Mục lục
Giải quyết tranh chấp Hợp đồng xây dựng quốc tế bằng phương thức hòa giải thương mại tại Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Mai Linh
TÓM TẮT
Trong lĩnh vực thương mại quốc tế nói chung, phương thức hòa giải thường được các bên tranh chấp đưa vào điều khoản giải quyết tranh chấp như một phương thức mang tính khuyến khích các bên sử dụng trước khi mang tranh chấp ra trọng tài quốc tế. Tuy nhiên, trong giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng quốc tế, sử dụng phương thức hòa giải mang lại hiệu quả cao hơn so với phương thức trọng tài bởi vì đây là một phương thức giải quyết tranh chấp không tranh tụng, chi phí tiết kiệm, thủ tục đơn giản và kết quả của quá trình hòa giải được công nhận bởi thủ tục trong nước và quốc tế. Bài viết sẽ làm rõ bản chất của hợp đồng xây dựng quốc tế và giải quyết tranh chấp bằng phương thức hòa giải tại Việt Nam.
Đối với tranh chấp hợp đồng xây dựng quốc tế, việc giải quyết tranh chấp bởi trọng tài hay Tòa án chưa hẳn là phương án tối ưu bởi gặp nhiều khó khăn về chi phí theo đuổi vụ kiện quá lớn và thời gian giải quyết tranh chấp kéo dài. Một thực tế cho thấy dù có tranh chấp xảy ra thì dự án hay công trình xây dựng sẽ không dừng lại khi càng kéo dài thời gian thì sẽ càng tạo ra nhiều vấn đề phát sinh tranh chấp vì thế điều quan trọng nhất trong ngành xây dựng quốc tế là hướng đến giải quyết tranh chấp chủ động2. Trong số các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng quốc tế, phương thức hòa giải là phương thức phù hợp với đặc thù của loại tranh chấp này. Do đó, trong khuôn khổ bài viết này, tác giả làm rõ 2 nội dung chính: (i) Tranh chấp hợp đồng xây dựng quốc tế; (ii) Giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng quốc tế bằng phương thức hòa giải và đánh giá khả năng gia nhập Công ước Singapore về hòa giải năm 2019 của Việt Nam.
1. Tranh chấp hợp đồng xây dựng quốc tế
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tranh chấp hợp đồng xây dựng quốc tế nhưng về bản chất là do sự phức tạp của loại hợp đồng này. Cụ thể:
Thứ nhất, sự tham gia của nhiều bên trong hợp đồng xây dựng quốc tế có năng lực khác nhau và lợi ích khác nhau làm tăng thêm sự phức tạp của tranh chấp xây dựng.
Hợp đồng xây dựng quốc tế điển hình thường có sự tham gia của hai chủ thể chính là chủ đầu tư và nhà thầu, bên cạnh đó còn có sự tham gia của các bên khác như ban quản lý dự án, nhà thầu phụ, nhà tư vấn (kỹ sư, kiến trúc sư), nhà tài trợ, ngân hàng, công ty bảo hiểm và các chuyên gia chuyên ngành trong các lĩnh vực khác nhau của xây dựng. Đặc biệt các hợp đồng xây dựng quốc tế thường có sự tham gia của nhiều chủ thể có quốc tịch khác nhau với nhiều ý tưởng khác nhau để vận hành các dự án xây dựng, từ đó có thể dẫn đến sự khác biệt trong văn hóa làm việc, nền tảng pháp lý, tập quán thương mại khác nhau… khiến cho các bên gặp khó khăn trong việc trao đổi, triển khai dự án xây dựng theo đúng tiến trình3.
Thứ hai, việc các bên trong hợp đồng chưa hiểu và lựa chọn đúng mẫu hợp đồng xây dựng quốc tế phù hợp vào hoàn cảnh có thể làm phát sinh tranh chấp trong quá trình kiểm soát và quản lý những rủi ro trong thực hiện hợp đồng xây dựng quốc tế.
