Mục lục
Nguyên tắc bình đẳng quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính
Tác giả: Tạ Quang Ngọc [1]
TÓM TẮT
Bình đẳng là một trong những điểm tiến bộ của mỗi xã hội dân chủ, là mong ước, khát vọng của nhân loại. Vì vậy, bình đẳng trước pháp luật là nguyên tắc cơ bản, quan trọng không chỉ được ghi nhận ở trong Hiến pháp mà nó còn được thể hiện ngay trong lời mở đầu của Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền. Ở nước ta, ngay sau khi giành được độc lập, bình đẳng là quyền cơ bản, quan trọng được ghi nhận trong Tuyên ngôn độc lập và quy định trong các bản Hiến pháp, được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật. Ở đó, bình đẳng trước pháp luật nói chung và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ được thể hiện trong các luật tố tụng (hình sự, dân sự, hành chính…). Trong đó, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính là một trong những nguyên tắc nhằm bảo đảm quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân. Nguyên tắc đó không chỉ là quy định của pháp luật tố tụng hành chính mà nó còn được Nhà nước ngày càng mở rộng, hoàn thiện và bảo đảm trong thực tế của đời sống xã hội.
1. Đặt vấn đề
Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật là một quyền hiến định (được ghi nhận trong các bản Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992 (sửa đổi năm 2001) và Hiến pháp năm 2013), là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Quy định này tiếp tục được cụ thể hóa trong văn bản pháp luật nói chung và trong pháp luật tố tụng hành chính nói riêng, với sự kế thừa, phát triển thể hiện sự nhận thức nhất quán của Đảng, Nhà nước ta và coi trọng, bảo đảm quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân. Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ không chỉ được thực hiện thông qua hoạt động hành chính nhà nước, trong mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tổ chức (là đối tượng quản lý) mà còn được thể hiện giữa chủ thể quản lý nhà nước (cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền quản lý) với đối tượng quản lý. Nguyên tắc đó tiếp tục được cụ thể hóa trong các quy định của hệ thống pháp luật tố tụng để giải quyết những tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể thông qua thẩm quyền của Tòa án. Đặc biệt là giải quyết tranh chấp hành chính giữa một bên là cơ quan công quyền với một bên là cá nhân, tổ chức thì nguyên tắc bình đẳng là cơ sở, là công cụ để các bên tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hành chính được bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của mình. Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính là một trong những nội dung pháp lý quan trọng không chỉ nhằm bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân mà còn thể hiện thái độ, trách nhiệm của nhà nước, thông qua thể chế pháp luật (quy định của pháp luật trong hoạt động tư pháp mà cụ thể là hoạt động tố tụng hành chính). Qua đó, thể hiện sự dân chủ, tiến bộ của chế độ xã hội, mối quan hệ mật thiết giữa nhà nước, nghĩa vụ của công dân đối với nhà nước và trách nhiệm của nhà nước đối với công dân.
Tuy nhiên, quá trình tổ chức thực hiện pháp luật với những nguyên nhân khác nhau mà nguyên tắc này vẫn chưa phát huy hiệu quả, nhiều khi vẫn còn mang tính hình thức và chưa thực sự được bảo đảm đối với đương sự là người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan trong quá trình giải quyết vụ án hành chính. Ở đó, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hành chính có vai trò rất quan trọng, nhất là đối với Tòa án thì việc bảo đảm bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ tố tụng hành chính phụ thuộc rất nhiều vào chủ thể tiến hành tố tụng hành chính (Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án tòa án, Thẩm phán, Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên…). Chính vì vậy, nhận thức đầy đủ đối với việc giải quyết vụ án hành chính (trong toàn bộ các giai đoạn tố tụng hành chính, kể từ khi thụ lý đến thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính) để nguyên tắc bình đẳng về quyền, nghĩa vụ trong tố tụng hành chính là một trong các yêu cầu, nhiệm vụ bức thiết đặt ra hiện nay. Có như vậy, Tòa án mới thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
2. Thực trạng quy định pháp luật về nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính
Bình đẳng về quyền, nghĩa vụ nghĩa vụ được xác định là một trang những nội dung cơ bản để bảo đảm quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân là nguyên tắc quan trọng thể hiện trong quan điểm, đường lối của Đảng và được thể chế hóa vào Hiến pháp và pháp luật Nhà nước. Tuy nhiên, quyền bình đẳng đó được thể hiện ở nhiều lĩnh vực, phương diện khác nhau và được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật nói chung và trong pháp luật tố tụng hành chính nói riêng.
