Đánh giá quy định pháp luật hiện hành về hòa giải viên thương mại ở Việt Nam
Tác giả: ThS. Lê Hương Giang
TÓM TẮT
Hòa giải viên thương mại chính thức được chuyên nghiệp hóa kể từ Nghị định số 22/2017/NĐ-CP của Chính phủ. Sau đó, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 02/2018/TT-BTP hướng dẫn sử dụng một số biểu mẫu về tổ chức và hoạt động hòa giải thương mại (sau đây gọi tắt là Thông tư 02/2018/TT-BTP). Câu hỏi đặt ra là các quy định pháp luật đã đủ thông thoáng và thúc đẩy sự phát triển của nghề hòa giải viên thương mại hay chưa? Bài viết đánh giá quy định pháp luật về hòa giải viên thương mại ở Việt Nam dưới hai khía cạnh là quy định về điều kiện hành nghề và nội dung hoạt động nghề nghiệp của hòa giải viên thương mại.
Xem thêm:
- Quy định trong khuôn khổ ASEAN về tự do hóa giao dịch vốn – tác động đối với các hoạt động đầu tư theo pháp luật Việt Nam – TS. Phan Thị Thành Dương & ThS. Nguyễn Thị Thương
- Một số vấn đề về quyền ban hành quy định bảo vệ môi trường của quốc gia tiếp nhận đầu tư – ThS. Nguyễn Hoàng Thái Hy & ThS. Ngô Nguyễn Thảo Vy
- Nguyên tắc bảo mật trong trọng tài đầu tư quốc tế và bình luận về sự bảo mật trong các tranh chấp đầu tư của Việt Nam – ThS. Lê Thị Ánh Nguyệt
- Truất hữu tài sản của nhà đầu tư nước ngoài trong trường hợp làm ô nhiễm môi trường – TS. Trần Việt Dũng
- Đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và việc giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực đối với môi trường của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam – ThS. Nguyễn Thị Bích Ngọc
- Trách nhiệm bồi thường đối với hành vi truất hữu tài sản của nhà đầu tư nước ngoài và các phương pháp định giá tài sản để bồi thường trong pháp luật đầu tư quốc tế – TS. Trần Việt Dũng
- Cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư trong khuôn khổ Hiệp định tự do thương mại – đầu tư Việt Nam – EU (EVFTA) – Một số vấn đề cần lưu ý – ThS. Nguyễn Thị Lan Hương
- Biện pháp hạn chế tác động tiêu cực của cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước của các Điều ước đầu tư: Phân tích từ kinh nghiệm của Úc và New Zealand – TS. Trần Việt Dũng
Khi xảy ra tranh chấp thương mại, các bên có thể lựa chọn hình thức thương lượng, hòa giải, trọng tài hoặc Tòa án. Trong đó, giải quyết tại Tòa án là phương thức mang tính truyền thống và thể hiện tính quyền lực nhà nước cao nhất so với các phương thức còn lại. Tuy nhiên, thủ tục giải quyết tranh chấp tại Tòa án khá cứng nhắc, không bảo đảm được bí mật kinh doanh, khó giữ được mối quan hệ đối tác do đặc thù xét xử không mang tính ôn hòa, thời gian xét xử kéo dài. Mặc dù giải quyết tranh chấp bằng Tòa án vẫn giữ được vị trí quan trọng, nhưng Nhà nước vẫn cần hoàn thiện khung pháp lý nhằm thúc đẩy các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án
Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 24/5/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 khẳng định về định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc tế. theo đó Nhà nước phải “hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế (trọng tài, hòa giải) phù hợp với tập quán thương mại quốc tế”. Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 2/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng nêu rõ chủ trương về việc “khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó”. Phương thức trọng tài thương mại đã khẳng định được vị trí trong thị trường thông qua sự ra đời của Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Đối với hòa giải thương mại, Nghị định số 22/2017/NĐ-CP là văn bản pháp luật đầu tiên cụ thể hóa nội dung của phương thức giải quyết tranh chấp này. Nghị định này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động nghề nghiệp của hòa giải viên thương mại ở Việt Nam.
