Mục lục
Pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện
Tác giả: Nguyễn Minh Hằng [1] & Nguyễn Ngọc Yến [2]
TÓM TẮT
Thuế giá trị gia tăng là một loại thuế quan trọng trong hệ thống thuế của Việt Nam với sự đóng góp lớn vào nguồn thu ngân sách nhà nước. Để thuế giá trị gia tăng phát huy được tối đa vai trò của mình, ngoài việc chính sách thuế giá trị gia tăng phải không ngừng hoàn thiện, thì một nội dung cũng cần hoàn thiện và đóng vai trò quan trọng không kém, đó là chính sách quản lý thuế giá trị gia tăng. Luật quản lý thuế năm 2019 cùng với các văn bản hướng dẫn được ban hành, đã hoàn thiện đáng kể pháp luật về quản lý thuế nói chung, quản lý thuế giá trị gia tăng nói riêng. Tuy nhiên, giữa các quy định của pháp luật vẫn còn một số nội dung chưa hợp lý, ảnh hưởng đến quá trình quản lý thuế giá trị gia tăng trên thực tiễn, đòi hỏi cần có những hướng dẫn cụ thể hoặc sửa đổi, bổ sung để khắc phục những điểm bất cập đang tồn tại.
1. Khái quát pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng
Theo nghĩa hẹp, quản lý thuế giá trị gia tăng được hiểu là hoạt động của cơ quan quản lý thuế từ trung ương đến địa phương trong việc tổ chức thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng (GTGT), với các hoạt động chính gồm tổ chức, chấp hành và điều hành các công việc liên quan đến quá trình thu, nộp thuế GTGT vào ngân sách nhà nước nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Quản lý thuế GTGT là một bộ phận của hoạt động quản lý thuế, vừa mang những dấu hiệu của quản lý thuế, vừa mang những dấu hiệu đặc thù gắn liền với đặc trưng của thuế GTGT.
Pháp luật điều chỉnh đối với hoạt động quản lý thuế giá trị gia tăng cũng được xác định với tư cách là một bộ phận pháp luật về quản lý thuế, là tổng hợp các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản lý thuế giá trị gia tăng của Nhà nước. Pháp luật về quản lý thuế GTGT có vai trò quan trọng trong việc quản lý và điều hành chính sách thuế GTGT, là cơ sở để tổ chức thực hiện luật thuế GTGT. Hay nói cách khác, hiệu quả thực hiện luật thuế GTGT đến đâu còn phụ thuộc khá lớn vào Luật quản lý thuế, điều chỉnh đối với việc quản lý thuế GTGT.
Về mặt cấu trúc, pháp luật điều chỉnh đối với hoạt động quản lý thuế giá trị gia tăng có thể được chia thành hai nhóm chính: Thứ nhất là nhóm các quy phạm pháp luật quy định về thủ tục hành chính trong quản lý thuế giá trị gia tăng, bao gồm các quy phạm quy định về đăng ký thuế; kỳ tính thuế, kê khai thuế và tính thuế giá trị gia tăng; ấn định thuế giá trị gia tăng; nộp thuế giá trị gia tăng; hoàn thuế giá trị gia tăng; xoá nợ tiền thuế, tiền phạt. Thứ hai là nhóm các quy phạm pháp luật quy định về giám sát, đảm bảo sự tuân thủ pháp luật quản lý thuế giá trị gia tăng, bao gồm các quy phạm quy định về quản lý thông tin người nộp thuế giá trị gia tăng; kiểm tra, thanh tra thuế giá trị gia tăng; xử lý vi phạm hành chính về quản lý thuế giá trị gia tăng và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế giá trị gia tăng; khiếu nại, tố cáo và giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình quản lý thuế giá trị gia tăng.
2. Thực trạng pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay, pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật về chính sách thuế giá trị gia tăng và các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý thuế. Trong đó, chủ yếu các quy định về quản lý thuế giá trị gia tăng được ghi nhận trong quy định về quản lý thuế để đảm bảo tính thống nhất, tập trung trong việc thực hiện các hoạt động mang tính thủ tục về thuế giá trị gia tăng giữa người nộp thuế và cơ quan quản lý thuế. Ngoài ra, một số quy định có liên quan đến quản lý thuế giá trị gia tăng được ghi nhận trong pháp luật về chính sách thuế giá trị gia tăng như quy định về các trường hợp hoàn thuế để đảm bảo sự đặc thù của thuế giá trị gia tăng so với một số loại thuế khác trong hệ thống pháp luật thuế. Mặc dù có sự phân tách trong các quy định điều chỉnh về quản lý thuế giá trị gia tăng như vậy, nhưng các quy định đều không có sự mâu thuẫn, gây trở ngại trong việc quản lý thuế giá trị gia tăng của các cơ quan quản lý thuế và không tạo khó khăn cho các chủ thể nộp thuế giá trị gia tăng.
Thêm vào đó, các quy định của pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng thường xuyên được sửa đổi, bổ sung để đảm bảo giải quyết được những bất cập phát sinh trong thực tiễn. Gần đây nhất, Luật quản lý thuế năm 2019 được Quốc hội thông qua, có hiệu lực từ ngày 01/7/2020, cùng với đó, các Nghị định, Thông tư hướng dẫn cũng được Chính phủ, Bộ Tài chính ban hành kịp thời, tạo điều kiện cho quá trình thực thi pháp luật về quản lý thuế nói chung, quản lý thuế giá trị gia tăng nói riêng được thuận lợi. Các quy định của pháp luật đã tạo cơ sở pháp lý toàn diện, đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ giữa Luật quản lý thuế và Luật thuế giá trị gia tăng, một mặt hướng tới hoạt động quản lý thuế giá trị gia tăng một cách công khai, minh bạch, đơn giản hoá, dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, nhưng mặt khác vẫn nâng cao được hiệu quả công tác quản lý thuế để phòng chống trốn thuế, thất thu và nợ đọng thuế giá trị gia tăng. Ngoài ra, các quy định về quản lý thuế giá trị gia tăng hiện hành cũng góp phần quan trọng trong việc tạo ra hành lang pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong công tác quản lý thuế, thể hiện qua việc triển khai, áp dụng và hoàn thiện mô hình quản lý thuế điện tử, giao dịch điện tử trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, pháp luật quy định về quản lý thuế giá trị gia tăng vẫn còn tồn tại một số điểm bất cập, gây khó khăn cho quá trình áp dụng trên thực tế, hoặc làm giảm hiệu quả quản lý thuế giá trị gia tăng ở mức độ nhất định. Có thể chỉ ra một số hạn chế sau đây:
Thứ nhất, bất cập trong quy định về xử lý đối với việc chậm nộp thuế.
Một là, quy định về trường hợp phải nộp tiền chậm nộp thuế không đảm bảo quyền lợi của các doanh nghiệp xuất khẩu khi gặp những lý do khách quan. Luật quản lý thuế quy định, người nộp thuế khai bổ sung hồ sơ khai thuế làm giảm số tiền thuế đã được hoàn trả thì phải nộp tiền chậm nộp đối với số tiền thuế đã hoàn trả phải thu hồi kể từ ngày nhận được tiền hoàn trả từ ngân sách nhà nước3. Như vậy, đối với trường hợp doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá, đã kê khai và được cơ quan thuế giải quyết hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hoá xuất khẩu theo quy định, sau đó khách hàng nước ngoài trả lại hàng hoá đã xuất, lúc này, doanh nghiệp phải thực hiện khai bổ sung hồ sơ khai thuế của kỳ tính thuế khai xuất khẩu hàng hoá bị trả lại, đồng thời phải nộp lại số tiền thuế giá trị gia tăng đã được hoàn tương ứng với giá trị hàng hoá xuất khẩu bị trả lại và nộp tiền chậm nộp thuế theo quy định. Thời gian tính tiền chậm nộp kể từ ngày nhận được tiền hoàn trả từ ngân sách nhà nước.
Thực tế, khi nhận lại hàng hoá, doanh nghiệp phải tiến hành kê khai, nộp lại tiền thuế giá trị gia tăng đã được hoàn trước đây là điều hợp lý, nhưng việc doanh nghiệp phải nộp tiền chậm nộp tính từ lúc nhận được tiền hoàn thuế được coi là điểm bất công đối với doanh nghiệp. Bởi lẽ, doanh nghiệp không thể biết trước được việc lô hàng đó bị trả lại và bị trả lại vào thời điểm nào. Chưa kể có những lô hàng xuất khẩu vài tháng sau mới bị trả lại khiến khoản tiền chậm nộp mà doanh nghiệp phải chi trả rất lớn, gây ra gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp.
Hai là, quy định về mức tính tiền chậm nộp thuế một mặt không đảm bảo tính linh hoạt, mặt khác có thể dẫn đến việc người nộp thuế cố tình chây ỳ, chậm nộp tiền thuế để thực hiện các mục đích khác. Theo đó, khi người nộp thuế chậm nộp tiền thuế sẽ phải nộp tiền chậm nộp thuế với mức tính bằng 0,03%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp4. Việc quy định cứng như vậy không đảm bảo tính linh hoạt, bởi lẽ mức tính tiền chậm nộp này cần phải dựa theo thực trạng hoạt động của nền kinh tế, tình hình hoạt động của doanh nghiệp để xác định, từ đó mới đạt được hiệu quả răn đe, thôi thúc người nộp thuế nộp thuế đúng thời hạn. Nếu trong bối cảnh năm 2020 – 2021, với yếu tố dịch bệnh ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp, mức 0,03% tỏ ra hợp lý khi thể hiện sự nuôi dưỡng nguồn thu, tạo điều kiện và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, đồng thời cũng tương ứng với mức lãi suất cho vay VND phổ biến hiện nay là từ 6 – 9%/năm đối với các khoản cho vay ngắn hạn của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, khi nền kinh tế ổn định, sức hoạt động và phát triển của doanh nghiệp tốt, thì mức tiền chậm nộp 0,03% sẽ tỏ ra không phù hợp. Khi đó, vô hình chung sẽ khiến cho các doanh nghiệp có tâm lý chây ỳ nộp thuế, bởi mức tiền chậm nộp thấp hơn nhiều so với khoản thu được từ việc chậm nộp thuế.
Thứ hai, bất cập trong quy định về hoàn thuế giá trị gia tăng.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế, nếu có số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ hết trong tháng hoặc quý thì được khấu trừ vào kỳ tiếp theo, ngoại trừ cơ sở kinh doanh có dự án đầu tư mới, đang trong giai đoạn đầu tư và cơ sở kinh doanh có hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu. Đối với cơ sở kinh doanh thuộc vào một trong hai trường hợp này có số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ từ 300 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế giá trị gia tăng theo tháng, quý5. Tuy nhiên, chính sách hoàn thuế này đã tạo nên sự không công bằng giữa các cơ sở kinh doanh, đồng thời chưa cho thấy sự hỗ trợ của Nhà nước trong sự phát triển một số loại hình cơ sở kinh doanh đặc biệt. Những cơ sở kinh doanh chúng tôi muốn đề cập trong trường hợp này gồm:
Một là, các doanh nghiệp khởi nghiệp. Việc quy định các cơ sở kinh doanh sẽ được khấu trừ thuế vào kỳ tiếp theo nếu có số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ hết, bất kể thời gian khấu trừ vào các kỳ tính thuế tiếp theo là bao lâu và số tiền chưa khấu trừ hết ở mức độ nào tỏ ra không công bằng đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp. Bởi lẽ, các doanh nghiệp này đã đầu tư một lượng vốn ban đầu rất lớn nhưng đang trong quá trình đầu tư, chưa phát sinh doanh thu, chưa phát sinh thuế giá trị gia tăng đầu ra hoặc đã phát sinh nhưng rất thấp sẽ không được hoàn thuế. Trong khi đó, hơn ai hết, đây là nhóm cơ sở kinh doanh có nhu cầu về vốn rất lớn để phục vụ cho sự hoạt động và phát triển của mình, nhưng số vốn đó lại bị đọng lại tại cơ quan quản lý thuế. Điều này vô hình chung tạo nên khó khăn rất lớn về tài chính cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.
Hai là, các cơ sở kinh doanh sản xuất, kinh doanh các mặt hàng được áp dụng thuế suất thuế giá trị gia tăng là 5%, nhưng thuế suất thuế giá trị gia tăng khi họ mua sắm nguyên, vật liệu, nhiên liệu hoặc nhập khẩu thiết bị để nâng cấp, bổ sung, thay thế thiết bị cũ, lạc hậu hoặc hết giá trị sử dụng… là 10%. Hay nói cách khác, đây là những cơ sở kinh doanh có hàng hoá, dịch vụ mua vào chịu thuế suất thuế giá trị gia tăng là 10% nhưng hàng hoá, dịch vụ bán ra chịu thuế suất thuế giá trị gia tăng là 5%. Ở những trường hợp này, số thuế giá trị gia tăng đầu vào sẽ lớn hơn số thuế giá trị gia tăng đầu ra, không thể khấu trừ hết trong nhiều kỳ. Do đó, việc áp dụng khấu trừ thuế vào kỳ tính thuế tiếp theo không đảm bảo được quyền lợi của doanh nghiệp, đồng thời, doanh nghiệp cũng không được khấu trừ vào nghĩa vụ thuế khác với Nhà nước. Bất cập này khiến cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc có nguồn vốn để thực hiện đầu tư, sản xuất, kinh doanh.
3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam
Dựa trên một số điểm hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng nói trên, chúng tôi đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định như sau:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quy định về xử lý đối với việc chậm nộp tiền thuế theo hướng:
Một là, không hồi tố thời gian chậm nộp thuế giá trị gia tăng khi tái nhập hàng xuất khẩu đã được hoàn thuế giá trị gia tăng bị trả về. Theo đó, việc xác định tiền chậm nộp được tính từ thời điểm hàng hoá được trả về đến cửa khẩu Việt Nam và doanh nghiệp nhận lại hàng hoá đó, thay vì được tính lùi về thời điểm doanh nghiệp được cơ quan quản lý thuế tiến hành hoàn thuế giá trị gia tăng. Quy định như vậy một mặt sẽ góp phần không gây gánh nặng tài chính cho doanh nghiệp, đồng thời thể hiện được sự chia sẻ của Nhà nước trong trường hợp doanh nghiệp gặp rủi ro khi hàng hoá không được xuất khẩu theo kế hoạch kinh doanh, nhưng mặt khác vẫn đảm bảo khả năng tạo nguồn thu ngân sách nhà nước và có sự đối xử khác biệt mang tính răn đe với người nộp thuế sử dụng tiền của Nhà nước khi không thoả mãn đủ điều kiện.
Hai là, không quy định cứng mức tiền chậm nộp trong Luật quản lý thuế. Theo đó, luật chỉ quy định mang tính nguyên tắc về việc người nộp thuế sẽ phải nộp tiền chậm nộp, còn mức quy định cụ thể nên giao cho Chính phủ ban hành trong các Nghị định hướng dẫn. Như vậy vừa đảm bảo tính linh hoạt trong hoạt động điều hành của Chính phủ, vừa đảm bảo phù hợp với thực trạng phát triển của nền kinh tế và mang tính răn đe đối với người nộp thuế khi tuỳ từng thời điểm sẽ quy định mức tiền chậm nộp tương ứng.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung quy định về hoàn thuế giá trị gia tăng theo hướng:
Xem xét hoàn thuế giá trị gia tăng cho các doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh các mặt hàng đang áp dụng thuế suất 5% nhưng phát sinh hoạt động mua bán hàng hoá, dịch vụ chịu thuế suất 10%, có phát sinh số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ hết. Để đảm bảo sự thống nhất trong các quy định của pháp luật, có thể quy định về số tiền chưa được khấu trừ thuế từ 300 triệu đồng trở lên sẽ được xem xét hoàn thuế giá trị gia tăng. Việc bổ sung quy định này cũng là một cách thức để những cơ sở kinh doanh trên giải quyết những khó khăn trong giai đoạn đầu tư, đồng thời, thể hiện chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với sự hoạt động và phát triển của các cơ sở kinh doanh, đặc biệt là đối với doanh nghiệp khởi nghiệp./.
CHÚ THÍCH
- Tiến sĩ, Giảng viên Khoa Pháp luật Kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Thạc sĩ, Giảng viên Khoa Pháp luật Kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Điểm c Khoản 1 Điều 59 Luật quản lý thuế năm 2019.
- Điểm a Khoản 2 Điều 59 Luật quản lý thuế năm 2019.
- Khoản 1, Khoản 2 Điều 13 Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2013.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Chính phủ (2008), Tờ trình số 438/TTr- CP ngày 05/10/2018 về dự án Luật quản lý thuế (sửa đổi).
- TS. Trần Thị Vân Anh (2020), Một số vấn đề về quản lý thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Tài chính, kỳ 1, tháng 3/2020.
- Học viện Tài chính (2010), Giáo trình Quản lý thuế, Nxb. Tài chính, Hà Nội.
Trả lời