Điều 17 Luật tố tụng hành chính (LTTHC) năm 2015 quy định:
“1. Trong tố tụng hành chính, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội.
2/ Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính trước Tòa án.
3/ Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình”.
Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng nói chung và trong tố tụng hành chính có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Thực tế, để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hành chính được chính xác, kịp thời, đúng pháp luật, tăng cường pháp chế, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong vụ án hành chính thì bình đẳng về quyền và nghĩa vụ là điều kiện cần thiết để các chủ thể của tố tụng hành chính (bao gồm chủ thể tiến hành và chủ thể tham gia tố tụng hành chính) không chỉ thực hiện tốt quyền mà còn phải thực hiện cả nghĩa vụ của mình với tinh thần trách nhiệm cao nhất, trên cơ sở quy định của pháp luật. Chính vì vậy, nguyên tắc này phải được thể hiện đầy đủ trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hành chính (ở tất cả các giai đoạn thụ lý, chuẩn bị xét xử, xét xử, thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính); Điều đó không chỉ được thể hiện ở việc cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 (Điều 16) vào LTTHC năm 2015 mà còn được thể hiện thông qua việc quy định chi tiết tại Khoản 2 Điều 4 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định thời hạn, trình tự, thủ tục thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính; biện pháp xử lý trách nhiệm đối với người không thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Cụ thể là: “…2. Người được thi hành án, người phải thi hành án bình đẳng trước pháp luật…”.
Có thể khái quát về nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính ở ba nhóm như sau:
Nhóm thứ nhất: Nhóm nguyên tắc bình đẳng của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong pháp luật tố tụng hành chính. Nhóm nguyên tắc này được pháp luật tố tụng hành chính quy định cụ thể về sự bình đẳng của mọi chủ thể tham gia quan hệ tố tụng hành chính gồm các cơ quan, tổ chức, cá nhân, đó là: “Trong tố tụng hành chính, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội”.
Nhóm nguyên tắc này được pháp luật quy định quy định về sự bình đẳng của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quan hệ tố tụng hành chính đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt về dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội. Nguyên tắc: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” được ghi nhận tại Khoản 1 Điều 16 Hiến pháp năm 2013 và được cụ thể hóa tại Khoản 1 Điều 17 LTTHC năm 2015. Đây là căn cứ, cơ sở pháp lý quan trọng để các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hành chính phải nghiêm chỉnh thực hiện, bảo đảm sự công bằng, bình đẳng, không phân biệt về dân tộc, nam nữ hay chủ thể đó giữ cương vị, trọng trách nào trong xã hội…tất cả mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân không xác định về hình thức tổ chức, vị trí trong hệ thống chính trị, cán bộ, công chức hay công dân đều phải được đối xử công bằng, được thực hiện bình đẳng như nhau, có quyền, nghĩa vụ tố tụng hành chính như nhau và phải thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính.
Nội dung của nguyên tắc này cũng thể hiện trong tố tụng hành chính (giữa các đương sự) khi thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng thông qua hành vi của mình phải bảo đảm bình đẳng, như nhau không phân biệt đó là cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế… tôn chỉ, mục đích hoạt động thì họ đều có quyền khởi kiện vụ án hành chính; lựa chọn các phương thức tham gia tố tụng hành chính, đối thoại hay không đối thoại, quyền tranh luận, phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án hành chính. Đối với người bị kiện cũng đều có quyền được biết về nội dung bị khởi kiện, đưa ra bằng chứng, cung cấp các tài liệu về hoạt động hợp pháp của mình.