Theo Báo cáo Tranh chấp xây dựng toàn cầu “Global Construction Disputes” năm 2019 của Arcadis, các nguyên nhân phổ biến nhất của tranh chấp là do các bên không hiểu hoặc không tuân thủ các nghĩa vụ hợp đồng của mình, sai sót hoặc thiếu sót trong tài liệu hợp đồng và vấn đề quản lý hợp đồng còn hạn chế4. Để có thể kiểm soát và quản lý những rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng xây dựng quốc tế thì một trong các bước quan trọng mà các bên thường sử dụng đó là sử dụng các mẫu hợp đồng xây dựng quốc tế phù hợp. Mẫu hợp đồng xây dựng quốc tế được các bên lựa chọn nhiều nhất đó là mẫu điều kiện Hợp đồng FIDIC5 được ban hành bởi Hiệp hội Quốc tế các kỹ sư tư vấn và mẫu hợp đồng ICE của Hiệp hội kỹ sư xây dựng Anh (Institution of Civil Engineers), gần đây là Mẫu hợp đồng NEC6 (New Engineering Contract – Hợp đồng kỹ thuật mới). Khi đàm phán hợp đồng các bên sẽ dựa trên các mẫu hợp đồng xây dựng quốc tế có sẵn để thảo luận và sau đó có thể thay đổi, bổ sung một số điều khoản cho phù hợp với dự án xây dựng của mình và khả năng của các chủ thể trong hợp đồng và phù hợp với pháp luật của nơi có dự án xây dựng. Tuy nhiên, việc quản lý rủi ro trong hợp đồng bằng cách sử dụng các mẫu hợp đồng xây dựng quốc tế cũng cần phải xem xét đến hoàn cảnh cụ thể của dự án và pháp luật quốc gia nơi diễn ra dự án xây dựng. Sự khác biệt này cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến tranh chấp nếu như ngay từ giai đoạn đàm phán hợp đồng, các bên không hiểu rõ về các điều kiện chung và riêng trong hợp đồng7.
Thứ ba, tranh chấp từ hợp đồng xây dựng ngày càng tăng về số lượng và giá trị.
Mặc dù không có một số liệu mang tính thống kê trên toàn thế giới về sự gia tăng về số lượng tranh chấp hợp đồng xây dựng quốc tế, nhưng dựa trên số liệu có sẵn của các trung tâm trọng tài thì tranh chấp từ hợp đồng xây dựng ngày càng tăng. Phòng Thương mại Quốc tế (International Chamber of Commerce – ICC) thống kê chung về tranh chấp được tiến hành thông qua ICC tăng nhanh qua các năm từ 2014 có 7918 vụ tranh chấp và các năm tăng đều, đến năm 2019 lên tới 8699 vụ tranh chấp mới được đăng ký giải quyết tại ICC theo trọng tài thương mại quốc tế. Tính đến cuối năm 2019, trọng tài ICC đang quản lý 1.694 vụ tranh chấp đang chờ xử lý. Ngoài ra, tranh chấp hợp đồng xây dựng quốc tế được giải quyết tại trung tâm giải quyết tranh chấp thay thế quốc tế (the ICC International Centre for ADR) cũng tăng lên từ 30 vụ tranh chấp trong năm 201710 và 35 vụ tranh chấp trong năm 2019 theo Quy tắc hòa giải ICC11. Trong các tranh chấp đã được đưa ra tại ICC thì tranh chấp phát sinh từ hợp đồng xây dựng quốc tế như các dự án xây dựng và cơ khí, năng lượng, viễn thông… chiếm 20% tổng số các vụ tranh chấp và giá trị tranh chấp cũng ngày càng tăng12. Giá trị tranh chấp bằng phương thức hòa giải theo Quy tắc hòa giải ICC từ năm 2017 dao động từ 50.000 USD đến 500 triệu USD13 và năm 2019 giá trị tranh chấp dao động từ 326.000 USD đến 216 triệu USD14. Tại Việt Nam, lĩnh vực tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) từ giai đoạn 1993 đến 31/5/2020 thì lĩnh vực xây dựng tăng lên tới 14% tổng số các lĩnh vực tranh chấp với tổng giá trị tranh chấp là 18,000 tỷ đồng, trị giá trung bình tranh chấp xây dựng là 90 tỷ đồng và trị giá tranh chấp lớn nhất là 6,000 tỷ đồng15. Như vậy, với những đặc thù riêng biệt như vậy của tranh chấp hợp đồng xây dựng quốc tế, đòi hỏi các bên phải hiểu được những ưu và nhược điểm của mỗi phương thức và dựa trên hoàn cảnh thực tiễn tại quốc gia giải quyết tranh chấp để lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp nhất.
2. Giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng quốc tế bằng phương thức hòa giải và đánh giá khả năng gia nhập Công ước Singapore về hòa giải năm 2019 của Việt Nam
Để giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng quốc tế đạt hiệu quả thì một trong những hành động thiết yếu là lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp. Theo quy định của Luật xây dựng năm 2020, các bên được sử dụng các phương thức giải quyết tranh chấp như thương lượng, hòa giải, trọng tài và Tòa án16. Ngoài ra, Nghị định số 37/2015/NĐ-CP ngày 22/4/2015 của Chính phủ về quy định chi tiết về Hợp đồng xây dựng (Nghị định số 37/2015/NĐ-CP) có quy định về phương thức giải quyết tranh chấp thông qua Ban xử lý tranh chấp (Dispute Adjudication Board – DAB)17. Mỗi phương thức giải quyết tranh chấp đều có những hạn chế nhất định tại môi trường pháp lý ở Việt Nam. Hòa giải là một trong các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế có thể giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng quốc tế một cách hiệu quả nhất so với những phương thức khác. Mặc dù, hòa giải không phải là phương thức giải quyết tranh chấp được các bên sử dụng nhiều nhất và đầu tiên khi phát sinh tranh chấp nhưng phương thức này lại mang lại hiệu quả cao và đáp ứng được cả các vấn đề về chi phí, thủ tục hòa giải và kết quả của quá trình hòa giải thành đều được công nhận cả trong nước và quốc tế.
Thứ nhất, hòa giải là một phương thức giải quyết tranh chấp không tranh tụng.
Phương thức hòa giải là một trong các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế (Alternative dispute resolution – ADR) khi có sự tham gia của một bên thứ ba trung lập. Vai trò của hòa giải viên ở hầu hết các pháp luật quốc gia và thủ tục hòa giải của các trung tâm hòa giải thương mại quốc tế18 công nhận là hòa giải viên không phải là người ra quyết định giải quyết tranh chấp, không đóng vai trò xét xử mà chỉ là người hỗ trợ hai bên đưa ra được quyết định cuối cùng. Các mục tiêu chính của hòa giải viên là tạo điều kiện cho các bên giao tiếp, thu hẹp các vấn đề đang tranh chấp và giúp các bên phát triển các giải pháp mà các bên đang thảo luận và có thể cung cấp một giải pháp nếu các bên không đạt được giải pháp thống nhất19. Vai trò của hòa giải viên là một phần của quá trình thương lượng và có sự biến chuyển phù hợp với nhu cầu và mong muốn của các bên tranh chấp và bằng cách này, sự xung đột của các bên được chuyển đổi thành sự hài hòa về mặt lợi ích, từ đó hai bên đều có thể đạt được mục tiêu của mình trong tiến trình hòa giải20. Do đó, sử dụng phương thức hòa giải trong giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng quốc tế có thể tạo ra kết quả hai bên đều thắng “win – win solution”. Thủ tục giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thường khá đơn giản và không phải chịu sự ràng buộc vào những quy định pháp luật cứng nhắc hay căn cứ pháp lý cụ thể, mà chủ yếu phụ thuộc vào sự thiện chí của hai bên tranh chấp và kỹ năng của hòa giải viên, vì thế dễ dàng đạt được thỏa thuận. Ngoài ra, trong tiến trình giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng quốc tế, thời gian và chi phí là hai yếu tố quan trọng nhất, do đó, bằng cách sử dụng hòa giải, các bên có thể nhanh chóng khôi phục lại công việc mà không làm mất thời gian và nguồn lực.
Thứ hai, khi giá trị tranh chấp hợp đồng xây dựng quốc tế càng cao thì sự lựa chọn phương thức hòa giải là phù hợp nhất.
Để so sánh về chi phí tố tụng trọng tài, hòa giải và Tòa án thì chi phí tố tụng bằng hòa giải sẽ thấp hơn hai thủ tục còn lại. Căn cứ vào phí giải quyết tranh chấp bằng hòa giải tại ICC có chi phí trung bình là 23.000 USD năm 2017 và phí đăng ký giải quyết tranh chấp là 3000 USD21, trong khi đó phí đăng ký giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ICC là 5000 USD và chí phí hành chính không vượt quá 150,000 USD22. Tại Việt Nam, Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam và Trung tâm Hòa giải Việt Nam tính phí trọng tài và hòa giải dựa trên giá trị tranh chấp, giá trị tranh chấp càng cao thì phí trọng tài và hòa giải càng nhiều. Phí trọng tài gấp ba lần phí hòa giải khi cùng một mức trị giá vụ tranh chấp và phí trọng tài chiếm 7,2 giá trị tranh chấp và phí hòa giải chiếm 2,6% giá trị tranh chấp23. Trong khi đó, án phí giải quyết tranh chấp tại Tòa án Việt Nam mức cao nhất là 4 tỷ thì án phí là 112 triệu và 0.1% của phần giá trị tài sản tranh chấp vượt 4 tỷ, tỉ lệ là 2,8% giá trị tranh chấp24. Như vậy mức phí của hòa giải là thấp nhất so với Tòa án và trọng tài.
Tranh chấp hợp đồng xây dựng thường có giá trị tranh chấp cao hơn so với những tranh chấp hợp đồng thương mại khác. Theo thống kê trong Báo cáo tranh chấp xây dựng toàn cầu “Global Construction Disputes” năm 2019 của Arcadis, giá trị tranh chấp cao nhất năm 2018 là 2 tỷ USD và mức trung bình giá trị tranh chấp xây dựng trên toàn cầu là 33 triệu USD25 và sẽ ngày càng tăng theo hàng năm. Với giá trị tranh chấp ngày càng tăng và mức phí giải quyết tranh chấp khác nhau theo các phương thức, thì các bên lựa chọn phương thức hòa giải có thể tiết kiệm được chi phí nhất và đảm bảo được lợi ích của cả hai bên tranh chấp.
Thứ ba, kết quả của quá trình hòa giải được công nhận bởi thủ tục trong nước và quốc tế.
Kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án đã được nhiều quốc gia công nhận tại thủ tục tòa án trong nước. Tại Việt Nam, Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24/02/2017 của Chính phủ quy định về hòa giải thương mại quy định về việc công nhận và cho thi hành kết quả hoà giải thành được xem xét công nhận theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự26. Theo đó, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định Toà án có nghĩa vụ tổ chức phiên họp công nhận hoà giải thành ngoài Toà án27. Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm28. Tuy nhiên, quyết định công nhận này có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Kết quả hòa giải ngoài tòa án được tòa án ra quyết định công nhận sẽ được cơ quan thi hành án dân sự thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự29.
Ở cấp độ quốc tế, sự ra đời của Công ước của Liên hợp quốc về Thỏa thuận giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải (United Nations Convention on International Settlement Agreements Resulting from Mediation (the “Singapore Convention on Mediation”) do UNCITRAL ban hành năm 2019 là một bước tiến trong lĩnh vực hoà giải thương mại. Công ước Singapore năm 2019 đã được 46 quốc gia, bao gồm cả Trung Quốc và Hoa Kỳ tham gia ký kết vào ngày 07/08/2019. Ngày 12/9/2020, có 6 quốc gia phê chuẩn bao gồm: Singapore, Fiji, Qatar, Ả Rập Saudi, Belarus và Ecuador đã đánh dấu hiệu lực của Công ước Singapore về Hòa giải30. Theo UNCITRAL, sự ra đời của Công ước bao gồm việc nó sẽ mang lại sự chắc chắn cho khuôn khổ quốc tế về hòa giải và tạo điều kiện thúc đẩy hòa giải như một phương thức thay thế và hiệu quả để giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế31. Công ước sẽ giúp cho việc giải quyết quốc tế phát sinh từ hòa giải dễ thực thi hơn, giống như Công ước New York đã đưa ra các phán quyết từ trọng tài quốc tế dễ thi hành hơn. Công ước sẽ cho phép các bên nộp đơn trực tiếp lên các Tòa án ở một quốc gia là thành viên của Công ước để thực thi các thỏa thuận giải quyết từ hòa giải theo cách tương tự như việc thực thi phán quyết trọng tài theo Công ước New York. Công ước Singapore được áp dụng với kết quả hoà giải thành khi nó được lập bằng văn bản, kết quả từ một cuộc hoà giải, và thoả thuận này do hai hoặc nhiều bên có trự sở thương mại ở các quốc gia khác nhau là các quốc gia có gia nhập hoặc phê chuẩn Công ước Singapore32.
Trước khi có sự ra đời của Công ước Singapore năm 2019, thông thường nếu một bên không thực thi quyết định hoà giải thành thì các bên có thể sẽ tiếp tục đưa tranh chấp ra giải quyết theo thủ tục Tòa án trong một khu vực tài phán cụ thể hoặc tố tụng trọng tài. Khi đó, bên tìm kiếm sự thực thi sẽ cần phải bắt đầu các thủ tục tố tụng của Tòa án hoặc trọng tài và như vậy kết quả giải quyết tranh chấp thông qua hoà giải không được thực thi, đây cũng chính là lý do mà phương thức hoà giải bị cản trở và phát triển chậm hơn so với phương thức trọng tài. Với những tranh chấp thương mại quốc tế hoặc trong tranh chấp hợp đồng xây dựng quốc tế thì sự thiếu hiệu quả và hài hoà trong khuôn khổ việc thực thi xuyên biên giới các thoả thuận hoà giải được coi là một thách thức đối với việc sử dụng phương thức hoà giải33. Như vậy, sự ra đời của Công ước Singapore đã đánh dấu sự thành công trong tương lai của phương thức hoà giải trong giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng quốc tế.
Hiện nay, Việt Nam chưa là thành viên của Công ước Singapore nên thủ tục công nhận và cho thi hành quyết định hoà giải thành xuyên biên giới không thể tiến hành tại Toà án Việt Nam, cũng như các quyết định hoà giải thành tại Việt Nam cũng không được công nhận tại các quốc gia khác. Trong tương lai việc gia nhập Công ước Singapore của Việt Nam cũng cần phải xem xét bởi những ưu điểm của Công ước này.
Đánh giá về khả năng gia nhập Công ước Singapore về hòa giải năm 2019 của Việt Nam, tác giả cho rằng trong tương lai, Việt Nam sẽ gia nhập công ước này. Với xu thế phát triển thương mại quốc tế hiện đại và khả năng hội nhập của Việt Nam thì việc gia nhập Công ước Singapore là phù hợp với xu thế chung. Để gia nhập được Công ước Singapore này cũng cần có thời gian để sửa đổi, bổ sung pháp luật trong nước bằng việc xây dựng một chương riêng để điều chỉnh vấn đề công nhận và cho thi hành quyết định hòa giải thành ở nước ngoài tại Việt Nam. Việc sửa đổi, bổ sung pháp luật Việt Nam có thể được thực hiện tương tự như các quy định trong Phần thứ 7 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam theo Công ước New York năm 1958. Việc đào tạo nguồn nhân lực tại Việt Nam để tiến hành thủ tục công nhận và cho thi hành kết quả hòa giải thành của các cá nhân tổ chức nước ngoài thì tác giả cho rằng đây không phải là khó khăn để cản trở việc gia nhập Công ước Singapore tại Việt Nam. Bởi lẽ, chủ thể thực hiện hoạt động này cũng chính là đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên đang thực hiện thủ tục công nhận và cho thi hành quyết định trọng tài nước ngoài./.
CHÚ THÍCH
- Thạc sỹ, Giảng viên Khoa Pháp luật Thương mại quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Global Contruction Disputes Report 2019, https://www.arcadis.com/en/united-states/our-perspectives/2019/global-construction-disputes-report-2019/, truy cập ngày 18/02/2021.
- https://imimediation.org/2016/10/17/an-introduction-to-construction-disputes/, truy cập ngày 18/02/2021.
- Global Contruction Disputes Report 2019, https://www.arcadis.com/en/united-states/our-perspectives/2019/global-construction-disputes-report-2019/, truy cập ngày 18/02/2021.
- Hiệp hội các Kỹ sư Tư vấn (Fédération Internationale Des Ingénieurs-Conseils – FIDIC) là một tổ chức xã hội nghề nghiệp của tất cả các kỹ sư tư vấn trên toàn thế giới, được thành lập năm 1913, có trụ sở chính tại Thụy Sỹ, http://fidic.org/about-us, truy cập ngày 18/02/2021.
- https://www.neccontract.com/, truy cập ngày 18/02/2021.
- Mẫu hợp đồng FIDIC đưa ra 2 loại điều kiện là Điều kiện chung (General Conditions) và Điều kiện cụ thể (Special Conditions), trong đó điều kiện chung là điều kiện khung cơ bản của hợp đồng quy định về các yếu tố quyền và nghĩa vụ của các bên, các vấn đề về bảo mật, an toàn lao động, luật áp dụng, giải quyết tranh chấp, miễn trách nhiệm… còn điều kiện riêng điều kiện phù hợp vời từng dự án cụ thể, hay nói cách khác điều kiện riêng là sự hài hoà của các điều kiện chung của hợp đồng FIDIC với luật pháp hiện hành điều chỉnh dự án xây dựng và đặc thù của dự án xây dựng.
- Angus N. McFadden; Gregory K. Smith, Issues and Solutions in International Construction Contracting, Construction Lawyer 36, no. 4 (Fall 2016): 7. tr.8.
- 2019 ICC Dispute Resolution Statistics, https://file-eu.clickdimensions.com/iccwboorg-avxnt/files/2019 iccdrsstatistics-august2020.pdf?m=8/7/2020%2011:19:05%20AM&_cldee=bWFpbGluaG5ndXllbjExMEBnb WFpbC5jb20%3d&recipientid=contact-a960f3899517eb11a813000d3abaad31-24adae9938974bae9d043f19ad0a3 dd3& esid=a7d04574-06bf-484d-8cfc-3d95399f333a, truy cập ngày 20/02/2021.
- 2017 ICC Dispute Resolution Statistics, https://cdn.iccwbo.org/content/uploads/sites/3/2018/07/2017-icc-dispute- resolution-statistics.pdf, truy cập ngày 20/02/2021.
- 2019 ICC Dispute Resolution Statistics, https://file-eu.clickdimensions.com/iccwboorg-avxnt/files/2019 iccdrsstatistics-august2020.pdf?m=8/7/2020%2011:19:05%20AM&_cldee=bWFpbGluaG5ndXllbjExMEBnb WFpbC5jb20%3d&recipientid=contact-a960f3899517eb11a813000d3abaad31-24adae9938974bae9d043f19ad0a3 dd3& esid=a7d04574-06bf-484d-8cfc-3d95399f333a, truy cập ngày 20/02/2021.
- Như trên.
- 2017 ICC Dispute Resolution Statistics, https://cdn.iccwbo.org/content/uploads/sites/3/2018/07/2017-icc-dispute- resolution-statistics.pdf, truy cập ngày 20/02/2021.
- 2019 ICC Dispute Resolution Statistics, https://file-eu.clickdimensions.com/iccwboorg-avxnt/files/2019 iccdrsstatistics-august2020.pdf?m=8/7/2020%2011:19:05%20AM&_cldee=bWFpbGluaG5ndXllbjExMEBnbWF pbC5jb20%3d&recipientid=contact-a960f3899517eb11a813000d3abaad31-24adae9938974bae9d043f19ad0a3dd3 & esid=a7d04574-06bf-484d-8cfc-3d95399f333a, truy cập ngày 20/02/2021.
- Phan Trọng Đạt, Thực tiễn giải quyết tranh chấp xây dựng tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC), Kỷ yếu Hội thảo Phòng ngừa rủi ro và giải quyết tranh chấp xây dựng bằng trọng tài, ngày 16/6/2020.
- Điều 146 Luật xây dựng năm 2020.
- Điều 45 Nghị định số 37/2015/NĐ-CP về quy định chi tiết về hợp đồng xây dựng.
- Quy tắc hòa giải của Uỷ Ban Liên hiệp quốc tế Luật thương mại quốc tế (UNCUTRAL) năm 2018, https://uncitral.un.org/en/texts/mediation/modellaw/commercial_conciliation>, Quy tắc hòa giải của Phòng thương mại quốc tế ICC 2014 <https://iccwbo.org/dispute-resolution-services/mediation/mediation-rules/.
- Julie Barker, International Mediation – A better Alternative for the Resolution of Commercial Dispute: Guidelines for U.S Negotior Involved in an International Commercial Mediation with Mexicans, Loyola of Los Angeles Interntional and comparative Law journal, Vol 19, number 1, 1996, tr. 10-11.
- Miruna Constantinescu; Monica Simona Corchis, Are Mediation Clauses Binding and Mandatory, 7 Juridical Trib. 53 (2017), tr. 55.
- https://iccwbo.org/dispute-resolution-services/mediation/costs-payment/, truy cập ngày 22/01/2021.
- https://iccwbo.org/dispute-resolution-services/arbitration/costs-and-payments/, truy cập ngày 22/01/2021.
- Đối với những tranh chấp từ 500 tỷ đồng thì phí trọng tài là 3,6 tỷ + 0.30% số tiền vượt quá 500 tỷ, còn phí hòa giải là 1,3 tỷ + 0,1% số tiền vượt quá 500 tỷ. Xem thêm: https://www.vmc.org.vn/bieu-phi, https://www.viac.vn/bieu-phi, truy cập ngày 22/01/2021.
- Nghị quyết số 326/2016/BTVQH14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
- Global Contruction Disputes Report 2019, https://www.arcadis.com/en/united-states/ourperspectives/2019/global- construction-disputes-report-2019/, truy cập ngày 22/01/2021.
- Điều 16 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP về Hòa giải thương mại.
- Điều 416 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Khoản 8 Điều 419 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Khoản 9 Điều 419 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Annex B, Singapore Convention on Mediation.
Trả lời