Hòa giải là một phương thức giải quyết tranh chấp không mang tính xét xử, mà ở đó các bên tranh chấp hoặc có mâu thuẫn sử dụng sự trợ giúp của bên thứ ba trung lập nỗ lực giải quyết tranh chấp của họ.[1] Như vậy, hòa giải viên thương mại là cá nhân trực tiếp thực hiện việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương pháp hòa giải. Tại Việt Nam, hòa giải viên thương mại bao gồm hòa giải viên thương mại vụ việc và hòa giải viên thương mại của tổ chức hòa giải thương mại được các bên lựa chọn hoặc được tổ chức hòa giải thương mại chỉ định theo đề nghị của các bên để hỗ trợ các bên giải quyết tranh chấp.[2] Mối quan hệ giữa hòa giải viên với các bên tranh chấp là mối quan hệ trợ giúp. Với tư cách là bên thứ ba giải quyết tranh chấp, hòa giải viên phải bảo đảm vô tư, khách quan, không đứng về bên nào trong quá trình giải quyết tranh chấp. Vai trò và mức độ tham gia giải quyết tranh chấp của hòa giải viên chính là điểm khác biệt cơ bản giữa mô hình hòa giải so với Trọng tài hay Tòa án.
Nếu như trong phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án, Thẩm phán là chủ thể đại diện cho quyền lực nhà nước xét xử vụ việc, do đó, các thương nhân không thể đòi hỏi một cơ chế giải quyết linh hoạt, mềm dẻo. Đối với trọng tài thương mại, Trọng tài viên, chủ thể được các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp, cũng là một bên thứ ba có quyền lực xét xử để đưa ra một phán quyết dựa trên ý chí của mình. Khác với hai chủ thể trên, hòa giải viên không phải là người xét xử mà có vai trò là một bên trung gian trợ giúp, sử dụng các kỹ năng, kiến thức để khuyến nghị các bên, hướng tới một kết quả có lợi nhất cho cả đôi bên tranh chấp.
1. Đánh giá quy định pháp lý về điều kiện hành nghề hòa giải thương mại
Thứ nhất, về việc xác định tiêu chuẩn hành nghề hòa giải viên thương mại
Pháp luật Việt Nam hiện nay áp dụng cả hai loại tiêu chuẩn định lượng và định tính cho việc hành nghề của hòa giải viên thương mại. Về tiêu chuẩn định lượng, hòa giải viên phải là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, có trình độ đại học trở lên và đã qua thời gian công tác trong lĩnh vực được đào tạo từ 02 năm trở lên. Các tiêu chuẩn định tính bao gồm hòa giải viên phải có đạo đức tốt, có uy tín, độc lập, vô tư, khách quan, có kỹ năng hòa giải, hiểu biết pháp luật, tập quán kinh doanh, thương mại và các lĩnh vực liên quan.[3] Pháp luật quy định một số trường hợp bị cấm trở thành hòa giải viên như “người đang là bị can, bị cáo, người đang chấp hành án hình sự hoặc đã chấp hành xong bản án nhưng chưa được xóa án tích; người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc thì không được làm hòa giải viên thương mại”.[4] Ngoài ra, các trung tâm hòa giải thương mại có thể quy định tiêu chuẩn hòa giải viên cao hơn các tiêu chuẩn trên, nhưng không được quy định tiêu chuẩn thấp hơn.[5] Việc áp dụng cả hai tiêu chí định lượng và định tính như vậy đối với hòa giải viên hành nghề tại Việt Nam là khá cứng nhắc, chưa hướng đến việc bảo đảm chất lượng thực tế cho hòa giải viên.
