Mục lục
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa giai cấp và dân tộc là một trong những nhân tố đảm bảo thành công của cách mạng Việt Nam, một trong những đóng góp xuất sắc của Người vào lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Giá trị lịch sử và hiện thực trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Cơ sở hình thành và xác lập mô hình “Nhà nước mới” ở Việt Nam
- Những phác thảo của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1. Sơ lược quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc
Trong học thuyết của mình, Mác và Ăngghen xem xét vấn đề dân tộc từ góc độ cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản. Sở dĩ như vậy vì, vấn đề dân tộc được đặt ra trong thời của Mác là vấn đề của dân tộc tư sản, nó được hình thành cùng với sự ra đời và củng cố của chủ nghĩa tư bản. Mác và Ăngghen xem xét vấn đề dân tộc như là hệ quả của vấn đề giai cấp và giải quyết chúng trong sự phụ thuộc vào sự đấu tranh của giai cấp vô sản với giai cấp tư sản.
Nếu như sự hình thành dân tộc là kết quả của sự phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thì việc giải quyết vấn đề giai cấp có ý nghĩa quyết định đối với việc giải quyết vấn đề dân tộc, “hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác sẽ được xóa bỏ”. Mác kêu gọi “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành giai cấp dân tộc,… không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”.
Cũng theo Mác – Ăngghen, chỉ có giai cấp vô sản mới thống nhất được lợi ích dân tộc – lợi ích của mình với các lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Chỉ có xoá bỏ áp bức, bóc lột giai cấp thì mới xoá bỏ áp bức dân tộc, đem lại độc lập thật sự cho dân tộc mình và cho dân tộc khác. Tuy nhiên, Mác và Àngghen không đi sâu nghiên cứu vấn đề dân tộc vì ở Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư sản, đối với Mác, vấn đề dân tộc chỉ là thứ yếu so với vấn đề giai cấp.
Thời đại Lênin, khi Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ thống thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc trở thành bộ phận của cách mạng vô sản, Lênin mới phát triển vấn đề dân tộc thành học thuyết về cách mạng thuộc địa. Lênin cho rằng, cách mạng vô sản ở chính quốc không thể giành thắng lợi nếu không liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Lênin viết: “Cuộc cách mạng xã hội chỉ có thể tiến hành được dưới hình thức một thời đại kết hợp cuộc nội chiến của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản trong các nước tiên tiến. Với cả một loạt phong trào dân chủ và cách mạng, kể cả những phong trào giải phóng dân tộc trong các nước chưa phát triển, lạc hậu và bị áp bức” . Khẩu hiệu của Mác được Lênin bổ sung: “vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”. Như vậy Lênin đã thực sự “đặt tiền đề cho một thời đại mới, thật sự cách mạng trong các nước thuộc địa”. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh lịch sử của nước Nga lúc bấy giờ, vấn đề dân tộc được đặt ra với Lênin vẫn như là hệ quả của vấn đề giai cấp. Đây là điểm giống nhau giữa ông và các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác.
2. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc
2.1. Về mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin, và từ đó đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống của Việt Nam trong sự thống nhất của chủ nghĩa quốc tế vô sản. Nhận thức được sự gắn bó giữa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản là một quá trình được Người rút ra từ sự phân tích chủ nghĩa đế quốc và dựa trên những hiểu biết thực tế của chính mình. Đến khi tiếp nhận chủ nghĩa Lênin thì Hồ Chí Minh nhận thức được sâu sắc hơn sự gắn bó đó. Cái mới của Tư tưởng Hồ Chí Minh là:
2.1.1. Chỉ ra rằng sự bóc lột thuộc địa không chỉ là nguồn sống của bọn tư bản mà còn là cái “nền móng” của chủ nghĩa đế quốc.
Do đó, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc không những phải trở thành bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản mang tính toàn cầu mà còn có vai trò là một trào lưu lớn của cách mạng trong thế kỷ này. Ngay từ Đại hội V Quốc tế cộng sản (1924), Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa…”. Luận điểm về con đỉa có hai vòi cho thấy cần thiết phải thực hiện liên minh chiến đấu giữa cách mạng vô sản chính quốc với cách mạng thuộc địa. Và Người khẳng định: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lo, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tàn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. Như vậy, theo Người: “vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới tùy thuộc phần lớn vào các thuộc địa” và “cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước” và “họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”.
2.1.2. Cách mạng giải phóng dân tộc không tách rời cách mạng vô sản nhưng chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân các dân tộc thuộc địa.
Dựa vào quan điểm của Mác, “sự nghiệp giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, năm 1921, trong Tuyên ngôn của Hội liên hiệp thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đi đến kết luận: “Hỡi anh em các dân tộc thuộc địa… công cuộc giải phóng anh, em (nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. Khối liên minh các dân tộc thuộc địa sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng thế giới và “sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”.
Trên đây là những luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; cống hiến quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới từ đầu thế kỷ XX đến nay đã khẳng định luận điểm của Hồ Chí Minh là đúng đắn và rất sáng tạo. Những kết luận mới mẻ trên của Hồ Chí Minh không phải là tham vọng “làm đảo lộn tư duy xã hội bằng những khám phá…” mà trái lại, Người xem chủ nghĩa Mác – Lênin như là “cẩm nang thần kỳ”, và vận dụng trên tinh thần biện chứng: “Các nguyên lý không phải là điểm xuât phát của sự nghiên cứu mà là kết quả cuối cùng của nó… không phải là giới tự nhiên và loài người phải phù hợp với các nguyên lý, mà trái lại các nguyên lý chỉ đúng trong trường hợp chúng phù hợp với giới tự nhiên và lịch sử”.
2.2. Giải phóng dân tộc là trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh thấy rõ mối quan hệ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với sự nghiệp giải phóng giai cấp của giai cấp vô sản nên Người đi tới khẳng định: “Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”.
Năm 1930, trong chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh xác định con đường của cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: làm “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Đến năm 1960, Hồ Chí Minh xác định “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với các mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Do đó “giành được độc lập rồi phải tiến lên chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là “làm sao cho dân giàu, nước mạnh”, “là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do.” Hồ Chí Minh khẳng định “yêu Tồ quốc, yêu nhân dân phải gắn với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, xóa bỏ ách áp bức dân tộc mà không xóa bỏ tình trạng bóc lột và áp bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Chỉ có thiết lập được chế độ sở hữu công hữu về tư liệu sản xuất mới xóa bỏ được tận gốc tình trạng áp bức bóc lột; chỉ có thiết lập được một nhà nước kiểu mới, một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân mới đảm bảo cho quyền làm chủ của người lao động, mới thực hiện được sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người. Hồ Chí Minh nói: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng được hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” và theo Người: Chủ nghĩa xã hội là “làm sao cho dân giàu, nước mạnh”, “là mọi người được ăn no, sung sướng, tự do”.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc chính là tiền đề cho giải phóng giai cấp. Tháng 5 năm 1941, Người khẳng định: “nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
2.3. Đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình đồng thời tôn trọng độc lập của các dân tộc khác.
Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc mình mà còn đấu tranh cho tất cả các dân tộc bị áp bức. Người nói: “chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là đấu tranh cho dân tộc ta vậy”. Chủ nghĩa dân tộc thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Hồ Chí Minh nêu cao tinh thân tự quyết của dân tộc, song không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình trong việc giúp đỡ các đảng cộng sản ở một số nước Đông Nam Á, ủng hộ nhân dân Trung Quốc chống Nhật, ủng hộ Lào và Campuchia chống Pháp. Người nói: “giúp bạn là tự giúp mình”, bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
Quan điểm kết hợp cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là một quan điểm có tính nguyên tắc được thể hiện một cách nhất quán trong tư tưởng và hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là sự kết hợp những phẩm chất tiêu biểu của nhà nhân đạo chủ nghĩa, người anh hùng giải phóng dân tộc và ngưởi chiến sỹ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế trong con người Hồ Chí Minh. Nói cách khác, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cái đặc thù giai cấp và dân tộc thống nhất với nhau và thống nhất với cái nhân loại phổ biến./.
Trả lời