Nhóm thứ hai: Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự với nhau trong quá trình giải quyết vụ án hành chính. Nguyên tắc này được thể hiện ở nội dung: “Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính trước Tòa án”. Nội dung bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự với nhau trong quá trình giải quyết vụ án hành chính (được quy định tại Khoản 2 Điều 17 LTTHC năm 2015). Sự bình đẳng này được quy định đối với các đương sự nhất định (giữa nhóm đương sự và những người tham gia tố tụng hành chính khác). Chẳng hạn cùng là tư cách tham gia tố tụng, nhưng nhóm đương sự người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (hoặc người đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự) khác với nhóm người tham gia tố tụng khác như người làm chứng, người phiên dịch, người giám định. Đây là các chủ thể tham gia để hỗ trợ Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hành chính được đúng đắn, khách quan, đúng pháp luật nên quyền, nghĩa vụ của họ khác với các đương sự (người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan) và họ tham gia cũng không hướng đến mục đích là nhằm để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích của mình. Bản án, quyết định của Tòa án không tác động đến lợi ích của họ.
Tuy nhiên, sự bình đẳng giữa các đương sự ở đây cũng nên được hiểu đó là giữa người khởi kiện, người bị kiện trong tố tụng hành chính không có sự khác biệt về quyền, nghĩa vụ, không có ngoại lệ hoặc đặc ân, đặc cách hay đặc quyền nào đối với họ và khi thực hiện nghĩa vụ của mỗi bên có thể pháp luật quy định khác nhau (như nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí hành chính đối với người khởi kiện) và có những nghĩa vụ chỉ quy định đối với người bị kiện (như nghĩa vụ chứng minh).
Nhóm thứ ba: Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện để các đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật, nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 12 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014: “Tòa án xét xử theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội; cá nhân, cơ quan, tổ chức đều bình đẳng trước Tòa án”. Khoản 3 Điều 17 LTTHC năm 2015 quy định: “Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình”.
Để bảo đảm cho việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia tố tụng hành chính được bình đẳng còn phụ thuộc vào sự công tâm, khách quan, tôn trọng pháp luật của Tòa án. Vì vậy, Tòa án có trách nhiệm thực hiện tốt quy định của pháp luật tố tụng hành chính, tạo điều kiện để các đương sự tham gia thực hiện tốt các quyền, nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hành chính.
Thực tế, nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và bình đẳng trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của các đương sự sẽ chỉ mang lại giá trị, thực chất (không mang tính hình thức) khi đi cùng với những quy định của pháp luật là các phương tiện, biện pháp, những bảo đảm về cơ chế tổ chức, thực hiện… mà ở đó, vị trí, vai trò không thể thiếu của Tòa án. Tòa án phải đề cao, coi trọng nguyên tắc bình đẳng trong các giai đoạn giải quyết vụ án hành chính. Đặc biệt là tố tụng hành chính, khi một bên đương sự là đối tượng quản lý hành chính nhà nước và người bị kiện là cơ quan công quyền hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước, đây là tính đặc thù so với quá trình giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động,… nên việc giải quyết vụ án hành chính có những điểm khác biệt nhất định so với giải quyết các vụ án khác (vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động…).
Sự khác biệt đối với quyền bình đẳng về quyền, nghĩa vụ được trong quá trình giải quyết các vụ án, các bên phát sinh tranh chấp hợp đồng kinh tế, lao động, dân sự có thể được lựa chọn theo các phương thức giải quyết khác nhau như thông qua thương lượng, thỏa thuận, hòa giải hoặc theo thủ tục tố tụng. Ở đó, sự bình đẳng này được thể hiện thông qua quyền tự định đoạt, bình đẳng về ý chí, về quyền và nghĩa với nhau trước cơ quan có thẩm quyền giải quyết, được pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện nay từ khi các bên xác lập quan hệ pháp luật hoặc khi phát sinh quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh (như hành vi gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường trong quan hệ pháp luật dân sự, hành vi vi phạm hợp đồng trong dân sự, kinh tế, lao động) thì các chủ thể này đều có các quyền, nghĩa vụ như nhau. Quyền nghĩa vụ này xuất phát từ tư cách chủ thể trong quan hệ pháp luật mà các bên tham gia, được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật và để bảo đảm sự bình đẳng đó các bên đều phải thể hiện sự trung thực, không ép buộc, lừa dối, giả tạo khi ký kết hợp đồng với nhau.
Đối với các tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật hành chính, xuất phát từ đặc trưng phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là quyền lực – phục tùng, thể hiện “sự không bình đẳng” giữa các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước và một bên tham gia có quyền “áp đặt ý chí” của mình tới đối tượng quản lý nhà2. Đồng thời, trong các quan hệ pháp luật dân sự, kinh tế, lao động nếu các bên vi phạm thì phải chịu trách nhiệm với nhau, còn bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính vi phạm yêu cầu của pháp luật hành chính thì phải chịu trách nhiệm trước nhà nước3 .
3. Đánh giá quy định pháp luật và thực tiễn bảo đảm nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính
Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính được quy định tương đối đầy đủ trong hệ thống pháp luật nước ta (Điều 16 Hiến pháp năm 2013, Điều 12 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Điều 17 LTTHC năm 2015). Tuy nhiên, xuất phát từ đặc trưng phương pháp điều chỉnh, địa vị pháp lý (tư cách) của các chủ thể trong quan hệ pháp luật hành chính nên nó tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong tố tụng hành chính hiện nay. Với 03 nhóm cơ bản gồm:
(i) Trong tố tụng hành chính, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội. Ở đó, pháp luật nói chung và LTTHC nói riêng đã ghi nhận, cụ thể hóa đối với bình đẳng, bảo đảm để mọi công dân đều được bình đẳng trước pháp luật, trước Tòa án, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp.
Nguyên tắc này được thể hiện cụ thể trong mọi giai đoạn của tố tụng hành chính, bao gồm các nội dung chủ yếu là: Bình đẳng đối với việc chứng minh, cung cấp chứng cứ, ở đó các bên đương sự tham gia tố tụng hành chính đều có quyền cung cấp chứng cứ, đưa ra lập luận để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Mọi tài liệu, chứng cứ và lập luận của các đương sự đều được Tòa án xem xét chấp nhận, việc đánh giá được thực hiện công tâm, khách quan. Các bên đương sự đều bình đẳng khi đưa ra yêu cầu (như yêu cầu thay đổi chủ thể tiến hành tố tụng hành chính, yêu cầu triệu tập người làm chứng, yêu cầu giám định, yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời…). Bên cạnh đó, nguyên tắc bình đẳng của đương sự còn được pháp luật tố tụng hành chính quy định trong việc tham gia phiên tòa; trong thực hiện quyền kháng cáo đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án; bình đẳng trong việc kiến nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hành chính cũng như bình đẳng trong việc thực hiện khiếu nại, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật trong tố tụng hành chính…
(ii) Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính trước Tòa án mà không có sự phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và những vấn đề khác. Đồng thời, để các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực sự bình đẳng khi thực hiện quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính trước Tòa án, pháp luật tố tụng hành chính còn quy định đối với các đối tượng là cán bộ, công chức (trong ngành Tòa án, Viện kiểm sát, Thi hành án, Công an) không được tham gia tố tụng hành chính với tư cách là người đại diện hay người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều 60 LTTHC năm 2015). Sự quy định khác biệt về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể này không chỉ thể hiện sự vô tư, khách quan, công bằng trong tố tụng hành chính (như mối quan hệ giữa các chủ thể này với cơ quan tiến hành tố tụng hành chính, điều kiện làm việc, sự tiếp cận đối với các tài liệu, chứng cứ…) mà còn xuất phát từ thực tiễn hoạt động thi hành nhiệm vụ, công vụ của họ trong hoạt động tố tụng.
(iii) Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Để bảo đảm cho các đương sự thực sự được đối xử bình đẳng, thực hiện bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong quá trình giải quyết vụ án hành chính đòi hỏi Tòa án phải đề cao trách nhiệm, thực hiện đúng, đủ và tốt hơn nữa trách nhiệm của mình, tạo điều kiện cho các đương sự khi tham gia vụ án hành chính. Nội dung này rất quan trọng, bởi lẽ trong tố tụng hành chính bên bị kiện luôn là các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nên thực tế cho thấy các chủ thể bị kiện trong vụ án hành chính luôn có những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định, là chủ thể có nhiều thuận lợi so với người khởi kiện (là những cá nhân, tổ chức bị tác động bởi quyết định hành chính/hành vi hành chính của những chủ thể đó). Những thuận lợi đối với người bị kiện như sự hiểu biết, nhận thức, trình độ, chuyên môn, thậm chí là phương tiện, kinh phí, điều kiện vật chất, việc tiếp cận các hồ sơ, tài liệu, đôi khi chủ thể này còn có cả cơ quan chuyên môn, bộ phận tư vấn… và ngay cả khi tham gia tố tụng hành chính với tư cách là người bị kiện thì họ vẫn có những ảnh hưởng nhất định từ tư cách quyền lực công do họ đã và đang thực hiện đối với các hoạt động quản lý hành chính nhà nước; thực tế, việc tham gia tố tụng hành chính đôi khi chưa thực sự làm mất đi sự chi phối trong mối quan hệ cùng thực hiện quyền lực công của mình. Do đó, với địa vị, tư cách là chủ thể tiến hành tố tụng, nhân danh nhà nước Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện để các bên đương sự tham gia tố tụng hành chính thực hiện quyền nghĩa vụ của mình được công bằng, khách quan theo quy định của pháp luật.
Quy định của pháp luật và bảo đảm thực hiện nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính có một số ưu điểm, hạn chế nhất định.
Về ưu điểm: Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính đã được LTTHC năm 2015 và các văn bản pháp luật khác có liên quan quy định tương đối đầy đủ, phù hợp, tạo nên sự thống nhất, bước đầu đã khắc phục được sự quy định rải rác, tản mạn ở nhiều quy phạm pháp luật khác nhau…
So với Luật tố tụng năm 2010, Luật tố tụng năm 2015 có những quy định mới nhằm điều chỉnh quan hệ giữa chủ thể tiến hành tố tụng hành chính với chủ thể tham gia tố tụng hành chính hoặc giữa các đương sự với nhau (như quy định về đối thoại trong giải quyết vụ án hành chính) đã tạo điều kiện để các bên chủ thể trao đổi, thống nhất, bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình về các tranh chấp hành chính được Tòa án thụ lý để giải quyết. Qua đó, các bên được bình đẳng, tự định đoạt ý chí của mình và đi đến sự thống nhất về việc giải quyết vụ án, giảm bớt bất đồng, mâu thuẫn, tăng sự đồng thuận, nhất trí và giảm tải số lượng vụ việc giải quyết thuộc thẩm quyền của Tòa án nhưng vẫn đạt mục đích mà cả Tòa án và các bên đương sự đặt ra.
Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính tạo cơ sở pháp lý quan trọng để các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hành chính thực hiện đúng các quy định của pháp luật, trong đó xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các chủ thể tiến hành tố tụng hành chính, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia tố tụng hành chính, góp phần tiếp tục mở rộng, hoàn thiện quy định của pháp luật đối với thực hiện quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý hành chính nhà nước.
Về hạn chế: Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện nguyên tắc bình đẳng quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính còn bộc lộ những hạn chế bất cập nhất định. Cụ thể là tại Điều 17 LTTHC năm 2015 quy định: Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính, như vậy sẽ dẫn đến cách hiểu là quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án hành chính mà không bao gồm sự bình đẳng của mọi chủ thể như quy định tại Khoản 2 Điều 17: “Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân” và các cơ quan ở đây có những cơ quan hoặc người tiến hành tố tụng hành chính sẽ thực hiện theo nhiệm vụ, quyền hạn (được quy định tại Điều 37 đến Điều 44 LTTHC năm 2015). Do đó, cần bảo đảm sự thống nhất trong quy định pháp luật.
Quá trình kế thừa, phát triển các quy định của pháp luật về nguyên tắc “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Song đến nay, nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính vẫn chưa bảo đảm, có những quy định thiếu tính phù hợp và cụ thể, những hạn chế, bất cập này cần sớm được khắc phục để nâng cao hiệu quả và tính khả thi trong đời sống xã hội (Ví dụ như quy định về đối thoại, pháp luật chưa quy định rõ về người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự…), chưa quy định về trình tự, thủ tục đối thoại (có là thủ tục bắt buộc hay không)… Từ những quy định chung chung của pháp luật, chưa có văn bản quy định chi tiết hay hướng dẫn thi hành nên trong quá trình thực hiện đôi khi còn mang tính hình thức, chưa thực chất và nguyên tắc này chưa được tôn trọng triệt để và rất khó bảo đảm đối với các đương sự (nhất là đối với người khởi kiện, người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự).
4. Một số đề xuất, kiến nghị góp phần bảo đảm nguyên tắc tắc tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính
Hoạt động tố tụng hành chính là hoạt động thực thi pháp luật, thể hiện tính quyền lực nhà nước. Do vậy, hoạt động này được tiến hành bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cá nhân được trao quyền (gồm Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án, Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên…). Trong đó, Tòa án có vai trò quan trọng trong giải quyết các vụ án nói chung và đối với giải quyết vụ án hành chính nói riêng, bằng hoạt động của mình và trên cơ sở quy định của pháp luật, Tòa án có thẩm quyền (thông qua Hội đồng xét xử) ra các bản án, quyết định về vụ án hành chính. Để các bán án, quyết định đó được ban hành chính xác, đúng pháp luật, cùng với việc phải bảo đảm sự vô tư, khách quan, chỉ tuân theo pháp luật… nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính tiếp tục cần được tôn trọng. Vì trên thực tế áp dụng, thực hiện pháp luật đã bộc lộ những bất cập, hạn chế cần khắc phục đó là:
Thứ nhất, cần thường xuyên rà soát các quy định pháp luật tố tụng hành chính và các quy định pháp luật có liên quan đến bảo đảm bình đẳng nói chung, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính nói riêng để khắc phục sự quy định “rải rác” “tản mạn” trong các văn bản khác nhau, bảo đảm tính hệ thống, thống nhất của pháp luật với mục đích thực hiện bình đẳng giữa các chủ thể và phát huy tối ưu nguyên tắc này trong tố tụng hành chính.
Thứ hai, sớm hoàn thiện các quy định trong pháp luật tố tụng hành chính mà cụ thể là rà soát, sửa đổi, bổ sung LTTHC năm 2015 và các văn bản có liên quan. Việc sửa đổi, bổ sung theo hướng hoàn thiện quyền công dân, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân; bảo đảm để người khởi kiện, người bị kiện có thể tiếp cận hồ sơ, tài liệu, tham gia đối thoại, thi hành án hành chính, bình đẳng một cách “thực chất” về công bằng, bình đẳng trong quá trình giải quyết vụ án hành chính. Nghiên cứu, cân nhắc nên bổ sung, hoàn thiện hơn nữa các nguyên tắc của LTTHC nhất là quy định về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính.
Thứ ba, từ quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thi hành pháp luật tố tụng hành chính cũng như một số quy định pháp luật khác có liên quan thì việc bảo đảm bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính đã bộc lộ những bất cập nhất định như phân tích ở trên, các cơ quan có thẩm quyền cần có quy định cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có liên quan đến hoạt động giải quyết tranh chấp hành chính (bao gồm cả giải quyết theo phương thức khiếu nại (theo thủ tục hành chính) và (theo thủ tục tố tụng hành chính) thông qua việc khởi kiện vụ án hành chính) để xác định rõ trách nhiệm phối hợp của các cơ quan, tổ chức đang lưu giữ các tài liệu, chứng cứ có liên quan đến tranh chấp hành chính phải cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời khi có yêu cầu và bảo đảm quyền được tiếp cận hồ sơ, tài liệu của người khởi kiện theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, mặc dù LTTHC năm 2015 đã có nhiều quy định mới bổ sung theo hướng mở rộng quyền cho đương sự trong vụ án hành chính như quyền tham gia tố tụng từ khi khởi kiện vụ án hành chính hoặc quyền được sao chụp những tài liệu, chứng cứ, tham gia tranh tụng tại phiên tòa hoặc quy định: “không ai được hạn chế quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án hành chính”. Đây là những quy định quan trọng góp phần bảo đảm nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính, song cần phải có những thiết chế chặt chẽ, cơ chế phù hợp để kiểm tra, kiểm sát, giám sát việc thực hiện các nguyên tắc tố tụng hành chính, trong đó có nguyên tắc bình đẳng quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia tố tụng hành chính. Có như vậy, các nguyên tắc này mới phát huy tác dụng nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự trong giải quyết vụ án hành chính hiện nay./.
CHÚ THÍCH
- Tiến sỹ, Giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Trường Đại học Luật Hà Nội, (2020), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr.23-24.
- Trường Đại học Luật Hà Nội, (2020), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr.70.
Trả lời