So sánh với tiêu chuẩn hòa giải viên của một số quốc gia khác trên thế giới, các quy định của Việt Nam về hòa giải viên lại không chú trọng vào việc quản lý chất lượng hòa giải viên, không có các quy định cụ thể để đánh giá khả năng và kinh nghiệm. Liên quan đến vấn đề này, Việt Nam cần tham khảo quy định của một số quốc gia khác về cách xác định tiêu chuẩn hành nghề của hòa giải viên.
Pháp luật Australia quy định tiêu chuẩn về hòa giải viên là phải có khả năng và kinh nghiệm thực tế.[6] Việc quản lý chất lượng hòa giải viên được xác định theo Hệ thống cấp phép hòa giải viên quốc gia (National Mediator Accreditation System – NMAS). Theo đó, NMAS có thẩm quyền đưa ra các tiêu chuẩn về kiến thức và kỹ năng để cấp phép hòa giải viên. Hành nghề hòa giải ở Australia được bắt đầu bằng việc xem xét các tiêu chuẩn của người nộp đơn để trở thành hòa giải viên. Người nộp đơn phải có đạo đức tốt, có kiến thức và kinh nghiệm phù hợp để có thể hành nghề một cách độc lập, thành thạo và chuyên nghiệp. Người nộp đơn phải nộp các loại giấy tờ để chứng minh những tiêu chuẩn như trên. Sau đó, người nộp đơn phải hoàn thành chương trình đào tạo hòa giải viên được điều hành bởi NMAS và phải đáp ứng các tiêu chuẩn đánh giá tại cơ quan này. Sau khi thỏa mãn các điều kiện đó mới được xem xét để được cấp phép hành nghề trong vòng 02 năm.[7]
Ở Singapore, theo quy định mới tại Luật Hòa giải năm 2017 thì việc hành nghề của hòa giải viên phải tuân theo các tiêu chuẩn và được cấp chứng nhận từ Viện hòa giải quốc tế Singapore (Singapore International Mediation Institute – SIMI) – một tổ chức phi lợi nhuận được hỗ trợ bởi Bộ Tư pháp và trực thuộc Trường Đại học Quốc gia Singapore. Tổ chức này là cơ quan đầu mối, có thể liên kết đào tạo hòa giải viên với nhiều tổ chức khác như Viện giải quyết tranh chấp quốc tế Singapore (Singapore International Dispute Resolution – SIDRA), Trung tâm hòa giải Singapore (SMC). Tổ chức này thiết kế các tiêu chuẩn cho việc xác định chất lượng của hòa giải viên. Đối với hòa giải viên được công nhận ở tiêu chuẩn số 01 là hòa giải viên hoàn thành và qua được Chương trình huấn luyện trong thời gian 02 năm trước ngày nộp đơn yêu cầu. Đối với hòa giải viên được công nhận ở tiêu chuẩn số 02 thì cần đáp ứng thêm tiêu chuẩn kinh nghiệm trong thời gian 02 năm trước ngày nộp đơn yêu cầu, cụ thể là cần hòa giải 05 vụ việc hoặc 50 giờ nếu một hoặc một số vụ việc hòa giải kéo dài hơn một ngày, cung cấp được ít nhất 02 phản hồi cho các vụ việc đã hòa giải. Đối với hòa giải viên được công nhân ở tiêu chuẩn số 03, số kinh nghiệm được nâng lên là 12 vụ việc hoặc 120 giờ hòa giải nếu một hoặc nhiều vụ hòa giải kéo dài hơn một ngày, cung cấp ít nhất 05 phản hồi cho các vụ việc đã hòa giải. Đối với hòa giải viên được công nhận hoàn toàn (certified mediator) thì số kinh nghiệm phải được hoàn thành trong thời hạn 03 năm ngay trước khi nộp đơn yêu cầu được xác định là 20 vụ việc hoặc 200 giờ nếu một hoặc một số vụ việc kéo dài hơn một ngày.[8] Các hòa giải viên ở cấp độ cuối cùng là phải hoàn thành lý lịch hòa giải viên SIMI, nộp được ít nhất 10 phản hồi từ các vụ việc đã tham gia xử lý và phải vượt qua kiểm tra đánh giá về kiến thức và kỹ năng.
