Bàn về quyền và nghĩa vụ của hội có đăng ký trong Dự thảo Luật về Hội
Tác giả: TS. Lê Minh Hùng
TÓM TẮT
Hội là một thực thể của xã hội nên rất cần được Nhà nước thừa nhận. Chính vì vậy, địa vị pháp lý của hội cũng rất cần được quy định chính thức trong luật. Địa vị pháp lý của hội không chỉ được thể hiện ở điều kiện, thủ tục thành lập, chấm dứt và quản lý nhà nước về hội mà còn được thể hiện tập trung trong quy định về quyền và nghĩa vụ của hội. Bài viết bàn về cơ sở lý luận để xây dựng các quy định pháp luật quyền và nghĩa vụ của hội có đăng ký trong Dự thảo Luật về Hội.
Xem thêm bài viết về “Quyền và nghĩa vụ”
- Phân tích các quyền và nghĩa vụ của Người bào chữa theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Nghĩa vụ hạn chế tổn thất và vấn đề xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong Pháp luật thương mại – ThS. Nguyễn Thị Thanh Huyền
Trong điều kiện thực tiễn hiện nay, vai trò của các tổ chức hội ngày càng có ý nghĩa tích cực trong việc tập hợp quần chúng tham gia vào các hoạt động có ích cho xã hội. Chính vì thế, vấn đề điều chỉnh pháp luật về hội và địa vị pháp lý, đặc biệt là quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của hội rất cần được đặt ra nhằm tạo cơ sở pháp lý để thực hiện quyền lập hội của cá nhân, tổ chức. Quyền và nghĩa vụ của hội được quy định tại các Điều 25, 26 và các quy định khác liên quan trong Dự thảo Luật về Hội.
1. Quyền của hội có đăng ký theo Điều 25 và quy định khác có liên quan
Theo Điều 25 của Dự thảo Luật về Hội, hội có đăng ký có 7 quyền. Nhìn chung, quy định này đã thể hiện tương đối đầy đủ các quyền năng cơ bản mà hội cần có. Mặc dù vậy, quy định này vẫn còn bộc lộ nhiều khuyết điểm, cần có sự điều chỉnh.
1.1. Sửa đổi, bổ sung nhóm các quyền liên quan đến thành lập hội, quyền về tổ chức hội
Thứ nhất, về thời điểm phát sinh năng lực chủ thể của hội. Đối với hội có đăng ký, khoản 6 Điều 17 Dự thảo Luật về Hội có quy định: “Hội có tư cách pháp nhân và được hoạt động kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định công nhận điều lệ hội và người đại diện theo pháp luật của hội”. Điều khoản này dường như có sự tương thích với quy định về thời điểm một tổ chức có tư cách pháp nhân theo Bộ luật Dân sự năm 2015: “Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập; nếu pháp nhân phải đăng ký hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ thời điểm ghi vào sổ đăng ký” (khoản 2 Điều 86). Tuy vậy, điều khoản trên lại chưa có sự thống nhất với quy định về thời điểm phát sinh tư cách chủ thể của hội có đăng ký. Bên cạnh đó, nội dung quy định cũng chưa chuẩn xác, vì một tổ chức được coi là pháp nhân nếu đủ các điều kiện do Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định.[1] Việc đăng ký không đương nhiên làm phát sinh tư cách pháp nhân của hội. Nếu vẫn giữ quy định này thì sẽ có ý kiến suy luận rằng, hội có tư cách pháp nhân, nếu được đăng ký. Để tránh sự nhầm lẫn trong việc xác định tư cách pháp nhân của hội và thống nhất với quy định tương ứng khác, quy định cần được chỉnh sửa thích hợp.
Theo tác giả, nên điều chỉnh lại khoản 6 Điều 17 (bỏ đoạn “và được hoạt động”), đồng thời bổ sung điều kiện được công nhận là pháp nhân và viết lại như sau: “Hội có đủ điều kiện để được công nhận là pháp nhân theo quy định của Bộ luật dân sự thì có tư cách pháp nhân kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định công nhận điều lệ hội và người đại diện theo pháp luật của hội”.[2]
Thứ hai, về các quyền phản ánh cơ cấu tổ chức của hội có đăng ký. Thiết nghĩ quy định về cơ cấu tổ chức của hội dù có đăng ký hay không đăng ký đều cần phải bảo đảm nguyên tắc tự nguyện, dân chủ. Nhà nước không nên can thiệp vào công tác tổ chức, nhân sự của các hội bằng cơ chế công nhận và bãi nhiệm chức danh người đứng đầu. Thay vào đó, Nhà nước nên tôn trọng kết quả bầu cử ban lãnh đạo do chính thành viên tổ chức xã hội quyết định. Hội chỉ cần báo cáo kết quả bầu cử cho cơ quan nhà nước để các cơ quan này có thông tin thực hiện quản lý nhà nước.
Theo tác giả, nên điều chỉnh lại các quy định liên quan về tổ chức và lập hội theo hướng tiếp cận không can thiệp quá sâu, vì điều đó vừa tạo thêm trách nhiệm quản lý cho các cơ quan hữu quan nhưng không mang lại hiệu quả cần thiết, vừa làm hạn chế quyền tự do, tự chủ của các hội. Do vậy, các quy định cơ cấu tổ chức, người đứng đầu chỉ mang tính chất hướng dẫn, như giữ lại quy định về tiêu chuẩn chung của người đứng đầu (khoản 4 Điều 23), và chỉ nên quy định việc đăng ký của hội (Điều 15) là đủ, mà không cần thủ tục ra quyết định công nhận điều lệ hay công nhận người đứng đầu. Như vậy, cần bỏ Điều 18 trong Dự thảo Luật về Hội.
1.2. Sửa đổi, bổ sung quy định về nhóm các quyền sở hữu tài sản và các quyền về mặt kinh tế của hội có đăng ký
Về quyền có tài sản (quyền sở hữu tài sản). Vấn đề này chưa được Điều 25 Dự thảo Luật về Hội quy định cụ thể.
Theo khoản 6 Điều 25 Dự thảo Luật về Hội, hội có đăng ký thì có quyền: “Tạo nguồn thu hợp pháp, vận động, tiếp nhận các nguồn tài trợ hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong nước và nước ngoài để thực hiện tôn chỉ, mục đích hoạt động của hội”. Điều 29 và Điều 30 Dự thảo Luật về Hội có đề cập tới nguồn gốc của tài sản, tài chính của hội cũng như quy định cơ chế chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản, tài chính của hội. Tuy nhiên, tất cả các quy định này chưa toàn diện vì còn nhiều vấn đề quan trọng chưa được đề cập.
Tài sản, tài chính của hội là cơ sở vật chất cần thiết để hội hoạt động trên thực tế. Nhưng tài sản và tài chính của hội thì không nên để các hội được hoàn toàn tự do mà cần phải có sự giám sát về số lượng, chủng loại cũng như về phương thức khai thác, sử dụng, định đoạt. Điều này không phải là sự can thiệp quá đáng từ phía Nhà nước, mà thực chất là để bảo đảm việc nhận tài sản, khai thác, sử dụng tài sản của các hội minh bạch, đúng tôn chỉ mục đích của hội và nhất là để loại trừ các khả năng “lách luật”, “lẩn tránh pháp luật” về thuế, rửa tiền, tài trợ khủng bố… Như vậy, Dự thảo Luật về Hội cần xử lý tốt các vấn đề sau:
Về nguồn gốc của tài sản, tài chính: để có tài sản thì hội có thể tiến hành mua sắm, đầu tư xây dựng hoặc được tài trợ, nhận tặng cho, đối với tài sản từ cá nhân, pháp nhân[3] hoặc hỗ trợ của Nhà nước, thừa kế theo di chúc của cá nhân. Nội dung này được quy định tại khoản 2 Điều 29 Dự thảo, nhưng chưa cụ thể. Mặt khác, đây là quyền của hội, trong khi Điều 29 chỉ là quy định về nguồn gốc hình thành chứ không phải là quy định cụ thể về căn cứ, nên cần bổ sung căn cứ xác lập quyền sở hữu trong quy định về quyền của hội tại Điều 25 Dự thảo Luật về Hội; đồng thời bổ sung quy định tương ứng tại Điều 29 Dự thảo Luật về Hội. Cụ thể, cần bổ sung vào Điều 25 Dự thảo Luật về Hội ngay sau khoản 1, là khoản 1(1): “được sở hữu các tài sản của hội có được từ nguồn thu hợp pháp theo quy định tại khoản 1(2) của Điều này (bổ sung ngay dưới đây)và Điều 29 Luật này”. Đồng thời, bổ sung khoản 1(2) quy định về quyền được nhận tài sản từ các nguồn tài trợ: “được nhận tài sản do Nhà nước hỗ trợ để thực hiện nhiệm vụ được giao bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền; nhận tài trợ của cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước theo những hình thức hiến, tặng, tài trợ, để lại thừa kế theo di chúc theo các trường hợp sau:
a) Hội không có tư cách pháp nhân chỉ được nhận tiền mặt hoặc các động sản khác nhằm trực tiếp phục vụ các hoạt động của hội theo điều lệ, nhưng giá trị tối đa không được lớn hơn 10% (hoặc có thể là mức cao hơn, nhưng không hơn 50%) tổng giá trị tiền thu từ hội phí, nhưng cũng không được vượt quá (một con số nào đó – ví dụ tối đa là 1 tỷ đồng), trừ trường hợp nhận các khoản tài trợ không thường xuyên để thực hiện nhiệm vụ do Nhà nước giao và các khoản tài trợ khác nhằm mục đích nhân đạo, cứu trợ, từ thiện và các mục đích công ích khác, nhưng khi nhận tài trợ các khoản này phải báo cáo với cơ quan quản lý chuyên môn theo quy định của luật liên quan;
b) Hội có tư cách pháp nhân được nhận các loại tài sản như điểm a và còn được nhận tối đa 01 bất động sản để làm trụ sở tại một địa phương cấp tỉnh nơi thành lập hội hoặc nơi thực hiện các hoạt động chính của hội, và 01 bất động sản tại mỗi tỉnh, thành phố khác trực thuộc trung ương, nơi đặt chi nhánh của hội, nếu hội được phép có chi nhánh;
c) Hội có tư cách pháp nhân và có mục đích hoạt động công ích được nhận các loại tài sản như điểm a, điểm b khoản này và còn được nhận các bất động sản để trực tiếp phục vụ thực hiện các hoạt động y tế, giáo dục, đào tạo, dạy nghề, nuôi dưỡng người khuyết tật, người già neo đơn, trẻ em không nơi nương tựa hoặc dùng cho các hoạt động thiện nguyện khác;
d) Đối với các loại tài sản được tài trợ không đúng cách thức, chủng loại theo quy định tại các điểm a, b, c của khoản này thì phải được chuyển sang giá trị tiền mặt, như cũng chỉ được hưởng tối đa theo quy định tại điểm a khoản này. Hội, cá nhân liên quan vi phạm quy định này có thể bị xử lý kỷ luật theo điều lệ của hội, hoặc chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của Luật này và luật liên quan”.
Ngoài ra, tương ứng với việc bổ sung quy định trên, cần bỏ khoản 6 Điều 25 Dự thảo Luật về Hội, vì các nội dung kể trên đã giải quyết cơ bản quyền được nhận tài trợ của hội. Ngoài ra, cần tiếp tục hoàn thiện quy định về quyền tự chủ hoạt động, tự chủ tài chính của hội, đó là các hoạt động có nguồn thu nhằm đóng góp một phần kinh phí duy trì hoạt động của hội.
Về loại tài sản, mục đích và chức năng của hội thành lập để hoạt động xã hội, từ thiện… nên hội không cần có tài sản như các các nhân, pháp nhân thương mại. Ngay cả đối với pháp nhân thương mại thì cũng bị pháp luật hạn chế về chủng loại tài sản mà mỗi loại pháp nhân có quyền sở hữu phù hợp với điều lệ và mục đích thành lập. Do đó, chủng loại tài sản và giá trị tài sản của các hội cũng cần có những quy định thích hợp. Theo tác giả, hội có quyền thuê, mượn bất động sản hoặc mua bất động sản, nhưng mỗi hội chỉ có quyền sở hữu một bất động sản (nhà ở, công trình xây dựng chuyên dụng) để làm trụ sở hoạt động, nơi tiến hành các hoạt động chính của hội. Trường hợp những hội hoạt động công ích (nuôi dưỡng người già yếu neo đơn, người khuyết tật, trẻ em mồ côi…) thì có thể có thêm các bất động sản phục vụ các mục đích công ích của hội. Tuyệt đối không nên thừa nhận quyền sở hữu đối với các bất động sản, nhà đất để thực hiện các hoạt động khác của hội. Do nội dung này chưa được quy định, nên cần bổ sung quy định về nội dung này tại Điều 25 Dự thảo Luật về Hội, đồng thời cần sửa đổi quy định tại Điều 29 Dự thảo theo nội dung tương ứng như đã kiến nghị ở trên.
Ngoài ra, cần sửa đổi, bổ sung khoản 1 và khoản 2 Điều 29 Dự thảo Luật về Hội. Cụ thể, sửa đổi điểm b, khoản 1 Điều 29 Dự thảo Luật về Hội như sau: “Tài sản của hội được hình thành từ nguồn kinh phí của hội; do cá nhân, tổ chức trong nước và nước ngoài hiến, tặng, tài trợ, để lại thừa kế theo di chúc như các trường hợp được quy định tại khoản 1.b Điều 25 Luật này; do Nhà nước hỗ trợ để thực hiện nhiệm vụ do Nhà nước giao”. Bên cạnh đó, cần sửa đổi các quy định liên quan tại điểm d, khoản 2 Điều 29 Dự thảo Luật về Hội như sau: “Tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài theo quy định tại khoản 1a, 1b Điều 25 Luật này và điểm b khoản 1 Điều này”.
Ngoài ra, theo chúng tôi, cần bổ sung khoản 1c Điều 25 Dự thảo Luật về Hội: “được quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt và các quyền khác đối với tài sản của hội theo quy định tại Điều 29, Điều 30 Luật này và quy định của các luật liên quan”. Việc bổ sung quy định này nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa các quy định liên quan trong Dự thảo. Ngoài ra, bổ sung “các quyền khác” ở đây còn nhằm bảo đảm cho quy định này phù hợp với những quy định mới của Bộ luật Dân sự năm 2015 về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản.
Liên quan đến việc sử dụng tài sản, đặc biệt là các bất động sản, cần bổ sung quy định này vào khoản 2(1) Điều 30 Dự thảo Luật về Hội như sau: “Khi bất động sản của hội không còn sử dụng vào mục đích ban đầu, thì bất động sản đó có thể được chuyển sang sử dụng vào mục đích khác phù hợp với điều lệ và chức năng của hội. Sau 12 tháng từ khi chấm dứt hoạt động liên quan, mà bất động sản không được hội sử dụng đúng mục đích, chức năng, điều lệ của hội (ví dụ chỉ để cho thuê lấy tiền, hoặc làm những việc khác không đúng điều lệ) hoặc sau 36 tháng từ sau khi chấm dứt hoạt động liên quan mà bất động sản vẫn bị bỏ hoang, không hoạt động, hoặc không đặt trụ sở, chi nhánh ở đó nữa thì cơ quan có thẩm quyền đăng ký được yêu cầu hội giải trình và báo cáo kế hoạch chuyển mục đích sử dụng mới phù hợp với quy định của điều lệ”. Tiếp sau khoản 2(1), cần bổ sung khoản 2(2) quy định về cách xử lý tiếp theo: “Đối với các bất động sản quy định tại khoản 2(1) Điều này, hoặc bất động sản của các hội chỉ được sở hữu một bất động sản để làm trụ sở thì hội có quyền bán bất động sản đó cho cá nhân tổ chức khác dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoặc trao đổi để nhận lại một bất động sản khác để làm trụ sở hay thực hiện các hoạt động khác theo điều lệ, hoặc hiến tặng cho tổ chức từ thiện, hội khác vì mục đích công ích, hoặc hiến tặng cho Nhà nước theo điều lệ của hội và quy định của các luật liên quan”. Đối với trường hợp hội chấm dứt thì các tài sản sẽ giải quyết theo luật này và các quy định của các luật liên quan (mà không chia cho các thành viên).
1.3. Sửa đổi, bổ sung nhóm các quyền chung thể hiện vai trò của hội trong xã hội
Điều 25 Dự thảo Luật về Hội đã thể hiện tương đối đầy đủ các quyền thể hiện trách nhiệm chính trị của hội đối với hội viên. Bên cạnh đó, cũng cần chú ý tới các quyền khác thể hiện nội hàm của quyền tự do lập hội và quyền tự do hội họp của hội và của thành viên của hội. Đây là vấn đề pháp lý khá phức tạp, nhưng nhìn chung, cần nhìn nhận các quyền này từ góc độ pháp lý và xã hội. Đó chính là quy định căn cứ nhằm giúp các hội triển khai thực hiện các quyền tự do phù hợp với vai trò của mình, qua đó góp phần thực hiện các quyền tự do khác của cá nhân, tổ chức đã được Hiến pháp và luật quy định, như các quyền tự do đi lại[4] (để tiếp cận địa bàn bị ô nhiễm, thiên tai hoặc các đối tượng dễ bị tổn thương…), quyền tự do phát biểu chính kiến[5] (tự do ngôn luận và tự do được thông tin, truyền thông và thông tin, in ấn, phát hành, vận động…), tự do hội họp[6] (khi muốn tổ chức tuần hành, hội thảo, tập huấn). Tất nhiên, các quyền này nếu được thừa nhận thì cũng không phải là các quyền tuyệt đối, mà có những giới hạn của nó.[7]
Chúng tôi cho rằng, ngoài quyền được phát biểu chính kiến và tổ chức, hoạt động hội họp ôn hòa được điều chỉnh trong Dự thảo Luật Biểu tình, thì trong Dự thảo Luật về Hội cần quy định rõ các quyền chính trị, xã hội sau đây của các hội:
– Cần bổ sung quy định sau khoản 2 Điều 25 Dự thảo Luật về Hội và thiết kế thành khoản 2(1) với nội dung như sau: “được tự do đi lại, lựa chọn nơi đặt trụ sở hoặc chi nhánh, tiếp cận thông tin, hội họp phù hợp với quy định của Hiến pháp, các luật liên quan, nhưng không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”.
– Cần thừa nhận quyền được tham gia vào hoạt động công, như góp ý việc ban hành luật, chính sách quan trọng của nhà nước liên quan đến quốc kế, dân sinh. Theo đó, cần tiếp tục giữ quy định tại khoản 5 Điều 25 Dự thảo Luật về Hội, nhưng cũng cần bổ sung thêm cụm từ “và các chính sách quan trọng…” để đảm bảo tính toàn diện. Cụ thể, cần sửa thành: “tham gia góp ý kiến trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và các chính sách quan trọng liên quan tới lợi ích của đất nước và nhân dân; tham gia giám sát và phản biện xã hội theo quy định của pháp luật. Góp ý, kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về các vấn đề liên quan đến hội và lĩnh vực hoạt động của hội”.
1.4. Sửa đổi, bổ sung nhóm các quyền thể hiện các hoạt động mang tính dân sự của hội
Bên cạnh các quyền quan trọng thể hiện sự tồn tại, vai trò chính yếu của các hội nói chung, thì hội còn có thể triển khai các quyền khác liên quan đến “đời sống dân sự” của hội. Đây là các quyền quan trọng nhằm làm phong phú các hoạt động công ích của hội và giải quyết một số quyền lợi của hội có liên quan đến các chủ thể dân sự khác trong xã hội. Các quyền đó bao gồm quyền được “phổ biến, bồi dưỡng kiến thức cho hội viên; cung cấp thông tin cần thiết cho hội viên theo quy định của điều lệ hội” (khoản 3) hay các quyền tại khoản 4[8] và quyền tại khoản 7[9] Dự thảo Luật về Hội.
Nhằm đảm bảo quyền của hội, cần sửa đổi, bổ sung các nội dung sau đây vào Dự thảo Luật về Hội:
Một là, cần thừa nhận các hoạt động công ích, từ thiện, thiện nguyện của các hội và xem đây như là nguồn lực tăng thêm trong điều kiện hiện nay. Do đó, cần tính đến sự tham gia tích cực của các hội trong công tác đào tạo (mầm non, phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, dạy nghề…); cấp cứu, cứu thương, khám chữa bệnh từ thiện miễn phí hoặc có thu; xuất bản tạp chí, phát hành báo, ấn phẩm liên quan đến kiến thức khoa học, chuyên ngành, và cung cấp các thông tin liên quan đến hội theo quy định của các luật liên quan như Luật Giáo dục năm 2005, Luật Xuất bản năm 2012, Luật Báo chí năm 2016, Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2015.
Hai là, trường hợp nếu có dạy nghề hoặc đào tạo phù hợp với Luật Giáo dục thì cũng không nên chỉ cho phép cấp bằng, chứng chỉ nghề đối với hội viên mà cả đối với người học khi đạt được kết quả và đáp ứng được các điều kiện để được cấp bằng, chứng chỉ phù hợp với luật liên quan. Do đó, cần sửa lại khoản 4 Điều 25 Dự thảo ở điểm này.
Ba là, cũng cần có những giới hạn cụ thể nhằm tránh trường hợp lạm dụng quy định để hưởng lợi hoặc cạnh tranh không lành mạnh, nhất thiết cần quy định hội chỉ được phép thực hiện các dịch vụ phi lợi nhuận, trừ những khoản thu không quá 10% tổng giá trị hội phí của hội viên. Các trường hợp tổ chức, kinh doanh mang tính chuyên nghiệp đều phải được thực hiện bởi các pháp nhân của hội trong trường hợp hội đó được lập các pháp nhân thương mại nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh của hội, nhưng phải tuân thủ quy định của các luật liên quan (Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Đầu tư năm 2014, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014…).
2. Các nghĩa vụ của hội
Bên cạnh các quyền, các hội cũng phải có các nghĩa vụ thích ứng. Theo Điều 26 Dự thảo Luật về Hội, thì hội có 8 nghĩa vụ. Về cơ bản, các quy định trên đã giải quyết được các vấn đề pháp lý được đặt ra về nghĩa vụ của hội. Tuy vậy, cũng cần lưu ý tới một số nghĩa vụ như:
– Nghĩa vụ thông báo, báo cáo hoạt động. Thiết nghĩ không nên quy định nghĩa vụ này một cách đại trà cho mọi loại hội, vì rất khó thực thi. Việc báo cáo này chỉ nên quy định cho loại hội có nhận tài trợ vượt quá giới hạn hoặc không đúng chủng loại tài sản luật định, nhất là những loại hội có nhận tài trợ từ ngân sách nhà nước để thực hiện các công việc theo phân công của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đồng thời với nghĩa vụ, luật cũng cần bổ sung các chế tài, mà chế tài chính yếu trong trường hợp này là cắt tài trợ, xử phạt về thuế…
– Nghĩa vụ nộp thuế. Thiết nghĩ cần miễn thuế cho các hoạt động từ thiện, công ích, các hoạt động có mức thu chủ yếu để duy trì hoạt động của hội (hội phí, xuất bản tạp chí phổ biến kiến thức cho hội viên, các hoạt động khác có minh chứng là để duy trì hoạt động của hội…), bán, trao đổi nhà đất (01 lần) để mua sắm, xây dựng lại trụ sở mới… thì được miễn thuế thu nhập như với cá nhân. Còn nếu các hội có hoạt động hoặc thành lập pháp nhân thương mại để hoạt động có thu thì phải nộp thuế thu nhập theo quy định chung về thuế. Ngoài ra, cần tạo điều kiện hỗ trợ vật chất cho hoạt động của hội bằng cách bổ sung quy định về trường hợp miễn giảm thuế cũng như mức thuế suất được giảm cho các trường hợp doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh sử dụng lợi nhuận để tài trợ cho hoạt động vì lợi ích công cộng của các hội.
3. Một số quyền và nghĩa vụ khác của hội còn gây tranh cãi
Hiện vẫn còn một số quyền và nghĩa vụ của hội đang gây tranh cãi, như: i. Mức độ quyền riêng tư của hội (hội có phải thông báo công khai toàn bộ danh tính các hội viên không?); ii. Khi nào hội bị buộc phải nhận một cá nhân làm thành viên? Hội buộc phải sát nhập với một hội khác?; iii. Khi nào một cá nhân thành viên có thể phải chịu trách nhiệm (bị xử phạt) về hành động của tổ chức? Hoặc khi nào một tổ chức phải chịu trách nhiệm về hành động, lời nói của cá nhân thành viên?
3.1. Về mức độ quyền riêng tư của hội và hội viên
Quyền bí mật đời tư của cá nhân là một quyền “tuyệt đối” nên các thông tin liên quan đến bí mật đời tư cá nhân, nếu không được sự đồng ý thì không ai được tự ý công bố, trừ một số trường hợp nhất định. Do đó, cần bổ sung quy định về nghĩa vụ của hội. Đó là nghĩa vụ bảo đảm bí mật đời tư và cấm tiết lộ thông tin, danh tính của các hội viên trừ trường hợp các thông tin liên quan để phục vụ cho việc xử lý hành vi phạm pháp hoặc giải quyết tranh chấp khác với người có liên quan theo đề nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền và được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục luật định.
3.2. Các quyền và nghĩa vụ của hội trong việc kết nạp thành viên
Trên nguyên tắc của quyền tự do tham gia lập hội, khi một cá nhân hoặc tổ chức có đủ điều kiện, tiêu chuẩn để tham gia vào một hội, tự nguyện có đơn xin tham gia theo đúng điều lệ… thì hội không được quyền từ chối, trừ trường hợp người đó đang là hội viên của các tổ chức khác có tôn chỉ, mục đích mâu thuẫn, xung đột với lợi ích của hội. Tuy nhiên, quy định tại khoản 2 Điều 22 Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị cho phép giới hạn quyền tham gia các hội tự nguyện của những người làm việc trong các lực lượng vũ trang và cảnh sát. Sở dĩ có sự hạn chế này bắt nguồn từ nhận thức rằng nhiệm vụ hàng đầu của các lực lượng vũ trang là duy trì trật tự xã hội, cần có sự trung lập, tránh bị lôi cuốn vào các xung đột mang tính phe nhóm. Theo tác giả, cần bổ sung quy định về nghĩa vụ không được từ chối nhận thành viên nếu họ đáp ứng tiêu chuẩn hội viên theo điều lệ của hội, trừ trường hợp người đó là thành viên của các phe nhóm khủng bố, những người đã bị khai trừ tư cách hội viên theo trình tự, thủ tục được quy định trong điều lệ của hội. Các quân nhân, sĩ quan trong lực lượng vũ trang, cảnh sát không được tham gia các hội[10] trừ trường hợp họ đã nghỉ hưu.
3.3. Các nghĩa vụ của hội và hội viên trong việc chịu trách nhiệm tương hỗ về các hoạt động của nhau
Vấn đề trách nhiệm của hội đối với hoạt động của hội viên và ngược lại không cần thiết đặt ra, vì các quy định của pháp luật hiện hành đã đủ để giải quyết vấn đề này. Theo đó, các hội viên và hội là những chủ thể dân sự độc lập. Chỉ một yếu tố “là hội viên” của tổ chức/ hội thì chưa đủ để buộc các bên phải liên đới chịu trách nhiệm. Do vậy, về nguyên tắc, trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm tài sản của hội viên với hội (có tư cách pháp nhân) là độc lập. Chỉ trừ khi hội viên đóng góp tài sản và gây ảnh hưởng bắt buộc hội phải thực hiện hoạt động khủng bố hoặc các hoạt động phạm pháp khác (rửa tiền, lẩn tránh pháp luật) thì đều áp dụng các chế tài theo đúng vai trò của từng chủ thể trong việc phạm pháp. Còn lại thì hoạt động của hội không làm phát sinh trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm tài sản đối với thành viên và ngược lại.
Trường hợp đủ các dấu hiệu của các loại trách nhiệm cụ thể theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và các văn bản pháp luật liên quan, như trách nhiệm do người của pháp nhân gây ra, trách nhiệm do người làm công, học nghề gây ra, trách nhiệm do người chưa thành niên chưa đủ 15 tuổi, người bị mất năng lực hành vi dân sự gây ra khi đang trong thời gian trường học, bệnh viện quản lý… thì áp dụng các quy định tương ứng. Do vậy, chỉ những người trực tiếp lãnh đạo hội, các nhân viên của hội khi thực hiện nhiệm vụ được giao nhân danh hội, theo quy định của điều lệ hoặc theo sự chỉ đạo, phân công của người có thẩm quyền trong hội thì mới làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của hội. Các trách nhiệm pháp lý khác nếu có, thì cũng được xem xét theo quy định của luật liên quan./.
Xem thêm bài viết “Luật về Hội”
- Địa vị pháp lý của hội trong hoạt động xây dựng pháp luật – TS. Đỗ Minh Khôi
- Quy chế pháp lý về tài chính, tài sản của hội trong Dự thảo Luật về Hội – PGS.TS. Nguyễn Văn Vân
- Bàn về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hội theo Dự thảo Luật về Hội – ThS. Nguyễn Tú Anh
- Chính sách, pháp luật về hội và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu nhằm hoàn thiện Dự thảo Luật về Hội – ThS. Nguyễn Văn Huệ
- Góp ý về định hướng xây dựng Luật về Hội và một số vấn đề khác – PGS.TS. Vũ Văn Nhiêm
CHÚ THÍCH
[1]* TS. Luật học, Khoa Luật dân sự, Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh.Điều kiện để tổ chức được công nhận là pháp nhân được quy định tại khoản 1 Điều 74 và các quy định liên quan của Bộ luật Dân sự năm 2015.
[2] Riêng đối với đoạn “kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định công nhận điều lệ hội và người đại diện theo pháp luật của hội” thiết nghĩ cần được suy nghĩ thấu đáo hơn, vì việc đăng ký chỉ nên là thủ tục quản lý đơn giản, chứ không nên quá chặt, thể hiện sự can thiệp quá sâu của nhà nước vào công việc tổ chức của hội. Theo đó, đọan này cũng nên sửa lại là “kể từ ngày được đăng ký theo quy định của Luật này”.
[3] Quy định về để lại thừa kế theo di chúc không áp dụng đối với pháp nhân.
[4] Điều 23 Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.
[5] Điều 25 Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”.
[6] Điều 25 Hiến pháp năm 2013.
[7] Theo khoản 4 Điều 15 Hiến pháp năm 2013, khi thực hiện các quyền con người nói chung, cá nhân phải tuân theo nguyên tắc: “Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”.
[8] Khoản 4 Điều 25 Dự thảo Luật về Hội: “Tham gia chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu; t¬ư vấn, cung cấp dịch vụ công về các vấn đề thuộc lĩnh vực hoạt động của hội; đào tạo, bồi dưỡng, cấp chứng chỉ hành nghề cho hội viên khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật”.
[9] Khoản 7 Điều 25 Dự thảo Luật về Hội: “Thành lập pháp nhân thuộc hội, hợp tác quốc tế, tham gia là hội viên của các tổ chức quốc tế theo quy định của pháp luật”.
[10] Khái niệm này được hiểu theo nghĩa không bao gồm các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội.
- Tác giả: TS. Lê Minh Hùng
- Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 02(105)/2017 – 2017, Trang 42-48
- Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời