Bàn về tội phạm Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017
Tác giả: Giáp Thành Trung [1]
TÓM TẮT
Tội phạm in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước được quy định tại Điều 203 Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). So với Điều 164a BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì Điều 203 BLHS năm 2015 đã sửa đổi dấu hiệu định tội, bổ sung mức phạt tiền đối với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, đồng thời quy định chi tiết số lượng cụ thể hóa đơn in, phát hành, mua bán trái phép và số tiền thu lợi bất chính của người phạm tội, bên cạnh đó quy định chủ thể mới phải chịu trách nhiệm hình sự là pháp nhân thương mại. Trong thực tế, tình hình tội phạm in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước có những diễn biến gia tăng với phương thức, thủ đoạn tinh vi gây thất thu ngân sách nhà nước hàng tỷ đồng. Tuy nhiên, trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự về tội phạm này vẫn còn hạn chế. Trong phạm vi bài viết này tác giả phân tích những nội dung cơ bản về tội phạm in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước; thực trạng tội phạm in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước, trên cơ sở đó đề xuất hoàn thiện pháp luật về tội phạm tội phạm in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước.
1. Khái quát chung về tội phạm in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
Trên thế giới, một số Nhà nước khi áp dụng chế độ kế toán cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp thường dựa vào hoá đơn để làm chứng từ gốc trong kế toán, theo đó trong trường hợp này hoá đơn là một chứng từ kế toán. Một số Nhà nước khi áp dụng chế độ thuế, để xác định doanh thu hay thu nhập tính thuế thường căn cứ vào hoá đơn để xác định, nên trong trường hợp này hoá đơn còn có vai trò của một chứng từ thuế. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, hoá đơn là một chứng từ thương mại quốc tế thể hiện quan hệ mua bán hàng hoá, dịch vụ trên toàn cầu.
Ở nước ta, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy định hướng dẫn quản lý về hóa đơn bao gồm: Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của Chính phủ quy định về hóa đơn bán hàng, cung ứng dịch vụ; Nghị định số 04/2014/NĐ-CP ngày 17/1/2014 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của Chính phủ quy định về hóa đơn bán hàng, cung ứng dịch vụ. Nghị định số 119/2018/NĐ-CP ngày 12/9/2018 Chính phủ quy định hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (có hiệu lực kể từ ngày 01/11/2018).
Xuất phát từ thực tiễn việc sử dụng hoá đơn giả, lập khống hoá đơn, đặc biệt là hành vi in, phát hành mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước diễn ra phức tạp, gây thất thu cho ngân sách nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến môi trường sản xuất, kinh doanh. Tại kỳ họp thứ 5 khoá XII, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1999, trong đó lần đầu tiên quy định tội in, phát hành, mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Điều 164a của BLHS và có hiệu lực từ ngày 01/01/2010.
Tiếp đó, ngày 26/6/2013, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tài Chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 10/2013/TTLT – BTP-BCA- TANDTC-VKSNDTC-BTC hướng dẫn áp dụng một số điều của BLHS về các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính – kế toán và chứng khoán.
Ngày 27/11/2015 tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá XII, đã thông qua BLHS năm 2015 thay thế BLHS năm 1999. BLHS năm 2015 quy định tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Điều 203 và tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá XIV ngày 20/6/2017 Quốc hội đã thông qua BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018.
So Điều 164a BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì Điều 203 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã sửa đổi dấu hiệu định tội, bổ sung mức phạt tiền đối với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, đồng thời quy định chi tiết số lượng cụ thể hóa đơn in, phát hành, mua bán trái phép và số tiền thu lợi bất chính của người phạm tội, bên cạnh đó quy định chủ thể mới phải chịu trách nhiệm hình sự là pháp nhân thương mại.
2. Dấu hiệu pháp lý của tội phạm in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
– Tội phạm in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, mà cụ thể là xâm phạm đến chế độ quản lý hoá đơn, đồng thời xâm phạm đến hoạt động quản lý thuế, về tài chính tiền tệ, hoạt động quản lý thu, chi ngân sách Nhà nước.
– Hành vi in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước được thể hiện như sau:
+ In trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước là hành vi tự in hóa đơn hoặc tự khởi tạo hóa đơn điện tử khi không đủ điều kiện hoặc không đúng, không đầy đủ các nội dung theo quy định của pháp luật; in hóa đơn giả hoặc khởi tạo hóa đơn điện tử giả;
+ Phát hành trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước là hành vi lập tờ thông báo phát hành không đầy đủ nội dung; không gửi hoặc không niêm yết tờ thông báo phát hành hóa đơn theo đúng quy định;
+ Mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước gồm các hành vi sau đây:
Mua, bán hoá đơn chưa ghi nội dung hoặc ghi nội dung không đầy đủ, không chính xác theo quy định;
Mua, bán hoá đơn đã ghi nội dung, nhưng không có hàng hoá, dịch vụ kèm theo;
Mua, bán hoá đơn giả, hoá đơn chưa có giá trị sử dụng, hoá đơn đã hết giá trị sử dụng, hoá đơn của cơ sở kinh doanh, dịch vụ khác để hợp thức hoá hàng hoá, dịch vụ mua vào hoặc cấp cho khách hàng khi bán hàng hoá dịch vụ;
Mua, bán, sử dụng hoá đơn có sự chênh lệch về giá trị hàng hoá, dịch vụ giữa các liên của hoá đơn. Như vậy, người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội có thể sử dụng các công cụ, phương tiện khác nhau để in trái phép hóa đơn. Hành vi phát hành trái phép hóa đơn là trường hợp người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội phát hành hóa đơn không đúng theo quy định. Hành vi mua bán trái phép hóa đơn là việc người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội dùng tiền hoặc dùng các lợi ích vật chất để trao đổi các hóa đơn.
– Hậu quả của tội phạm in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước:
Theo quy định tại Điều 203 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) hậu quả trực tiếp của tội phạm in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước thể hiện bằng số lượng số hóa đơn được in, phát hành, mua bán trái phép. Nói cách khác, đây là tội phạm có cấu thành vật chất cụ thể: Số lượng hóa đơn ở dạng phôi được in, phát hành, mua bán trái phép từ 50 số hóa đơn trở lên. Số lượng hóa đơn đã ghi nội dung được in, phát hành, mua bán trái phép từ 10 số hóa đơn trở lên. Người phạm tội thực hiện hành vi tội phạm in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn đã thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên.
– Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước:
+ Lợi dụng trong mua bán hàng hoá, thanh quyết toán, nhiều đối tượng thực hiện hành vi sử dụng hoá đơn, chứng từ trái phép nhằm chiếm đoạt tiền thuế giá trị gia tăng (GTGT) và quyết toán khống rút tiền chiếm đoạt sử dụng cá nhân.
+ Trong lĩnh vực thương mại một số đối tượng in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước với mục đích hợp thức hóa hàng hóa buôn lậu nhằm đối phó với các cơ quan chức năng.
+ Trong lĩnh vực xây dựng một số đối tượng thực hiện hành vi in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước để hợp thức hóa các chi phí liên quan đến quyết toán các công trình xây dựng nhằm “rút ruột công trình”. Trong thực hiện các dự án xây dựng và phát triển kinh tế các đối tượng đã nâng giá thầu, quyết toán khống khối lượng hoàn thành, bằng cách lập khống chứng từ, mua trái phép hóa đơn GTGT, sử dụng hoá đơn GTGT khống… để rút tiền của Nhà nước.
+ Trong lĩnh vực thuế một số doanh nghiệp in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước nhằm trốn thuế thu nhập doanh nghiệp thông qua việc hợp thức hóa tăng chi phí “đầu vào”, hoặc mua trái phép hóa đơn khai tăng chi phí “khống” nhằm mục đích lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua hình thức hoàn thuế.
+ Một số đối tượng in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước để hợp thức hóa các chi phí có liên quan đến chi phí của cơ quan, tổ chức nhằm tham ô tài sản…
+ Trong lĩnh vực giao thông vận tải một số đối tượng in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước để hợp thức hóa, khai tăng chi phí vận tải nhằm trốn thuế.
+ Ngoài ra một số đối tượng thực hiện việc in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước để hợp thức hóa các hợp đồng kinh tế, nhằm lừa đảo chiếm đoạt tài sản…
– Tội phạm in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp:
Người thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý nhận thức được hành vi in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước là vi phạm pháp luật trái với quy định về quản lý, sử dụng hóa đơn gây mất ảnh hưởng đến quản lý kinh tế nhưng vẫn thực hiện mà không quan tâm đến hậu quả xảy ra. Động cơ phạm tội là vụ lợi. Nếu chủ thể tội phạm biết rõ hóa đơn, chứng từ do in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ để thực hiện tội phạm cụ thể khác như: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174); Trốn thuế (Điều 200); Tham ô tài sản (Điều 353)… thì đồng phạm trong thực hiện các tội phạm này.
– Người và pháp nhân thương mại phạm tội: Căn cứ Điều 12, 75, 76, 203 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chủ thể của tội phạm in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước gồm: Đối với cá nhân: là người từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự; đối với pháp nhân thương mại: căn cứ Khoản 1 Điều 75 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
3. Thực trạng tội phạm in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
Theo thống kê của Cục Cảnh sát kinh tế, trong giai đoạn từ năm 2015 đến tháng 6 năm 2020, lực lượng Cảnh sát kinh tế đã phát hiện, xử lý 3.536 vụ, việc in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước trong đó khởi tố vụ án hình sự 682 vụ án/1.352 bị can, gây thất thu ngân sách nhà nước hàng nghìn tỷ đồng2.
Điển hình, ngày 08/9/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng đã ra Quyết định khởi tố vụ án số 113/QĐ-CATN (KT) về tội mua bán trái phép hóa đơn theo Điều 203 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) do đối tượng Ngô Văn Phát (sinh năm 1964, HKTT: số 60 Trần Quang Khải, quận Hồng Bàng, Hải Phòng, chỗ ở: số 9 Lê Hồng Phong, quận Hải An, Hải Phòng) cùng đồng phạm thực hiện với thủ đoạn: trong khoảng thời gian từ tháng 3/2012 đến tháng 5/2018, Ngô Văn Phát đã thuê người đứng tên thành lập 13 “công ty ma”, với giao dịch lên tới hơn 5.000 tỷ đồng, gây thất thu cho ngân sách nhà nước hàng tỷ đồng3. Không chỉ xảy ra tại Hải Phòng, tình trạng tội phạm in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước còn diễn ra ở nhiều tỉnh, thành phố khác như: Hà Nội; Phú Thọ; Quảng Ninh; Thanh Hóa; Nghệ An; Quảng Bình; Đà Nẵng; Thừa Thiên Huế, Bình Dương…
Qua thực tế đấu tranh phòng, chống tội phạm in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước, tác giả nhận thấy những hạn chế về pháp luật và áp dụng pháp luật về tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước như sau:
Thứ nhất, khung hình phạt tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước được đánh giá là quá nhẹ so với những thiệt hại về ngân sách nhà nước cũng như tác động tiêu cực tới kinh tế – xã hội mà loại tội phạm này gây ra. Khung hình phạt của tội phạm này từ cải tạo không giam giữ đến bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm, khó có thể răn đe được đối tượng phạm tội. Kể cả trong trường hợp đối tượng phạm tội “có tổ chức”,“có tính chất chuyên nghiệp”, “thu lợi bất chính và gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước 100 triệu đồng trở lên”, “tái phạm nguy hiểm”. Trong khi đó điểm b Khoản 4 Điều 188 (tội buôn lậu) BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định “thu lợi bất chính từ 1.000.000.000 đồng trở lên” phạt tù từ 12 đến 20 năm.
Thứ hai, Khoản 1 Điều 203 quy định “thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng…” và điểm đ Khoản 2 quy định: “Thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên” trong thực tế việc xác định được tiền thu lợi bất chính rất khó khăn cho cơ quan tố tụng ví dụ như: xác định đối tượng đã chi số tiền in hóa đơn, mua hóa đơn trái phép đầu vào, chi phí thành lập doanh nghiệp, văn phòng… như thế nào? Vì chưa có văn bản pháp lý hướng dẫn cụ thể…
Thứ ba, tại điểm e Khoản 2 của Điều 203 quy định: “Gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước 100.000.000 đồng trở lên” đối với nội dung này trong thực tế rất khó chứng minh về thiệt hại do đối tượng phạm tội gây ra.
Thứ tư, thời gian qua, công tác cải cách thủ tục hành chính về thuế được doanh nghiệp, người nộp thuế đánh giá cao. Các thủ tục hành chính về thuế được cải tiến, mang lại nhiều thuận lợi, tiết kiệm được thời gian, kinh phí cho doanh nghiệp, người nộp thuế. Tuy nhiên, có những nội dung cải cách chưa thực sự hiệu quả, đó là từ ngày 01/01/2015 đến nay, doanh nghiệp, người nộp thuế khi kê khai thuế chỉ phải nộp tờ khai thuế cho cơ quan thuế. Người nộp thuế phải hạch toán đầy đủ, kịp thời các chứng từ mua, bán hàng hóa, dịch vụ theo quy định của Luật kế toán và Luật quản lý thuế để xác định chính xác số thuế và xuất trình đầy đủ khi cơ quan thuế thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra. Đối với cơ quan thuế, việc bỏ quy định doanh nghiệp phải gửi “Bảng kê hoá đơn hàng hoá, dịch vụ bán ra, mua vào” khi lập hồ sơ khai thuế (thuế GTGT) đã gây khó khăn rất nhiều khi tiến hành phân tích, kiểm tra. Nguyên nhân là do thiếu nhiều thông tin để làm căn cứ phân tích, đánh giá như thông tin về sử dụng hóa đơn; thông tin hoạt động mua bán hàng hóa, dịch vụ trong kỳ; đối tượng tham gia giao dịch mua, bán với người nộp thuế… Đối với lực lượng Công an việc không thu thập các tài liệu về “Bảng kê hoá đơn hàng hoá, dịch vụ bán ra, mua vào” của doanh nghiệp sẽ xác định khó xác định được doanh nghiệp mua, bán hàng hóa của các đơn vị doanh nghiệp nào? xác định số hóa đơn? ký hiệu hóa đơn, loại hàng hóa, dịch vụ?…
4. Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
Từ việc phân tích thực trạng nêu trên, tác giả đưa ra một số giải pháp sau:
Một là, giải pháp hoàn thiện pháp luật tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước.
– Bản chất của hình phạt là răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Nhưng chế tài xử lý trong BLHS năm 2015 đối với hành vi in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước là chưa nghiêm, có sự chênh lệch không tương xứng giữa hành vi phạm tội và hình phạt được đưa ra để áp dụng cho tội phạm này. Nhiều đối tượng đã lợi dụng chế tài này để vi phạm pháp luật nhằm vụ lợi bất chính. Tác giả đề xuất các cơ quan xây dựng luật phải nghiên cứu, xem xét, đưa ra hình thức xử phạt cao hơn sao cho phù hợp với tính chất, mức độ, diễn biến, hậu quả của tội phạm như:
+ Tại Khoản 1 Điều 203 “người nào in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước ở dạng phôi từ 50 số đến dưới 100 số hoặc hóa đơn, chứng từ đã ghi nội dung từ 10 số đến dưới 30 số…” và điểm d Khoản 2 quy định: “Hóa đơn, chứng từ ở dạng phôi từ 100 số trở lên hoặc hóa đơn, chứng từ đã ghi nội dung từ 30 số trở lên”. Theo quy định trên, theo quan điểm của tác giả cần bổ sung quy định về số lượng hóa đơn ví dụ như các mức: Bổ sung từ 100 số hóa đơn đến dưới 500 số hóa đơn và quy định về hình phạt đối với số lượng hóa đơn này. Bên cạnh đó bổ sung mức số lượng từ 500 số đến dưới 1.000 số và trên 1.000 số hóa đơn…và quy định về hình phạt đối với số lượng hóa đơn này. Vì trong thực tế, khi cơ quan tố tụng tiến hành điều tra vụ án về tội phạm này xác định các đối tượng có thể thực hiện hành vi mua, bán trái phép số lượng hóa đơn rất lớn, đặc biệt lớn (trên 500; trên 1.000 số hóa đơn…) mà chỉ chịu hình phạt theo Khoản 2 (…bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm).
+ Đồng thời, tại điểm e, Khoản 2 quy định:
“Gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước 100.00.00 đồng trở lên”; từ quy định này, theo quan điểm của tác giả cần bổ sung quy định về thiệt hại ngân sách nhà nước, ví dụ như các mức: bổ sung các mức gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000”; và quy định về hình phạt đối với thiệt hại của tội phạm này gây ra. Bên cạnh đó bổ sung mức thiệt hại từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000 đồng và trên 1.000.000.000 đồng và quy định về hình phạt đối với số lượng hóa đơn này. Bởi trong thực tế, tội phạm này gây ra thiệt hại rất lớn và đặc biệt lớn đối với ngân sách nhà nước mà chỉ chịu hình phạt theo Khoản 2 (…bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm) như vậy là quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe, phòng ngừa tội phạm này. Và đặc biệt, các cơ quan chức năng cần ban hành hướng dẫn cụ thể để xác định số tiền gây thiệt hại cho nhà nước “Gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước…” đối với quy định này trong thực tế rất khó chứng minh về thiệt hại do chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể để xác định số tiền thiệt hại cho ngân sách nhà nước.
– Các cơ quan chức năng cần ban hành hướng dẫn cụ thể về xác định số tiền thu lợi bất chính theo Khoản 1 Điều 203 quy định “thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng…” và điểm đ Khoản 2 quy định: “Thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên” để cơ quan tiến hành tố tụng thuận lợi trong việc xác định số tiền thu lợi bất chính của đối tượng phạm tội.
– Cần sớm ban hành Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp năm 2020 theo tăng cường công tác hậu kiểm tra về điều kiện để thành lập doanh nghiệp như lý lịch tư pháp của chủ doanh nghiệp, vốn điều lệ, vốn pháp định, tài sản, phương án kinh doanh… Đồng thời, cần tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với các đối tượng được thành lập doanh nghiệp như bổ sung quy định việc doanh nghiệp phải nộp bảng kê, hàng hóa, dịch vụ mua vào, bán ra nhằm kiểm tra việc sử dụng hóa đơn phản ánh mua, bán hàng hóa, dịch vụ và nộp thuế của doanh nghiệp. Hai là, giải pháp về cơ chế bảo đảm phát hiện và xử lý tội phạm in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước hiệu quả.
+ Lực lượng Cảnh sát kinh tế tăng cường phối hợp trong công tác phòng, chống tội phạm tội phạm in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước giữa lực lượng Công an với các lực lượng chức năng (cơ quan Thuế, Kế hoạch và Đầu tư, Hải quan…) để chủ động nắm thông tin về tình hình hoạt động, đặc biệt là việc chấp hành việc nộp thuế và sử dụng hóa đơn của các doanh nghiệp. Hệ thống thông tin trong cơ sở dữ liệu về các doanh nghiệp rất quan trọng đối với công tác quản lý thuế, giúp lực lượng Công an, cơ quan quản lý thuế nắm được tình hình thành lập, hoạt động và chấp hành pháp luật về thuế, sử dụng hóa đơn của doanh nghiệp, cá nhân, từ đó có giải pháp cụ thể đối với từng trường hợp để nâng cao hiệu quả quản lý thuế, hóa đơn, chứng từ, hạn chế hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm này.
+ Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật nâng cao nhận thức, trách nhiệm của quần chúng nhân dân trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước. Trong đó, chú trọng tuyên truyền tới doanh nghiệp, tổ chức, quần chúng nhân dân về pháp luật của Nhà nước về thuế, chính sách quản lý thuế, hóa đơn; thực hiện nghiêm túc Nghị định số 119/2018/NĐ-CP ngày 12/9/2018 Chính phủ quy định hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (có hiệu lực kể từ ngày 01/11/2018), Luật quản lý thuế năm 2019, Luật doanh nghiệp năm 2020… Đồng thời, phối hợp cung cấp thông tin cho các cơ quan thông tin đại chúng công khai các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân trốn thuế nợ thuế; “công ty ma” những phương thức, thủ đoạn của tội phạm in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước để người dân, cơ quan tổ chức phát hiện và chủ động tố giác, tố cáo tội phạm này với cơ quan Công an./.
CHÚ THÍCH
- Thạc sỹ, Phòng Cảnh sát kinh tế, Công an thành phố Hà Nội.
- Tổng hợp báo cáo tổng kết công tác (từ năm 2015- tháng 6/2020) của Cục Cảnh sát kinh tế – Bộ Công an.
- Báo cáo công tác tháng 9 năm 2020 của phòng Cảnh sát kinh tế Công an thành phố Hải Phòng.
Trả lời