Ở Đức, hòa giải viên tư bao gồm hai loại: hòa giải viên chứng nhận (certified mediators) và hòa giải viên không được chứng nhận (uncertified mediators). Do là thành viên của Liên minh châu Âu (EU) nên các hòa giải viên ở Đức ngoài việc tuân thủ quy định của quốc gia, cũng cần tuân thủ theo Bộ Quy tắc châu Âu về ứng xử cho hòa giải viên (The European Code of Conduct for Mediators).[9] Thực tế ở Đức, bất kỳ ai cũng có thể trở thành hòa giải viên, quy định về hòa giải viên chứng nhận (certified mediator) tại Luật Hòa giải Cộng hòa Liên bang Đức không tước quyền trở thành hòa giải viên của các cá nhân trong xã hội. Tuy nhiên, để có thể được gọi là hòa giải viên có chứng nhận thì người này cần phải đáp ứng các tiêu chí được quy định tại Quy định về đào tạo các hòa giải viên được chứng nhận (Certified mediators training regulation – ZMediatAusbV).[10] Chương trình đào tạo hòa giải viên bao gồm một khóa học với tổng thời lượng ít nhất 120 giờ. Sau khi hoàn thành khóa học, hòa giải viên phải tiến hành một phiên hòa giải với tư cách hòa giải viên hoặc đồng hòa giải viên và được cấp xác nhận của một người giám sát (có ý nghĩa như việc thực hành hòa giải). Ở Đức không có một cơ quan nhà nước nào đứng ra giảng dạy và cấp chứng chỉ hành nghề cho hòa giải viên. Việc đào tạo và cấp chứng chỉ sẽ do những tổ chức dạy nghề, giáo dục có đủ năng lực cung cấp. Hoạt động đào tạo hòa giải viên ở Đức tập trung cả vào kỹ năng và kiến thức cho hòa giải viên.
Nội dung của khóa học là khá đồ sộ bao gồm tổng 120 giờ, cụ thể: 18 giờ học về các vấn đề cơ bản của hòa giải; 30 giờ học về các điều kiện khung của hòa giải; 12 giờ học về các kỹ thuật đàm phán và thẩm quyền; 18 giờ học về kỹ thuật giao tiếp và thảo luận; 12 giờ học về giải quyết xung đột; 18 giờ học về vấn đề pháp luật hòa giải; 12 giờ học về thẩm quyền, thái độ và vai trò của hòa giải viên. Đức rất chú trọng vào việc duy trì chất lượng của hòa giải viên. Các hòa giải viên được chứng nhận không chỉ cần hoàn thành khóa học ban đầu, mà còn tiếp tục nâng cao trình độ trong thời gian sau đó. Sau khi được chứng nhận, hòa giải viên có chứng nhận phải có 4 lần thực hiện hòa giải được cấp chứng chỉ đánh giá (single-supervisor) trong khoảng thời gian 2 năm kể từ khi được chứng nhận. Chứng nhận về đánh giá sẽ được ban hành cho mỗi buổi đánh giá độc lập. Trong thời gian 4 năm kể từ khi được cấp chứng chỉ hòa giải viên, các hòa giải viên được chứng nhận cũng vẫn phải tiếp tục tham gia vào các khóa huấn luyện có thời lượng ít nhất 40 giờ với mục đích là để nâng cao và cập nhật những nội dung về kiến thức và kỹ năng hòa giải. Theo quy định tại Điều 5. (1) của Luật Hòa giải Cộng hòa Liên bang Đức thì ngay cả khi các hòa giải viên không được chứng nhận cũng phải có “kiến thức lý thuyết và kinh nghiệm thực hành” để có thể tiến hành hòa giải vụ việc. Nếu trong trường hợp hòa giải viên vi phạm các nghĩa vụ trong hoạt động hòa giải, trách nhiệm của hòa giải viên có thể được xác định theo hợp đồng giữa các bên và hòa giải viên có thể bị các bên tranh chấp kiện tới Tòa án.
Thứ hai, về thủ tục pháp lý để hành nghề hòa giải viên thương mại
Theo cách tiếp cận hiện nay của pháp luật Việt Nam, hòa giải viên thương mại có tư cách là một chủ thể thực hiện hoạt động hòa giải, được tiến hành hòa giải với tư cách là hòa giải viên thương mại của một Trung tâm hòa giải thương mại hoặc hòa giải viên thương mại vụ việc có đăng ký tại Sở Tư pháp.[11] Để trở thành hòa giải viên hợp pháp, những người đủ tiêu chuẩn hòa giải viên phải có tên trong danh sách của một tổ chức hòa giải cụ thể hoặc có tên trong danh sách hòa giải viên thương mại vụ việc được công bố (đã được đăng ký) trên Cổng thông tin của Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi người đó thường trú, hoặc tạm trú nếu là người nước ngoài.[12]
Đối với hòa giải viên thương mại vụ việc, hòa giải viên cần thực hiện thủ tục đăng ký hòa giải viên thương mại vụ việc với hồ sơ đăng ký gửi đến Sở Tư pháp nơi người đó thường trú (hoặc tạm trú với người nước ngoài) bao gồm: Giấy đề nghị đăng ký làm hòa giải viên thương mại vụ việc theo Mẫu số 01/TP-HGTM ban hành kèm theo Thông tư số 02/2018/TT-BTP; bản sao có chứng thực hoặc bản sao kèm theo bản chính để đối chiếu bằng tốt nghiệp đại học hoặc bằng sau đại học; giấy tờ chứng minh đã qua thời gian công tác trong lĩnh vực được đào tạo từ 02 năm trở lên có xác nhận của cơ quan, tổ chức người đó làm việc. Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Sở Tư pháp sẽ ghi tên người đề nghị vào danh sách hòa giải viên thương mại vụ việc công bố trên Cổng thông tin điện tử của Sở Tư pháp. Nếu từ chối, Sở Tư pháp sẽ giải thích lý do bằng văn bản. Đối với hòa giải viên thương mại thuộc tổ chức hòa giải thương mại thì sẽ được công nhận bởi chính tổ chức hòa giải thương mại với các tiêu chuẩn tối thiểu theo quy định pháp luật. Sau đó, tổ chức này sẽ chịu trách nhiệm gửi danh sách hòa giải viên thương mại cho Bộ Tư pháp để tiến hành công bố theo mẫu số 21/TP-HGTM ban hành kèm theo Thông tư số 02/2018/TT-BTP. Các bên tranh chấp sẽ có thể tiếp cận danh sách này trên Cổng thông tin điện tử của Sở Tư pháp (đối với hòa giải viên thương mại vụ việc) hoặc thông qua công bố của các trung tâm hòa giải thương mại (đối với hòa giải viên thương mại quy chế). Ngoài ra, Bộ Tư pháp cũng sẽ là cơ quan giữ vai trò công bố danh sách hòa giải viên thương mại, danh sách tổ chức hòa giải thương mại trên toàn quốc.
Từ những quy định quản lý nhà nước đối với hòa giải thương mại này, có thể thấy rõ cơ chế chuyên nghiệp hóa nghề hòa giải thương mại ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, cơ chế này còn mang nặng tính hành chính, quản lý hòa giải khắt khe và có khả năng tạo rào cản cho sự phát triển của nghề hòa giải viên. Để tạo điều kiện cho hoạt động nghề nghiệp của hòa giải viên thương mại phát triển, Việt Nam nên giản lược điều kiện và thủ tục hành chính đối với hòa giải viên thương mại, thay vào đó, tập trung vào chính sách đào tạo nâng cao chất lượng hòa giải viên. Theo đó, pháp luật chỉ nên quy định hòa giải viên là người có kiến thức, hiểu biết và kỹ năng cần thiết để thực hiện hòa giải thương mại. Tiêu chuẩn cụ thể về hòa giải thương mại nên để cho Trung tâm hòa giải (đối với hòa giải quy chế) hoặc các bên tranh chấp (đối với hòa giải vụ việc) tự xác định. Với cách quy định như vậy thì cũng sẽ giảm thiểu được thủ tục đăng ký hòa giải viên với cơ quan nhà nước, tạo cơ chế thông thoáng và lực lượng hòa giải viên dồi dào cho thị trường. Đồng thời, pháp luật cũng cần ban hành các quy định về việc đào tạo để cấp chứng chỉ hòa giải viên thương mại. Việc cấp chứng chỉ chỉ nhằm xác định một khối lượng kiến thức, kỹ năng đã được tích lũy của hòa giải viên, giúp hòa giải viên có chứng nhận đối với khách hàng. Việc cấp chứng chỉ hòa giải viên không làm loại trừ quyền được cung cấp dịch vụ hòa giải của các hòa giải viên chưa được cấp chứng chỉ trong xã hội. Tuy nhiên, đây sẽ là một hoạt động nhằm thúc đẩy chất lượng hòa giải viên, kích thích các hòa giải viên phải luôn nâng cao chuyên môn nghề nghiệp. Theo đó, Việt Nam nên học hỏi kinh nghiệm của Đức hay Singapore trong việc xây dựng chương trình đào tạo hòa giải viên và chọn lọc áp dụng cho quốc gia mình. Bên cạnh đó, pháp luật cần bổ sung quy định về các đối tượng bị cấm trở thành hòa giải viên, bao gồm thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, chấp hành viên, công chức thuộc Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án, để bảo đảm tính khách quan, uy tín, phẩm chất đạo đức của hòa giải viên trong hoạt động hòa giải.
2. Đánh giá quy định pháp lý về nội dung hoạt động nghề nghiệp của hòa giải viên thương mại
Quy định các tiêu chuẩn và thủ tục để quản lý hòa giải viên thương mại đã cho thấy đây được coi là một loại chủ thể hành nghề chuyên nghiệp trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp thương mại.
Với tư cách là chủ thể có chuyên môn tham gia vào vụ tranh chấp, hòa giải viên thương mại thường là chuyên gia trong lĩnh vực mà các bên đang có tranh chấp. Để giải quyết được tranh chấp, hòa giải viên vận dụng kiến thức và kỹ năng của mình nhưng cũng cần tuân theo các quy tắc, thủ tục hòa giải được quy định bởi Nhà nước, trung tâm hòa giải (đối với hòa giải viên thương mại quy chế). Trong trường hợp có các quy tắc hành nghề, quy tắc ứng xử và đạo đức thì hòa giải viên cũng cần tuân thủ. Một trong những quốc gia có quy định khá chặt chẽ về Quy tắc tiêu chuẩn đạo đức cho hòa giải viên là Australia. Theo quy định của NMAS thì hòa giải viên cần tuân thủ các tiêu chuẩn về tính trung lập và công bằng, tính tự quyết, thủ tục công bằng, sự tự nguyện, sự bảo mật và thẩm quyền. Hiện nay, Việt Nam chưa xây dựng được bộ Quy tắc tiêu chuẩn đạo đức, hành nghề mẫu cho hòa giải viên. Điều này sẽ gây khó khăn cho chính các trung tâm hòa giải và hòa giải viên vụ việc, đặc biệt trong bối cảnh nghề hòa giải thương mại còn rất mới mẻ.
Với tư cách là chủ thể cung cấp dịch vụ hòa giải, hòa giải viên thương mại có các quyền và nghĩa vụ như sau:
Một là, về quyền của hòa giải viên.
Hòa giải viên có quyền chấp nhận hoặc từ chối thực hiện hoạt động hòa giải thương mại.[13] Hòa giải thương mại là một hoạt động có tính chất tự nguyện, nguyên tắc này không chỉ được áp dụng cho các bên tranh chấp, mà còn áp dụng cho hòa giải viên. Không ai có quyền ép buộc hòa giải viên tham gia giải quyết các vụ tranh chấp. Do đó, khi các bên tranh chấp lựa chọn một hòa giải viên, hòa giải viên này có quyền chấp nhận hoặc không chấp nhận lời đề nghị này. Tuy nhiên, quyền này của hòa giải viên thương mại đặt ra vấn đề, nếu hòa giải viên quy chế tại một trung tâm hòa giải cụ thể, thì hòa giải viên có quyền chấp nhận hoặc từ chối thực hiện hoạt động hòa giải theo sự phân công của trung tâm hòa giải hay không? Đây là điểm mà Nghị định số 22/2017/NĐ-CP còn chưa làm rõ. Bất cập này có khả năng gây ra nhiều cách hiểu khác nhau trên thực tế.
Hòa giải viên có quyền từ chối cung cấp thông tin liên quan đến vụ tranh chấp, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận bằng văn bản hoặc theo quy định của pháp luật.[14] Quy định này về quyền của hòa giải viên nhằm hướng tới sự đồng bộ với nguyên tắc bảo mật trong thủ tục hòa giải.
Hai là, về nghĩa vụ của hòa giải viên.[15]
Trong quá trình tham gia vụ việc hòa giải, hòa giải viên có trách nhiệm thực hiện thủ tục hòa giải theo sự thỏa thuận của các bên hoặc quy định của trung tâm hòa giải. Trước hết, hòa giải viên có nghĩa vụ phải thông báo cho các bên về thẩm quyền của mình đối với vụ tranh chấp. Phạm vi quyền của hòa giải viên bao gồm phạm vi về loại vụ việc mà hòa giải viên tham gia giải quyết, phạm vi hỗ trợ của hòa giải viên đối với vụ việc. Hòa giải viên cũng cần thông báo cho các bên tranh chấp về vấn đề thù lao và chi phí trước khi tiến hành hoạt động hòa giải. Với vai trò bên thứ ba hỗ trợ các bên giải quyết tranh chấp, hòa giải viên thương mại cần hoạt động một cách vô tư, khách quan và trung thực, tôn trọng thỏa thuận của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp. Để loại trừ các yếu tố có khả năng ảnh hưởng tới sự khách quan và vô tư của hòa giải viên đối với vụ việc, hòa giải viên không được đồng thời đảm nhiệm vai trò đại diện hay tư vấn cho một trong các bên, không đồng thời là trọng tài viên đối với cùng vụ tranh chấp đang hoặc đã tiến hành hòa giải, trừ khi các bên có thỏa thuận khác. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, hòa giải viên biết được các thông tin về vụ việc, khách hàng thì cũng không được phép tiết lộ, trừ trường hợp được các bên tranh chấp đồng ý bằng văn bản.[16]
Theo tác giả, mặc dù Nghị định số 22/2017/NĐ-CP đã có những quy định cơ bản về quyền và nghĩa vụ của hòa giải viên, tuy nhiên để bảo đảm tốt hơn thì cần bổ sung một số quyền và cụ thể hóa hơn một số loại nghĩa vụ tại Điều 9. Về quyền của hòa giải viên thương mại thì bên cạnh thù lao, hòa giải viên có quyền được trả các khoản chi phí phát sinh hợp lý và các khoản chi phí khác (nếu có) theo thỏa thuận. Ngoài ra, cần bổ sung quyền được yêu cầu các bên cung cấp các thông tin và tài liệu cần thiết để tiến hành giải quyết tranh chấp; quyền được đưa ra các đề xuất, ý kiến trong quá trình giải quyết tranh chấp để các bên tham khảo và đưa ra các kết luận trên cơ sở sự đồng thuận của các bên; quyền được thực hiện các hoạt động khác không xâm phạm các nguyên tắc của hòa giải thương mại với mục đích giải quyết tranh chấp cho các bên. Như vậy thì hòa giải viên thương mại sẽ có cơ sở pháp lý tốt hơn để có thể tham gia giải quyết tranh chấp cho các bên một cách hiệu quả.
Về nghĩa vụ, đối với hòa giải viên thương mại, khoản 2 Điều 9 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP cũng cần quy định rõ hơn về một số nghĩa vụ liên quan đến chế độ bảo mật và giải quyết tranh chấp. Để bảo đảm nguyên tắc bảo mật trong hòa giải, nên quy định cụ thể về đối tượng cần được bảo mật, hòa giải viên thương mại cần bảo vệ bí mật, không tiết lộ các thông tin về các bên tranh chấp và vụ tranh chấp (kể cả những thông tin có được trong quá trình hòa giải hoặc từ quá trình hòa giải) với bên thứ ba, trừ trường hợp có sự đồng ý của các bên hoặc trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, pháp luật cũng nên quy định rõ hơn về nghĩa vụ của hòa giải viên về việc nỗ lực và sử dụng các biện pháp cần thiết không xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của các bên nhằm hỗ trợ các bên đạt được kết quả giải quyết tranh chấp một cách hiệu quả nhất.
CHÚ THÍCH
[1] David Spencer, Michael Brogan, Mediation Law and Pratice, Cambridge University Press, 2006, p. 3.
[2] Khoản 3 Điều 3 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP.
[3] Khoản 1 Điều 7 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP.
[4] Khoản 4 Điều 7 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP.
[5] Khoản 3 Điều 7 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP.
[6] Mary Anne Noone, Lola Akin Ojelabi, “Ethical Challenges for mediators around the globe: An Australia perspective”, Washington University Journal of Law and Policy, Vol. 45 New Directions in global dispute resolution, 2014, p. 161, http://openscholarship.wustl.edu/law_journal_law_policy/vol45/iss1/11, truy cập ngày 10/04/2018
[7] Australian National mediator accreditation system (NMAS), http://www.ama.asn.au/wp-content/uploads/2012/04/AMA-Revised-NMAS-1-July-2015.pdf, truy cập ngày 10/03/2018.
[8] Singapore International Mediation Institute, About the SIMI Credentialing Scheme, http://www.simi.org.sg/What-We-Offer/Mediators/SIMI-Credentialing-Scheme, truy cập ngày 22/04/2018.
[9] European Code of Conduct for Mediators, http://ec.europa.eu/civiljustice/adr/adr_ec_code_conduct_en.pdf, truy cập ngày 11/03/2018
[10] Verordnung über die Aus- und Fortbildung von zertifizierten Mediatoren (Zertifizierte – Mediatoren – Ausbildungsverordnung – ZMediatAusbV) – Regulation on the training and further education of certified mediators (Certified Mediator Training Ordinance), https://www.gesetze-im-internet.de/zmediatausbv/BJNR199400016.html, truy cập ngày 25/04/2018.
[11] Khoản 2 Điều 7 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP.
[12] Điều 8 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP.
[13] Điểm a khoản 1 Điều 9 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP.
[14] Điểm b khoản 1 Điều 9 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP.
[15] Quy định chủ yếu tại khoản 2 Điều 9 và Điều 10 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP.
[16] Khoản 1 Điều 10 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP.
Tác giả: ThS. Lê Hương Giang
Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 09(121)/2018 – 2018, Trang 30-36
Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời