghi nhận của LPS năm 2014 mà chúng tôi nêu và phân tích trong bài viết này chính là chế định về quản tài viên (QTV), doanh nghiệp (DN) quản lý, thanh lý tài sản.
1. Quy định của pháp luật về quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản
Theo quy định tại Khoản 7 và Khoản 8 Điều 4 LPS năm 2014, thì: “Quản tài viên là cá nhân hành nghề quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản. Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản là doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản”.
Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản tham gia vào quá trình giải quyết phá sản ngay từ khi mới có quyết định mở thủ tục phá sản và bắt đầu thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình căn cứ vào văn bản chỉ định của thẩm phán, cụ thể tại Khoản 1 Điều 45 LPS năm 2014, quy định: Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản, thẩm phán có trách nhiệm chỉ định QTV hoặc DN quản lý, thanh lý tài sản. Đồng thời tại khoản cũng quy định rõ là trong nội dung văn bản chỉ định phải có nội dung nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản.
Với tư cách là chủ thể quản lý, thanh lý tài sản, tham gia hầu hết các giai đoạn của quá trình tố tụng phá sản, tại Điều 16 LPS năm 2014 quy định 6 nhóm quyền và nghĩa vụ của QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản trong giai đoạn giải quyết tại tòa án và trong giai đoạn thi hành án, cụ thể như sau: Quản lý tài sản, giám sát hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản của DN, hợp tác xã (HTX) mất khả năng thanh toán; Đại diện cho DN, HTX trong trường hợp DN, HTX không có người đại diện theo pháp luật; Báo cáo về tình trạng tài sản, công nợ và hoạt động của DN, HTX, tham gia xây dựng kế hoạch phục hồi hoạt động kinh doanh của DN, HTX mất khả năng thanh toán; Đề nghị thẩm phán tiến hành các công việc sau: Thu thập tài liệu, chứng cứ; Tuyên bố giao dịch vô hiệu và quyết định thu hồi tài sản của DN, HTX xã bị bán hoặc chuyển giao bất hợp pháp, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, áp dụng biện pháp xử phạt hành chính, chuyển hồ sơ sang cơ quan có thẩm quyền xử lý về hình sự theo quy định của pháp luật; Được hưởng thù lao và thực hiện trách nhiệm bảo hiểm nghề nghiệp theo quy định của pháp luật; Báo cáo việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo yêu cầu của thẩm phán, cơ quan thi hành án dân sự; Chịu trách nhiệm trước thẩm phán, cơ quan thi hành án dân sự và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Trong giai đoạn giải quyết tại Tòa án, khi chưa có quyết định tuyên bố phá sản thì QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn của mình theo sự giám sát và quyết định của thẩm phán. Sau khi có quyết định tuyên bố phá sản thì QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản thực hiện việc thanh lý tài sản còn lại của DN, HTX phá sản theo yêu cầu của chấp hành viên (CHV).
Theo quy định tại Điều 120 LPS năm 2014, thì mặc dù sau khi Tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm chủ động ra quyết định thi hành, phân công CHV thi hành quyết định tuyên bố phá sản. Tuy nhiên, CHV lại không trực tiếp xử lý tài sản của DN, HTX bị tuyên bố phá sản, mà chủ yếu là thực hiện nhiệm vụ giám sát QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản thực hiện việc xử lý, thanh lý tài sản và một số nhiệm vụ khác được quy định tại Khoản 2 Điều 120 LPS năm 2014 như đã nêu. Đồng thời tại Điều 121 LPS năm 2014 quy định:
“1. Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định phân công của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, CHV có văn bản yêu cầu QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản thực hiện việc thanh lý tài sản…”
4/ Tài sản mà QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản không thực hiện được việc thanh lý sau 02 năm kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của CHV theo quy định tại Khoản 2 Điều này thì QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản phải chấm dứt việc thanh lý tài sản và bàn giao toàn bộ giấy tờ, tài sản của DN, HTX phá sản cho cơ quan thi hành án dân sự xử lý, thanh lý tài sản theo quy định của pháp luật. Như vậy, có thể hiểu sau khi Tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản một DN, HTX thì trong khoảng thời gian 02 năm kể từ ngày QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản nhận được văn bản yêu cầu của chấp hành viên theo quy định tại Khoản 2 Điều 121 LPS năm 2014 nêu trên thì việc thanh lý tài sản để thi hành quyết định tuyên bố phá sản sẽ thuộc trách nhiệm của QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản. Cụ thể, QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản sẽ phải thực hiện những thủ tục, công việc sau:
Thứ nhất, tổ chức định giá tài sản:
– Để thực hiện việc thanh lý tài sản của DN, HTX phá sản thì công việc đầu tiên của QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản đó là tổ chức thực hiện việc định giá tài sản để tổ chức bán đấu giá vì tất cả các tài sản của DN, HTX sau khi đã bị tuyên bố phá sản thì đều phải xử lý, quy đổi thành tiền để thực hiện các nghĩa vụ theo quyết định tuyên bố phá sản. Thủ tục định giá tài sản được quy định cụ thể tại Điều 122 LPS đó là: Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định tuyên bố phá sản, QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản phải tổ chức định giá tài sản theo quy định của pháp luật. Khi ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá thì QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản không được ký hợp đồng thẩm định giá với cá nhân, tổ chức mà mình có quyền, lợi ích liên quan;
– Trường hợp không ký được hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản thanh lý thì QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản có thể lựa chọn và ký hợp đồng với tổ chức thẩm định giá ngoài địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản thanh lý.
– Trường hợp không lựa chọn được tổ chức thẩm định giá, QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản có văn bản báo cáo CHV. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo của QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản, CHV quyết định việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá.
– Trường hợp CHV vẫn không ký được hợp đồng thẩm định giá thì yêu cầu QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản tham khảo ý kiến của cơ quan tài chính cùng cấp hoặc cơ quan chuyên môn quản lý ngành, lĩnh vực của tài sản trước khi xác định giá của tài sản thanh lý.
– Trường hợp tài sản thanh lý có nguy cơ bị phá hủy hoặc bị giảm đáng kể về giá trị thì QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản xác định giá trị tài sản và thanh lý theo quy định của pháp luật…3
Pháp luật cũng quy định rõ trách nhiệm báo cáo của QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản đối với CHV, đó là khi tổ chức việc định giá tài sản theo quy định tại Điều 122 của LPS năm 2014, bán tài sản theo quy định tại Điều 124 LPS năm 2014, QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản báo cáo chấp hành viên trong các trường hợp sau đây: Việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá, tổ chức bán đấu giá tài sản để ký hợp đồng định giá tài sản, ký hợp đồng bán đấu giá tài sản; Việc thay đổi tổ chức thẩm định giá, tổ chức bán đấu giá tài sản; Không lựa chọn được tổ chức thẩm định giá, tổ chức bán đấu giá tài sản; Bán đấu giá tài sản không thành. Hình thức báo cáo thực hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 49 LPS năm 2014 (Báo cáo trực tiếp, thư bảo đảm, thư thường, thư điện tử, fax, telex)4.
Như vậy, việc định giá tài sản trong giai đoạn này mặc dù trách nhiệm chính thuộc về QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản thực hiện. Tuy nhiên, trong một số trường hợp có khó khăn thì đã có sự hỗ trợ của CHV.
Thứ hai, bán tài sản:
Sau khi thẩm định giá thì công việc tiếp theo đó là thực hiện thủ tục để bán tài sản của DN, HTX phá sản (Điều 124 LPS năm 2014). Việc bán tài sản được thực hiện thông qua hai hình thức: bán thông qua đấu giá và bán không qua thủ tục đấu giá. Việc bán đấu giá được thực hiện đối với tài sản là động sản có giá trị từ trên 10.000.000 đồng và bất động sản. Trình tự, thủ tục bán đấu giá được thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản (Luật đấu giá tài sản năm 2016).
Thứ ba, thu hồi lại tài sản trong trường hợp có vi phạm:
Trong quá trình thực hiện việc thanh lý tài sản nếu phát hiện giao dịch của DN, HTX mất khả năng thanh toán được thực hiện trong thời gian 06 tháng trước ngày Tòa án nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản bị coi là vô hiệu nếu thuộc một trong các trường hợp sau: Giao dịch liên quan đến chuyển nhượng tài sản không theo giá thị trường; Chuyển khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần bằng tài sản của DN, HTX; Thanh toán hoặc bù trừ có lợi cho một chủ nợ đối với khoản nợ chưa đến hạn hoặc với số tiền lớn hơn khoản nợ đến hạn; Tặng cho tài sản; Giao dịch ngoài mục đích hoạt động kinh doanh của DN, HTX; Giao dịch khác với mục đích tẩu tán tài sản của DN, HTX5 thì QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản, CHV đề nghị Tòa án nhân dân ra quyết định thu hồi lại tài sản của DN, HTX do thực hiện giao dịch dân sự vô hiệu. Việc thu hồi tài sản được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Trường hợp có tranh chấp về thu hồi lại tài sản hay phần chênh lệch giá trị tài sản của DN, HTX thì được xử lý theo quy định tại Điều 115 LPS năm 20146.
Xử lý tài sản của DN, HTX phát sinh sau khi quyết định tuyên bố DN, HTX phá sản.
Sau khi quyết định tuyên bố DN, HTX phá sản mà phát hiện giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định tại Điều 59 của Luật này thì QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản có quyền yêu cầu Tòa án nhân dân tuyên bố giao dịch vô hiệu, xử lý hậu quả của giao dịch vô hiệu và phân chia tài sản của DN, HTX theo quy định tại Điều 54 của Luật này. Sau khi quyết định tuyên bố DN, HTX phá sản mà phát hiện tài sản của DN, HTX chưa chia thì Tòa án nhân dân đã tuyên bố phá sản xem xét và quyết định phân chia tài sản theo quy định tại Điều 54 của Luật này.
Như vậy, chúng ta có thể thấy nhiệm vụ trọng tâm của QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình thực hiện quyết định tuyên bố phá sản đó là xử lý tài sản còn lại của DN, HTX phá sản thông qua các thủ tục: Thẩm định giá; bán đấu giá; đề nghị Tòa án nhân dân ra quyết định thu hồi và xử lý tài sản của DN, HTX do thực hiện giao dịch dân sự vô hiệu. Những công việc này được thực hiện dưới sự giám sát và hỗ trợ trực tiếp của CHV trong thời gian 02 năm kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của CHV theo quy định tại Khoản 2 Điều 121 LPS năm 2014. Sau thời hạn 02 năm thì CHV sẽ là người trực tiếp xử lý những tài sản mà QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản không thực hiện được việc thanh lý7.
Như vậy, có nghĩa là sau 02 năm kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của CHV về việc thanh lý tài sản thì trách nhiệm và quyền hạn của QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản trong việc thanh lý tài sản còn lại của DN, HTX phá sản sẽ chấm dứt và chuyển giao cho CHV, cơ quan thi hành án dân sự xử lý, thanh lý tài sản theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
2. Một số khó khăn, bất cập của quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình thi hành quyết định tuyên bố phá sản
Mối quan hệ phối hợp giữa CHV, QTV, DN quản lý thanh lý tài sản chưa thực sự hiệu quả.
Theo các quy định của pháp luật về phá sản hiện nay, có thể thấy mối quan hệ phối hợp giữa CHV với QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản đối với việc quản lý, xử lý tài sản trong mỗi vụ việc phá sản là rất thường xuyên và khá chặt chẽ. Tuy nhiên, các quy định hiện hành vẫn chưa nói rõ cơ chế, trách nhiệm giám sát, phối hợp cũng như chế tài của các bên trong mối quan hệ này. Vì vậy, tính ràng buộc pháp lý giữa các bên chưa cao. Do đó, trong mối quan hệ phối hợp giữa CHV, cơ quan thi hành án với QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản hiện nay có thể dẫn đến các hệ quả sau:
Một là, việc giám sát của CHV đối với hoạt động của QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình xử lý, thanh lý tài sản của DN, HTX phá sản chỉ mang tính hình thức. Vì CHV không trực tiếp tham gia xử lý mà chỉ giám sát thông qua báo cáo thì không thể sâu sát được nội dung vụ việc, nên rất khó để phát hiện được những vi phạm, sai sót. Hơn nữa, CHV có nhiệm vụ chính là tổ chức thi hành các bản án, quyết định khác nên không có thời gian để theo dõi một cách chặt chẽ các hoạt động của QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản.
Hai là, cho dù có thể việc giám sát của CHV chỉ mang tính hình thức. Tuy nhiên, việc phải thường xuyên báo cáo, chờ ý kiến của CHV đã làm mất đi tính linh hoạt chủ động của QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản. Điều này sẽ làm mất thêm nhiều thời gian, công sức của QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản và ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả xử lý, thanh lý tài sản của DN, HTX phá sản.
Việc chia quá trình tổ chức thi hành quyết định phá sản ra thành 2 giai đoạn và do các chủ thể khác nhau thực hiện làm giảm hiệu quả của việc xử lý, thanh lý tài sản còn lại của DN, HTX phá sản.
Một là, trong quá trình thanh lý tài sản theo quyết định phá sản, QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản sẽ chỉ thực hiện việc thanh lý các tài sản dễ xử lý và có giá trị lớn còn những tài sản có giá trị nhỏ, khó xử lý thì không làm để giao lại cho CHV. Vì, mặc dù việc thanh lý tài sản của QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản được thực hiện dưới sự giám sát của CHV. Tuy nhiên, CHV lại không có thẩm quyền yêu cầu QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản phải xử lý tài sản nào trước, tài sản nào sau. Hơn nữa, nguồn tài chính chủ yếu của QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản phụ thuộc nhiều vào tiền thù lao và các chi phí khác.
Hai là, việc quy định nhiều chủ thể tham gia xử lý, thanh lý tài sản trong thi hành quyết định tuyên bố phá sản sẽ dễ dẫn đến chồng chéo về thẩm quyền, khó xác định trách nhiệm, phát sinh các mâu thuẫn trong công tác phối hợp. Luật phá sản năm 2014 quy định, sau 02 năm kể từ ngày nhận được văn bản của CHV yêu cầu QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản thực hiện việc thanh lý tài sản mà tài sản chưa được thanh lý thì việc thanh lý tài sản được giao trở lại cho CHV. Tuy nhiên, pháp luật lại chưa quy định rõ CHV phải áp dụng những quy định pháp luật nào để giải quyết, LPS hay Luật thi hành án. Đồng thời, những tài sản mà QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản đang xử lý chưa xong thì CHV có tiếp tục xử lý theo trình tự, thủ tục mà QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản xử lý không hay là phải giải quyết lại từ đầu. Hiện nay, đa số các quan điểm đều cho rằng sau khi CHV tiếp nhận hồ sơ, tài sản do QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản chuyển giao thì chấp hành viên sẽ phải áp dụng các quy định về thi hành án dân sự để giải quyết đối với những tài sản còn lại. Chúng tôi, cho rằng quan điểm như vậy là phù hợp, vì Luật thi hành án dân sự quy định quyết định tuyên bố phá sản cũng là một loại việc thi hành án dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của CHV. Như vậy, có nghĩa là một quyết định tuyên bố phá sản và có khi là một tài sản của DN, HTX phá sản lại có hai chủ thể tiến hành xử lý ở hai giai đoạn khác nhau và theo hai trình tự thủ tục khác nhau. Điều này sẽ gây ra nhiều vấn đề bất cập trên thực tiễn, làm mất nhiều thời gian của các bên có liên quan và giảm hiệu quả của việc xử lý, thanh lý tài sản của DN, HTX phá sản.
3. Pháp luật phá sản của một số nước trên thế giới quy định về chủ thể tham gia quản lý thanh lý tài sản
Pháp luật của mỗi nước trên thế giới có những quy định khác nhau về chủ thể quản lý tài sản phá sản. Tuy nhiên, khái quát lại có thể thấy có 2 mô hình chủ thể phổ biến là mô hình chủ thể quản lý tài sản là những cá nhân (Tín thác viên theo Luật phá sản Hoa Kỳ, quản tài viên theo Luật phá sản của Thụy Điển và Latvia, quản trị viên theo Luật phá sản Nhật Bản và Luật phá sản Cộng hòa liên bang Nga…) và mô hình là một thiết chế tập thể (như trong pháp luật phá sản Việt Nam trước năm 2014 và Luật phá sản Trung Quốc). Đồng thời với mỗi mô hình, pháp luật các nước cũng trao cho chủ thế này những nhiệm vụ quyền hạn rộng hẹp khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội đặc thù của mỗi nước8.
Chúng tôi cho rằng sở dĩ pháp luật về phá sản của các quốc gia có những quy định khác nhau về chủ thể tham gia xử lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản, điều này ít nhiều có nguyên nhân từ việc các nước nhìn nhận về bản chất của thủ tục pháp sản là không giống nhau. Ở nước ta lâu nay nhiều người vẫn hiểu thủ tục phá sản là một thủ tục tư pháp thông thường do Tòa án tiến hành và việc thi hành các quyết định tuyên bố phá sản cũng giống như việc thi hành các bản án, quyết định khác của Tòa án. Do vậy, việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản luôn luôn phải có một cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước (cơ quan thi hành án dân sự). Tuy nhiên, khi xét về bản chất của thủ tục pháp sản thì nó lại có nhiều đặc trưng riêng không giống như bản chất của các vụ án thông thường.
Trong bài viết về “Khái niệm phá sản, thủ tục pháp sản và những liên hệ đến LPS năm 2014” đăng trên tạp chí nghiên cứu lập pháp điện tử của TS. Dương Kim Thế Nguyên đã cho rằng: Có thể nhận thấy lý do mà đại đa số các tài liệu, giáo trình viết về thủ tục phá sản tại Việt Nam cho rằng thủ tục phá sản là thủ tục tư pháp chỉ bởi vì đây là thủ tục được tiến hành bởi Tòa án. Song cũng đã có ít nhiều sự nhận xét rằng đây là một thủ tục tư pháp đặc biệt vì nó không phải là một vụ án và không tiến hành thủ tục giống như giải quyết một vụ án… Tác giả của bài viết trên còn nhấn mạnh thêm: Một là, về triết lý lập pháp về phá sản hiện đại, cần nhìn nhận Luật phá sản như là thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán, quá trình tiến hành thủ tục phá sản chỉ có thể tiến hành khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Hai là, cần có nhận thức đầy đủ rằng khi một doanh nghiệp rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, sự can thiệp của Nhà nước có thể bằng các biện pháp hành chính hoặc tư pháp chứ không nhất thiết chỉ bằng biện pháp tư pháp, do vậy thủ tục phá sản không nhất thiết phải là biện pháp tư pháp.
Chúng tôi ủng hộ quan điểm của TS. Dương Kim Thế Nguyên về bản chất của thủ tục phá sản như là thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán của DN, HTX. Do vậy, việc xử lý, thanh lý tài sản của chủ thể mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản cũng cần được nhìn nhận dưới góc độ phù hợp hơn chứ không nên áp dụng một cách gượng ép các thủ tục thi hành án thông thường. Điều này sẽ dẫn đến nhiều vấn đề khó khăn, bất cập cho các chủ thể tham gia tổ chức thi hành quyết định tuyên bố phá sản như đã phân tích ở phần trước.
Theo quy định trong pháp luật phá sản của một số nước trên thế giới đều thể hiện vai trò của người quản lý tài sản trong suốt quá trình giải quyết phá sản, chẳng hạn:
Theo pháp luật về phá sản ở Nhật Bản:
Cùng với việc ra quyết định phá sản, Toà án chỉ định nhân viên quản lý tài sản của doanh nghiệp bị phá sản. Trường hợp doanh nghiệp bị phá sản không còn tài sản thì Toà án sẽ tuyên bố chấm dứt thủ tục phá sản ngay… Nhân viên quản lý tài sản quyết định việc bán tài sản theo thủ tục thông thường hoặc tổ chức bán đấu giá, quyết định việc dừng kinh doanh hay để doanh nghiệp mắc nợ tiếp tục kinh doanh. Tất cả tiền thu được phải gửi vào một tài khoản riêng và mục tiêu là chuyển toàn bộ tài sản của DN bị phá sản thành tiền để thanh toán cho giai đoạn tiếp theo. Nhân viên quản lý có quyền hủy những hành vi nhất định được thực hiện trước khi có quyết định tuyên bố phá sản mà gây thiệt hại đối với các chủ nợ…
Sau khi thanh lý hoàn toàn, người quản lý tài sản tiến hành phân chia tài sản của công ty bị phá sản lần cuối với sự phê chuẩn của Toà án. Sau đó, Toà án triệu tập một cuộc họp toàn thể các chủ nợ để nhân viên quản lý tài sản trình bày về mặt tài chính. Khi giá trị của khối tài sản phá sản không đủ để trả các chi phí phá sản thì Toà án tuyên bố chấm dứt thủ tục phá sản9.
Như vậy, người quản lý tài sản (quản tài viên), thực hiện các công việc liên quan đến thanh lý tài sản của DN bị phá sản từ khi được Tòa án chỉ định cho đến khi thanh lý xong hoàn toàn tài sản còn lại của DN phá sản dưới sự giám sát và chỉ đạo của Tòa án.
Pháp luật về phá sản ở Pháp:
Luật phá sản năm 1985 quy định, theo những chứng cứ do người nộp đơn đưa ra, Toà án sẽ quyết định áp dụng thủ tục nào, nếu áp dụng thủ tục phục hồi thì Toà án sẽ chỉ định người giám sát DN. Người giám sát DN sẽ đánh giá khả năng của DN, nếu có khả năng phục hồi, người này sẽ đề nghị Toà án cho áp dụng thủ tục phục hồi. Người đề nghị sẽ xây dựng kế hoạch phục hồi. Trong trường hợp ngược lại, DN sẽ bị làm thủ tục phá sản. Người giám sát DN sẽ xây dựng và chuẩn bị kế hoạch bán DN10.
Pháp luật về phá sản ở Hoa Kỳ:
Theo Bộ luật phá sản hiện hành của Hoa Kỳ, thì khi giải quyết phá sản Tòa án cũng sẽ chỉ định một QTV (trustee), để thực hiện các công việc như kiểm tra các khoản nợ, bán tài sản theo quyết định của thẩm phán, thanh toán các khoản nợ từ tiền xử lý tài sản của chủ thể bị phá sản…11.
Như vậy, có thể thấy pháp luật về phá sản của nhiều nước trên thế giới đều quy định trong thủ tục giải quyết phá sản luôn có một chủ thể không phải là người của Tòa án tham gian vào quá trình giải quyết pháp sản. Người này tham gia bằng sự chỉ định của Tòa án và thường hành nghề với tư cách cá nhân và được hưởng thù lao từ việc quản lý, thanh lý tài sản của chủ thể mất khả năng thanh toán, bị phá sản. Nhiệm vụ chính của họ cũng chính là tên gọi, đó là: Người quản lý tài sản, người giám sát DN, QTV… công việc của họ chủ yếu là quản lý tài sản, kiểm tra, xác minh các khoản nợ, giám sát hoạt động của chủ thể mất khả năng thanh toán, bán tài sản, đại diện thanh toán các khoản nợ cho các chủ nợ… Đồng thời, theo quy định của hầu hết các nước thì QTV sẽ tham gia từ giai đoạn mở thủ tục phá sản cho đến khi thanh lý xong tài sản và chấm dứt vụ việc phá sản.
Ở Việt Nam hiện nay, chế định người quản lý, thanh lý tài sản trong LPS năm 2014, có thể nói là một bước đột phá. Từ cơ chế làm việc tập thể theo các quy định về phá sản trước đây chuyển sang cơ chế làm việc cá nhân đã khắc phục được rất nhiều vấn đề bất cập của Tổ quản lý, thanh lý tài sản trước đây như sự thiếu linh hoạt, thiếu chuyên môn và chuyên nghiệp sang một cơ chế chịu trách nhiệm cá nhân, linh hoạt và chủ động phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, quy định này cũng đã bộc lộ một số bất cập, tồn tại như việc giám sát của CHV vừa mang tính hình thức vừa làm giảm sự chủ động linh hoạt của QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản và đặc biệt là việc cắt khúc, gián đoạn quá trình xử lý, thanh lý tài sản đã gây ra nhiều hệ quả tiêu cực ảnh hưởng đến hiệu quả của việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản.
4. Đề xuất, kiến nghị
Để đảm bảo cho QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản hoạt động một cách hiệu quả thì chúng ta cần xem xét đến các vấn đề sau:
Thứ nhất, phải tạo được một khung pháp lý đảm bảo cho QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản hoạt động một cách độc lập tương đối và linh hoạt, chủ động, tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình.
Thứ hai, phải có một cơ chế xử lý thanh lý tài sản mang tính đặc thù, hiệu quả và được điều chỉnh bởi các quy định phá luật phá sản…
Thứ ba, phải tạo được sự thống nhất, liên tục trong quá trình xử lý, thanh lý tài sản của DN, HTX bị phá sản không bị cắt khúc, gián đoạn như hiện nay.
Vì những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số vấn đề về mô hình, cơ chế hoạt động của QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản như sau:
Một là, nên quy định trách nhiệm, quyền hạn của QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản là tham giải quyết, xử lý, thanh lý tài sản từ khi được Tòa án chỉ định cho đến khi chấm dứt việc phá sản. Có nghĩa, QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản là người chịu trách nhiệm chính và xuyên suốt trong cả quá trình quản lý, giám sát hoạt động của DN, HTX bị mất khả năng thanh toán, xử lý tài sản của DN, HTX khi Tòa án mở thủ tục giải quyết phá sản và xử lý, thanh lý tài sản sau khi Tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản cho đến khi xử lý xong tài sản và chấm dứt việc phá sản. Đây là cách mà các nước trên thế giới thường áp dụng đối với QTV. Điều này sẽ tạo được sự thống nhất, chủ động, liên tục và tính tự chịu trách nhiệm đối với toàn bộ hoạt động do QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản thực hiện. Như vậy, đồng nghĩa với việc LPS của chúng ta phải bổ sung thêm nhiệm vụ quyền hạn cho QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản. Đồng thời, bãi bỏ quy định về việc chuyển giao cho CHV theo quy định tại Khoản 4 Điều 121 LPS doanh nghiệp năm 2014.
Hai là, thống nhất pháp luật áp dụng cho toàn bộ quá trình thi hành quyết định tuyên bố phá sản.
Các quy định pháp luật này nên có tính chất đặc thù, phù hợp với việc xử lý, thanh lý tài sản của DN, HTX phá sản chứ không nên áp dụng một cách miễn cưỡng các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự như hiện nay. Vì thủ tục giải quyết phá sản là một loại thủ tục đặc biệt. Ngay sau khi quyết định tuyên bố phá sản có hiệu lực pháp luật thì pháp nhân là DN, HTX bị phá sản (Người phải thi hành án) đã bị chấm dứt sự tồn tại. Do vậy, việc áp dụng pháp luật thi hành án dân sự để tiến hành xử lý, thanh lý tài sản trong một số trường hợp là không thể thực hiện được vì người phải thi hành án không tồn tại (Trong thủ tục thi hành án dân sự luôn luôn phải tồn tại một bên là người phải thi hành án và bên còn lại là người được thi hành án – một số trường hợp người được thi hành án có thể là Nhà nước).
Ba là, về cơ quan giám sát hoạt động của QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản. Trước hết cần khẳng định việc giám sát hoạt động xử lý, thanh lý tài sản của QTV, DN quản lý, thanh lý tài sản là hết sức cần thiết, việc giám sát sẽ đảm bảo cho hoạt động này được thực hiện đúng pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự. Chính vì vậy, việc giám sát này cũng cần phải có cơ chế hiệu quả và thực chất hơn. Chúng tôi cho rằng nên thống nhất trách nhiệm giám sát thuộc về một chủ thể và xuyên suốt cả quá trình giải quyết phá sản (cả trước và sau khi có quyết định tuyên bố phá sản) như nhiều nước trên thế giới đang thực hiện sẽ là phương án phù hợp và hiệu quả nhất./.
CHÚ THÍCH
- Bài viết là một phần trong kết quả nghiên cứu của Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở “Xử lý, thanh lý tài sản trong thi hành quyết định tuyên bố phá sản – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.
- Giảng viên, Cơ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Tư pháp.
- Điều 9 Thông tư liên tịch số 07/2018/TTLT-BTP-VKSNDTC-TANDTC do Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành, quy định việc phối hợp trong thi hành quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, có hiệu lực từ tháng 8/2018.
- Điều 17 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP, ngày 16/2/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật phá sản về quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản.
- Điều 59 Luật phá sản năm 2014.
- Điều 125 Luật phá sản năm 2014.
- Điều 15 TTLT số 07/2018/TTLT-BTP-VKSNDTC-TANDTC.
- Đặng Văn Huy (2012), Địa vị pháp lý của tổ quản lý và thanh lý tài sản theo pháp luật phá sản, Tạp chí Pháp luật và Doanh nghiệp số 2 (239).
- Phan Thị Thu Hà, Viện Khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao, Tìm hiểu pháp luật phá sản trên thế giới, https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2011/04/17/tm-hi%E1%BB%83u-php-lu%E1%BA%ADt-ph- s%E1%BA%A3n-trn-th%E1%BA%BF-gi%E1%BB%9Bi/.
- Phan Thị Thu Hà, Viện Khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao, tldd.
- Cara O’Neill, Attorney The Role of the Bankruptcy Trustee in Chapter 7, https://www.nolo.com/legal- encyclopedia/bankruptcy-trustee-chapter-7.html.
Trả lời