Mục lục
Bình luận án lệ – Lãi chậm trả trong quan hệ thương mại
Tác giả: PGS.TS. Đỗ Văn Đại
TÓM TẮT
Bài bình luận án lệ số 09/2016/AL cho biết khoản tiền làm phát sinh lãi chậm trả cũng như khoản tiền không làm phát sinh lãi chậm trả trong hoạt động thương mại. Bài bình luận cũng cho biết cách thức xác định mức lãi chậm trả trong hoạt động này.
Xem thêm:
- Bình luận án lệ 13/2017: Giá trị pháp lý của UCP và tính độc lập của L/C – PGS.TS. Đỗ Văn Đại
- Bình luận án lệ 12/2017/AL: Xác định trường hợp đương sự được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất sau khi Tòa án đã hoãn phiên tòa – ThS. Huỳnh Quang Thuận
- Bình luận án lệ 04/2016/AL: Về sự ưng thuận trong giao dịch dân sự – PGS.TS. Đỗ Văn Đại
- Bình luận án lệ 26/2018/AL: Thời hiệu yêu cầu chia di sản đối với thừa kế mở trước khi có BLDS 2015 – PGS.TS. Đỗ Văn Đại
- Bình luận án lệ 02/2016/AL: Đứng tên giùm người nước ngoài mua bất động sản – PGS.TS. Đỗ Văn Đại
TỪ KHÓA: Án lệ, Bình luận án lệ, Đỗ Văn Đại, Lãi chậm trả,
Án lệ số 09/2016/AL (có nguồn gốc là Quyết định số 07/2013/KDTM-GĐT ngày 15/3/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao)
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định:
1. Từ tháng 10/2006 đến tháng 02/2007, Công ty thép Việt Ý và Công ty kim khí Hưng Yên đã ký với nhau 4 hợp đồng kinh tế (số 03/2006-HĐKT ngày 03/10/2006, số 05/2006-HĐKT, số 06/2006-HĐKT ngày 20/12/2006 và số 01/2007-HĐKT ngày 01/02/2007).
Thời điểm các bên ký kết hợp đồng, về phía Công ty kim khí Hưng Yên, bà Lê Thị Ngọc Lan vẫn là người đại diện theo pháp luật (căn cứ theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thay đổi lần 5 ngày 12/8/2005 và lần 6 ngày 06/7/2007 của Công ty kim khí Hưng Yên và Quyết định về việc thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh số 140/QĐ-HĐCĐ ngày 02/7/2007 của Công ty kim khí Hưng Yên). Tại Giấy ủy quyền số 621/UQ-KKHY ngày 10/9/2005, bà Lan đã “1. Ủy quyền quản lý và điều hành Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên cho ông Nguyễn Văn Tỉnh. 2. Ông Nguyễn Văn Tỉnh chịu trách nhiệm: a/ Đại diện Công ty trong các mối quan hệ với Ngân hàng, các tổ chức, cá nhân và các cơ quan hữu quan khác để bảo đảm cho sự hoạt động bình thường của công ty; b/ Thay mặt Công ty thực hiện các giao dịch dân sự, kinh tế và thương mại trong phạm vi ngành nghề kinh doanh của Công ty”. Ngày 20/11/2006, bà Lan có Giấy ủy quyền số 1296/UQ/HYM ủy quyền quản lý và điều hành Công ty cho ông Lê Văn Mạnh (nội dung ủy quyền tương tự như nội dung ủy quyền cho ông Tỉnh).
Việc bà Lan có các giấy ủy quyền nói trên cho ông Nguyễn Văn Tỉnh, ông Lê Văn Mạnh (là các Phó Tổng giám đốc Công ty) được quyền ký kết các hợp đồng kinh tế là hoàn toàn hợp pháp. Ông Tỉnh, ông Mạnh là người ký kết hợp đồng nhân danh pháp nhân, không phải nhân danh cá nhân nên không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Vì vậy, không thể xác định ông Tỉnh và ông Mạnh là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án này như yêu cầu của phía bị đơn cũng như nhận định của Toà án cấp phúc thẩm.
Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào Bản thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân giữa bà Lê Thị Ngọc Lan và ông Lê Văn Dũng và Bản cam kết về nợ của Công ty giữa ông Lê Văn Dũng và bà Nguyễn Thị Toàn để cho rằng ông Dũng, bà Lan, bà Toàn đều là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng là không đúng. Bởi lẽ, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Lê Văn Dũng và bà Lê Thị Ngọc Lan; việc bà Nguyễn Thị Toàn và ông Lê Văn Dũng có thỏa thuận với nhau về trách nhiệm thanh toán các khoản nợ là việc nội bộ của Công ty kim khí Hưng Yên. Việc cam kết về nợ giữa ông Dũng và bà Toàn chưa được bên có quyền là Công ty thép Việt Ý đồng ý. Theo quy định tại khoản 1 Điều 315 Bộ luật dân sự năm 2005 thì: “Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ dân sự cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý”. Quá trình giải quyết vụ án, ông Dũng, bà Lan đã có lời khai rõ ràng về việc thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng về việc ký kết hợp đồng với Công ty thép Việt Ý, về trách nhiệm của Công ty kim khí Hưng Yên trong việc thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng; ông Dũng cũng đã có yêu cầu không tham gia phiên tòa. Vì vậy, việc triệu tập ông Dũng, bà Lan để lấy lời khai và đối chất như nhận định của Tòa án cấp phúc thẩm là không cần thiết. Từ đó, Tòa án cấp phúc thẩm đã tuyên hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 18/2009/KDTM-ST ngày 03/9/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh; chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh để giải quyết lại là không đúng pháp luật.
2. Về nội dung: quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty thép Việt Ý đã chuyển tiền bằng ủy nhiệm chi cho Công ty kim khí Hưng Yên; Công ty kim khí Hưng Yên cũng đã giao hàng cho Công ty thép Việt Ý (thể hiện qua các Biên bản giao hàng đều có dấu của Công ty kim khí Hưng Yên). Theo quy định tại khoản 1 Điều 93 Bộ luật dân sự 2005 thì: “Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân”. Do đó, trong trường hợp này, Công ty kim khí Hưng Yên phải có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ cho Công ty thép Việt Ý.
Công ty kim khí Hưng Yên thực hiện không đúng cam kết như trong hợp đồng (giao không đủ hàng cho Công ty thép Việt Ý), nên Công ty thép Việt Ý đã khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty kim khí Hưng Yên phải hoàn trả số tiền hàng đã nhận (tương đương với số hàng chưa giao), tiền lãi do chậm thanh toán, tiền phạt hợp đồng, tiền bồi thường thiệt hại (do không giao hàng nên Công ty thép Việt Ý đã phải mua của đơn vị khác và phải trả tiền cao hơn so với giá đã thỏa thuận với Công ty kim khí Hưng Yên) là có căn cứ đúng theo quy định tại Điều 34, khoản 3 Điều 297, các Điều 300, 301, 302, 306, 307 Luật Thương mại năm 2005.
Tuy nhiên, khi quyết định về những khoản tiền mà Công ty kim khí Hưng Yên phải trả cho Công ty thép Việt Ý, Tòa án cấp sơ thẩm đã tính toán chưa chính xác, cụ thể như sau:
Đối với số tiền ứng trước mà không nhận được hàng của 4 Hợp đồng kinh tế, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định chính xác số tiền và buộc Công ty kim khí Hưng Yên phải trả lại cho Công ty thép Việt Ý là đúng. Tuy nhiên, khi tính tiền lãi do chậm thanh toán số tiền nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm mặc dù áp dụng Điều 306 Luật thương mại năm 2005 nhưng không lấy mức lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán (xét xử sơ thẩm) để tính, mà lại áp dụng mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo yêu cầu của nguyên đơn để áp dụng mức lãi suất quá hạn (là 10,5%/năm) là không đúng. Trong trường hợp này, Tòa án cần lấy mức lãi suất quá hạn trung bình của ít nhất ba Ngân hàng tại địa phương (Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam…) để tính lại tiền lãi do chậm thanh toán cho đúng quy định của pháp luật.
Về phạt vi phạm hợp đồng: hai bên thỏa thuận: Bên B phải chịu phạt 2% giá trị đơn hàng đã được xác nhận khi bên B vi phạm một trong các trường hợp sau: giao hàng không đúng chủng loại, không giao hàng. Như vậy, Công ty kim khí Hưng Yên không giao đủ hàng cho Công ty thép Việt Ý thì phải bị phạt vi phạm là 2% trên giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm theo quy định tại Điều 300 và Điều 301 Luật Thương mại năm 2005. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng của Công ty thép Việt Ý là có căn cứ tuy nhiên lại tính lãi trên số tiền phạt vi phạm hợp đồng là không đúng.
Về số tiền bồi thường thiệt hại: Theo trình bày của đại điện Công ty thép Việt Ý là do Công ty kim khí Hưng Yên vi phạm hợp đồng không giao đủ hàng, nên Công ty thép Việt Ý phải mua phôi thép của nhà sản xuất khác để đảm bảo cho việc sản xuất và kinh doanh của Công ty với giá cao hơn. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào các Hợp đồng mua bán phôi thép mà Công ty thép Việt Ý ký với nhà sản xuất khác để buộc Công ty kim khí Hưng Yên phải trả cho Công ty thép Việt Ý khoản tiền chênh lệch do phải mua hàng với giá cao hơn, nhưng chưa xem xét làm rõ, việc mua hàng của nhà sản xuất khác này có đúng là để bù vào số hàng còn thiếu do Công ty kim khí Hưng Yên không giao đủ để đảm bảo cho việc sản xuất kinh doanh theo kế hoạch đã đặt ra hay không, về vấn đề này Tòa án cần phải yêu cầu Công ty thép Việt Ý cung cấp tài liệu, chứng cứ (như đơn đặt hàng của bên thứ ba, kế hoạch sản xuất kinh doanh…) để chứng minh thiệt hại thực tế xảy ra, từ đó mới có căn cứ buộc Công ty kim khí Hưng Yên thanh toán số tiền bồi thường thiệt hại cho phù hợp. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tính cả tiền lãi của khoản tiền bồi thường thiệt hại là không đúng với quy định tại Điều 302 Luật Thương mại năm 2005.
Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 của Bộ luật Tố tụng dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011),
QUYẾT ĐỊNH:
Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 63/KDTM-PT ngày 05/4/2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 18/2009/KDTM-ST ngày 03/9/2009 của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“Đối với số tiền ứng trước mà không nhận được hàng của 4 hợp đồng kinh tế, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định chính xác số tiền và buộc Công ty Hưng Yên phải trả lại cho Công ty Việt Ý là đúng. Tuy nhiên, khi tính tiền lãi do chậm thanh toán số tiền nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm mặc dù áp dụng Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 nhưng không lấy mức lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán (xét xử sơ thẩm) để tính, mà lại áp dụng mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo yêu cầu của nguyên đơn để áp dụng mức lãi quá hạn (là 10,5%/năm) là không đúng. Trong trường hợp này, Tòa án cần lấy mức lãi suất quá hạn trung bình của ít nhất ba ngân hàng tại địa phương (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam…) để tính lại tiền lãi do chậm thanh toán cho đúng quy định của pháp luật”.
“Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng của Công ty Việt Ý là có căn cứ tuy nhiên lại tính lãi trên số tiền phạt vi phạm hợp đồng là không đúng”.
“Tòa án cấp sơ thẩm còn tính cả tiền lãi của khoản tiền bồi thường thiệt hại là không đúng với quy định tại Điều 302 Luật Thương mại năm 2005”.
1. Dẫn nhập
Năm 2016, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành 10 Án lệ trong đó có Án lệ số 09/2016/AL được giới luật sư đánh giá là một trong những án lệ có ảnh hưởng tới hoạt động thương mại.
Đây là Án lệ được hình thành trên cơ sở đề xuất của chúng tôi trong khuôn khổ khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP theo đó “cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể gửi đề xuất lựa chọn các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án đáp ứng các tiêu chí hướng dẫn tại Điều 2 của Nghị quyết này cho Toà án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để phát triển thành án lệ”.
Thực tế, Án lệ này đã đi xa hơn đề xuất ban đầu nên cũng có những điểm chưa thực sự thuyết phục. Thông qua việc bình luận Án lệ số 09/2016/AL, chúng ta sẽ thấy những trường hợp làm phát sinh lãi chậm trả cũng như cách thức xác định mức lãi chậm trả trong hoạt động thương mại.
2. Khoản tiền phát sinh lãi chậm trả
Theo Điều 306 Luật Thương mại năm 2005, “trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Quy định trên đề cập tới lãi chậm trả và có phạm vi điều chỉnh là “chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác” đối với những quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại. Thực tế thường xuyên gặp trường hợp bên bán nhận tiền nhưng không giao tài sản (hàng hóa) đúng hợp đồng (như không giao, không giao đủ hay giao nhưng không đảm bảo chất lượng) và phải hoàn trả khoản tiền đã nhận. Câu hỏi đặt ra là khoản tiền này (bên nhận phải hoàn trả) có làm phát sinh lãi chậm trả không? Hiện nay, văn bản chưa thực sự rõ về nội dung này nhưng Án lệ số 09/2016/AL đã có câu trả lời. Cụ thể, Nội dung án lệ của Án lệ vừa nêu đã khẳng định “Đối với số tiền ứng trước mà không nhận được hàng của 4 hợp đồng kinh tế, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định chính xác số tiền và buộc Công ty Hưng Yên phải trả lại cho Công ty Việt Ý là đúng. Tuy nhiên, khi tính tiền lãi do chậm thanh toán số tiền nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm mặc dù áp dụng Điều 306 Luật thương mại năm 2005 nhưng không lấy mức lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán (xét xử sơ thẩm) để tính, mà lại áp dụng mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo yêu cầu của nguyên đơn để áp dụng mức lãi quá hạn (là 10,5%/năm) là không đúng. Trong trường hợp này, Tòa án cần lấy mức lãi suất quá hạn trung bình của ít nhất ba ngân hàng tại địa phương…”. Nội dung vừa nêu cho thấy lãi chậm trả được áp dụng cho cả việc bên bán hoàn trả tiền hàng do bên mua không nhận được hàng như hợp đồng và việc tính lãi được áp dụng trên cơ sở Điều 306 Luật Thương mại.
Nội dung Án lệ nêu trên là thuyết phục và cũng chính là nội dung mà chúng tôi đã đề xuất để phát triển thành án lệ.[1] Về phạm vi áp dụng, án lệ trên được hình thành trên cơ sở hợp đồng kinh tế nhưng hướng giải quyết tương tự cần được vận dụng cho hợp đồng không phải là hợp đồng kinh tế như hợp đồng dân sự trên cơ sở khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28/10/2015 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo đó “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc tương tự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau phải được giải quyết như nhau”. Án lệ này được hình thành trên cơ sở bên bán hoàn trả tiền ứng trước khi bên mua không nhận được hàng đúng như hợp đồng và hướng giải quyết tương tự cần được vận dụng cho cả trường hợp hủy bỏ hợp đồng do có vi phạm vì trong trường hợp này cũng tồn tại nghĩa vụ hoàn trả (theo Bộ luật Dân sự (BLDS)[2] cũng như Luật Thương mại,[3] bên nhận tiền phải hoàn trả tiền đã nhận khi hợp đồng bị hủy bỏ) và đã có quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán (được trình bày ở phần số 7) theo hướng này[4] (tại Pháp thì cũng có Tòa án theo hướng vừa nêu như Tòa phúc thẩm Metz năm 2011).[5] Khi hợp đồng bị vô hiệu, bên nhận tiền cũng phải hoàn trả khoản tiền đã nhận và đã có Tòa án nước ta theo hướng bên hoàn trả cũng phải chịu lãi trên khoản tiền đã nhận như trường hợp của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương[6] và chúng ta nên duy trì hướng này để có sự thống nhất với Án lệ số 09/2016/AL được phân tích.
Để cho thấy tính thuyết phục của hướng nêu trên, chúng tôi xin lưu ý thêm rằng thực tiễn xét xử của Pháp cũng có Tòa án theo hướng đó như Tòa phúc thẩm Toulouse trong một bản án năm 2014[7] và Pháp mới sửa đổi pháp luật về nghĩa vụ dân sự cũng đã có quy định theo hướng bên hoàn trả một khoản tiền do hợp đồng vô hiệu, hợp đồng bị hủy bỏ hay vì lý do khác phải trả lãi chậm trả bên cạnh việc hoàn trả khoản tiền. Cụ thể, theo Điều 1352-6 BLDS Pháp sửa đổi năm 2016, “Việc hoàn trả một khoản tiền bao gồm lãi theo pháp luật” và quy định này “được áp dụng cho tất cả những trường hợp triệt tiêu hợp đồng dù việc triệt tiêu này mang tính hồi tố hay không hồi tố như vô hiệu, hủy bỏ hợp đồng hay hợp đồng thất hiệu”. [8]
3. Khoản tiền phạt không phát sinh lãi chậm trả
Pháp luật hiện hành của chúng ta ghi nhận cơ chế phạt vi phạm hợp đồng. Cụ thể, theo Điều 300 Luật Thương mại cũng như 422 BLDS năm 2005 (Điều 418 BLDS năm 2015), “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận” vả “Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm”. Với quy định trên, phạt vi phạm hợp đồng được thể hiện bằng việc bên vi phạm trả cho bên bị vi phạm một khoản tiền[9] và câu hỏi đặt ra là ngoài khoản tiền phạt thì bên vi phạm có phải chịu lãi chậm trả không?
Câu trả lời đã có trong Án lệ số 09/2016/AL với nội dung “Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng của Công ty Việt Ý là có căn cứ tuy nhiên lại tính lãi trên số tiền phạt vi phạm hợp đồng là không đúng”. Như vậy, Án lệ số 09/2016/AL đã theo hướng tiền phạt vi phạm hợp đồng không làm phát sinh lãi. Thực tế, Án lệ số 09/2016/AL nêu trên được hình thành trên cơ sở đề xuất của chúng tôi nhưng nội dung về lãi trên tiền phạt vi phạm hợp đồng không nằm trong nội dung mà chúng tôi đề xuất trở thành án lệ. Trong quá trình chuẩn bị để Hội đồng thẩm phán thông qua Án lệ này, chúng tôi cũng bày tỏ quan điểm là không nên đưa nội dung trên trở thành án lệ nhưng đã không được chấp nhận.
Án lệ về tiền lãi trên tiền phạt vi phạm hợp đồng nêu trên là không thuyết phục. Bởi lẽ, khoản tiền này cần phải được bên vi phạm trả cho bên bị vi phạm ngay sau khi có vi phạm nhưng bên vi phạm không trả ngay nên bị coi là chậm trả. Và vì bị coi là chậm trả thì bên vi phạm phải chịu lãi chậm trả theo các quy định đã được viện dẫn ở trên. Với hướng như Án lệ trên, bên vi phạm có lợi khi không chịu thanh toán ngay khoản tiền phạt và tố tụng giải quyết lâu bao nhiêu cũng không ảnh hưởng tới việc trả lãi trên khoản tiền phạt. Nói cách khác, Án lệ trên không khuyến khích sự thiện chí thanh toán tiền phạt. Có thể có ý kiến cho rằng việc buộc trả thêm lãi dẫn tới một vi phạm bị chế tài hai lần nên hướng của Án lệ như trên là thuyết phục. Thực ra, việc phạt vi phạm là chế tài cho vi phạm hợp đồng (như trong vụ việc tạo thành án lệ là vi phạm hợp đồng mua bán) còn việc trả lãi là chế tài cho vi phạm nghĩa vụ trả tiền phạt (không phải là chế tài cho vi phạm hợp đồng mua bán). Vì vậy, không có việc một vi phạm có hai chế tài.
4. Khoản tiền bồi thường không phát sinh lãi chậm trả
Khi một chủ thể vi phạm gây thiệt hại như vi phạm nghĩa vụ hợp đồng gây thiệt hại thì họ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại này được ghi nhận trong Luật Thương mại tại Điều 302 theo đó “Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm”. BLDS năm 2005 cũng ghi nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại ở Điều 302 và tiếp theo. Ngày nay, BLDS năm 2015 khẳng định tại Điều 13 và 360 rằng “Cá nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm được bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác” và “Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”.[10]
Thông thường việc bồi thường thiệt hại được tiến hành bằng việc trả một khoản tiền và câu hỏi đặt ra là khoản tiền bồi thường này có làm phát sinh lãi không? Nói cách khác, bên cạnh việc trả khoản tiền bồi thường thiệt hại, bên phải bồi thường thiệt hại có phải chịu lãi chậm trả không? Trong Án lệ số 09/2016/AL, chúng ta đã có câu trả lời. Cụ thể, trong Nội dung án lệ, chúng ta thấy nêu “Tòa án cấp sơ thẩm còn tính cả tiền lãi của khoản tiền bồi thường thiệt hại là không đúng với quy định tại Điều 302 Luật Thương mại năm 2005”. Án lệ này xuất phát từ đề xuất của chúng tôi nhưng trong nội dung mà chúng tôi đề xuất không có nội dung vừa nêu. Trong quá trình chuẩn bị để Hội đồng thẩm phán thông qua, chúng tôi cũng thể hiện quan điểm là không nên coi đây là một nội dung phát triển thành án lệ nhưng không được chấp nhận.
Thực ra, việc bồi thường thiệt hại có thể xuất phát từ việc người vi phạm làm mất hay hủy hoại tài sản và, trong trường hợp này, thực tiễn theo hướng người bị vi phạm được bồi thường giá trị tài sản được xác định tại thời điểm giải quyết nên khoản tiền nhận được giúp người bị thiệt hại có được tài sản tương tự (vì thế hướng xử lý không có tiền lãi là thuyết phục). [11] Tuy nhiên, bồi thường còn thường xuyên xuất phát từ việc bên bị vi phạm đã bỏ ra một khoản tiền và việc bồi thường là bồi thường khoản tiền này như vụ việc được phát triển thành án lệ. Ở đây, bên mua không có hàng xuất phát từ vi phạm của bên bán đã phải mua hàng ở nơi khác nên phải trả thêm tiền chênh lệch và tiền chênh lệch này được bồi thường. Trong trường hợp như vậy, trách nhiệm bồi thường phát sinh từ thời điểm người bị vi phạm bỏ ra khoản tiền trên và bên phải bồi thường đáng ra phải bồi thường ngay ở thời điểm đó nên cần chịu lãi chậm trả nếu nay mới trả. Chúng ta giả sử rằng bên mua đã vay Ngân hàng tiền để trả khoản chênh lệch trên thì hàng tháng bên mua phải chịu lãi chậm trả trên khoản tiền vay để thanh toán tiền chênh lệch. Khi chúng ta theo Án lệ nêu trên, bên bán chỉ phải bồi thường tiền mà bên mua phải trả do chênh lệch (bằng khoản tiền vay ngân hàng) còn bên mua phải tự gánh chịu khoản tiền lãi phải trả cho ngân hàng là không công bằng. Chính vì vậy chúng tôi hy vọng rằng nội dung án lệ liên quan đến lãi đối với khoản tiền bồi thường thiệt hại cũng như đối với khoản tiền phạt nêu trên sẽ có sự thay đổi, nên có một án lệ khác với nội dung buộc trả cả tiền lãi đối với hai khoản tiền như phân tích ở trên. Theo hướng này, tiền bồi thường là chế tài cho vi phạm hợp đồng còn tiền lãi là chế tài cho việc chậm thực hiện nghĩa vụ bồi thường nên, cũng như phạt vi phạm nêu trên, đây không là trường hợp một vi phạm áp dụng hai chế tài.
5. Xác định lãi trung bình trên thị trường
Pháp luật dự liệu mức lãi trong trường hợp chậm trả mà không có thỏa thuận về mức lãi. Theo khoản 2 Điều 305 BLDS năm 2005, “Trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán”. BLDS năm 2015 đã có sự thay đổi với quy định tại khoản 2 Điều 357 rằng “Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này” trong khi đó khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015 khẳng định “Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ”, tức bằng 10%/năm của khoản tiền vay. Về phía mình, Luật thương mại theo hướng khác tại Điều 306 đã nêu trên là mức lãi bằng “lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán”.
Với BLDS, việc xác định mức lãi theo quy định (không có thỏa thuận) tương đối dễ nhưng mức lãi theo Luật Thương mại lại còn khá chung chung. Ở đây, “tiêu chí xác định mức lãi suất chậm trả trong Luật Thương mại không rõ ràng. Chúng ta không biết cần phải lấy lãi trung bình của bao nhiêu ngân hàng và trong phạm vi lãnh thổ nào (xã, phường hay quận huyện hay tỉnh, thành phố?). Chúng ta cũng không biết phải lấy lãi suất của ngân hàng nào để tính lãi trung bình. Vì sự không rõ ràng này nên thực tế cho thấy việc áp dụng quy định của Luật Thương mại không có sự thống nhất giữa các Tòa án”. [12] Về chủ đề này, Án lệ số 09/2016/AL đã cụ thể mức lãi trên với nội dung “Tòa án cần lấy mức lãi suất quá hạn trung bình của ít nhất ba ngân hàng tại địa phương (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam…) để tính lại tiền lãi do chậm thanh toán cho đúng quy định của pháp luật”. Đây là nội dung mà chúng tôi đã đề xuất phát triển thành án lệ[13] và, thực tế trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC), chúng tôi đã theo hướng này. Chẳng hạn, trong một Phán quyết trong khuôn khổ của VIAC, sau khi viện dẫn Điều 306 Luật Thương mại, chúng tôi đã xét rằng “Hội đồng trọng tài xét phải lấy mức lãi nợ quá hạn trung bình đối với cho vay USD tại thời điểm giải quyết tranh chấp của 03 Ngân hàng tại TP. Hồ Chí Minh là Ngân hàng SHB 10,35%/năm, Ngân hàng BIDV 6,6%/năm và Ngân hàng Vietcombank 9,1%/năm. Như vậy, mức lãi nợ quá hạn trung bình là 8.68%/năm (0,72%/tháng, 0,024%/ngày)”.
Nội dung án lệ trên theo hướng cần lấy mức lãi trung bình “của ít nhất ba ngân hàng” nên chúng ta có thể lấy mức lãi trung bình của 3 hay nhiều hơn 3 ngân hàng như lấy lãi trung bình của 5, 6 hay 7 ngân hàng: án lệ trên chỉ đưa ra con số tối thiểu chứ không ấn định con số tối đa nên nếu nguyên đơn đưa ra 3 ngân hàng khác với 3 ngân hàng của bị đơn thì cơ quan tài phán hoàn toàn có thể lấy mức trung bình của cả 6 ngân hàng này. Vẫn theo nội dung án lệ nêu trên, chúng ta lấy mức lãi trung bình của ít nhất 3 ngân hàng “tại địa phương” nhưng không rõ là địa phương nào. Ở đây, chúng ta không lấy địa phương của nguyên đơn hay của bị đơn mà nên lấy địa phương nơi Tòa án đang giải quyết vụ việc (đối với Trọng tài thì tại địa điểm Trọng tài giải quyết tranh chấp như chúng tôi vẫn làm trong khuôn khổ của VIAC).
6. Thời điểm xác định lãi suất trung bình trên thị trường
Phần trên cho thấy cách thức xác định mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường nhưng mức lãi trên thị trường thay đổi theo thời gian nên câu hỏi đặt ra là xác định mức lãi trên ở thời điểm nào? Theo Điều 306 Luật Thương mại năm 2005, mức lãi này là mức lãi “tại thời điểm thanh toán”. Quy định tương tự cũng tồn tại trong BLDS năm 2005 vì khoản 2 Điều 305 BLDS năm 2005 quy định “Trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán”. Việc xác định mức lãi “tại thời điểm thanh toán” vẫn được duy trì trong BLDS năm 2015. Tuy nhiên, đây là công việc bất khả thi vì, khi giải quyết tranh chấp, Tòa án cũng như Trọng tài không thể biết chính xác thời điểm nào người có nghĩa vụ thanh toán. Thực tế, thời điểm thanh toán diễn ra sau thời điểm Tòa án hay Trọng tài ra quyết định. Điều đó có nghĩa là thời điểm thanh toán là thời điểm trong tương lai nên tại thời điểm giải quyết tranh chấp thì cơ quan tài phán không thể biết mức lãi trong tương lai như thế nào?
Về chủ đề nêu trên, Án lệ số 09/2016/AL đã theo hướng “Tòa án cấp sơ thẩm mặc dù áp dụng Điều 306 Luật thương mại năm 2005 nhưng không lấy mức lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán (xét xử sơ thẩm) để tính, mà lại áp dụng mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo yêu cầu của nguyên đơn để áp dụng mức lãi quá hạn (là 10,5%/năm) là không đúng”. Với nội dung vừa nêu, chúng ta hiểu rằng “không lấy mức lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán (xét xử sơ thẩm) để tính (…) là không đúng” nên để “đúng” thì phải lấy mức lãi suất tại “thời điểm thanh toán (xét xử sơ thẩm)”.
Hướng như nêu trên của Án lệ là chấp nhận được (nếu bỏ từ “sơ thẩm” thì sẽ thuyết phục hơn để cho phép lấy mức lãi ở thời điểm phúc thẩm nếu có sự thay đổi). Bởi lẽ, hướng như văn bản là bất khả thi như đã trành bày (vì lý do này mà BLDS năm 2015 đã thay đổi theo hướng ấn định mức lãi cố định nên dù thời điểm thanh toán là thời điểm nào thì cũng áp dụng một mức lãi).[14]
- Quyền định đoạt của người có quyềnTrong nghĩa vụ trả tiền (hay hoàn trả tiền), người có quyền có được định đoạt mức lãi suất mà bên có nghĩa vụ phải gánh chịu không? Nếu người có quyền yêu cầu mức lãi cao hơn mức quy định hay mức đã thỏa thuận hợp pháp, yêu cầu này không được chấp nhận vì ảnh hưởng tiêu cực tới quyền lợi của người có nghĩa vụ. Nếu người có quyền yêu cầu mức thấp hơn mức quy định hay mức đã thỏa thuận hợp pháp thì yêu cầu này có được chấp nhận không? Trên cơ sở quyền tự định đoạt, chúng ta cần chấp nhận vì yêu cầu như vậy vì chúng ta tôn trọng sự định đoạt của bên có quyền và yêu cầu này có lợi hơn cho bên có nghĩa vụ.
Tuy nhiên, trong Án lệ số 09/2016/AL, chúng ta thấy có nội dung có thể dẫn tới cách xử lý khác. Cụ thể, trong phần Nội dung án lệ, chúng ta thấy nêu “Tòa án cấp sơ thẩm mặc dù áp dụng Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 nhưng không lấy mức lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán (xét xử sơ thẩm) để tính, mà lại áp dụng mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo yêu cầu của nguyên đơn để áp dụng mức lãi quá hạn (là 10,5%/năm) là không đúng”.
Ở đây, chúng ta nên hiểu Án lệ trên chỉ muốn gửi một thông điệp rằng một khi đã áp dụng Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 thì không thể tự động áp dụng mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố. Tuy nhiên, nếu người có quyền yêu cầu mức lãi suất này và có cơ sở xác định mức lãi suất cơ bản thấp hơn lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường thì chúng ta chấp nhận mức lãi mà người có quyền (nguyên đơn) yêu cầu.
8. Nhận xét bổ sung
Nội dung trình bày trên cho thấy Tòa án nhân dân tối cao đã thiết lập một Án lệ với nhiều thông tin liên quan đến lãi chậm trả. Các nội dung này dù thuyết phục hay chưa thuyết phục có tính ràng buộc đối với hoàn cảnh tương tự trên cơ sở khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP nêu trên theo đó “khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc tương tự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau phải được giải quyết như nhau”. Tuy nhiên, liên quan đến lãi chậm trả, Án lệ trên vẫn còn bỏ ngỏ một số vấn đề đáng lưu ý sau:
Để biết được mức lãi chậm trả, chúng ta phải biết được thời điểm mà khoản tiền được tính lãi chậm trả làm phát sinh lãi. Nếu các bên có thỏa thuận về thời điểm phải trả một khoản tiền thì thời điểm này được sử dụng để tính ngày bắt đầu chịu lãi chậm trả. Khó khăn phát sinh khi các bên không có thỏa thuận về thời điểm này như trường hợp hoàn trả tiền (do không giao hàng, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu…) đã nêu ở trên. Trong nội dung án lệ về hoàn trả tiền nêu trên, chúng ta mới chỉ biết là khoản tiền này làm phát sinh lãi nhưng chưa cho biết thời điểm nào là thời điểm bắt đầu tính lãi. Đối với những trường hợp thuộc phạm vi của Án lệ số 09/2016/AL, chúng ta nên theo hướng thời điểm bắt đầu chịu lãi chậm trả là thời điểm người phải hoàn trả nhận được khoản tiền. Thực tế, đã có quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo hướng trên. Cụ thể, trong một quyết định năm 2014, Hội đồng thẩm phán đã xét rằng “Công ty Vinashin đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận mới nên dẫn đến việc thỏa thuận mới về hợp đồng chuyển nhượng không thực hiện được. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy hợp đồng, buộc bà Dậu trả lại cho Công ty Vinashin 45.000.000.000 đồng là có căn cứ, nhưng không tuyên buộc Công ty Vinashin giao trả lại cho bà Dậu 18.448 cổ phiếu đã nhận; đồng thời, không đánh giá đúng lỗi của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng mà cho rằng chỉ một mình Công ty Vinashin có lỗi là không đúng, ở đây, cả bà Dậu và Công ty Vinashin đều có lỗi, nhưng lỗi chính thuộc về bà Dậu như đã nêu ở trên. Công ty Vinashin đã chuyển cho bà Dậu nhiều lần với tổng số tiền 45.000.000.000 đồng, bà Dậu đã sử dụng 45.000.000.000 đồng này của Công ty Vinashin từ năm 2007 đến nay. Khi giải quyết lại vụ án, ngoài việc buộc bà Dậu có trách nhiệm hoàn trả lại cho Công ty Vinashin 45.000.000.000 đồng tiền đã nhận theo hợp đồng và phụ lục hợp đồng, còn cần phải buộc bà Dậu có trách nhiệm thanh toán tiền lãi của số tiền đã nhận, kể từ ngày nhận tiền (vào các ngày 25/10/2007, 30/11/2007, 21/5/2008, 28/5/2008 và 30/5/2008)”[15] (nếu điều kiện cho phép, Tòa án nhân dân tối cao cũng nên án lệ hóa quyết định này liên quan đến thời điểm bắt đầu tính lãi chậm trả khoản tiền phải hoàn trả).
Khoản tiền làm phát sinh lãi đến thời điểm nào? Thực tiễn cho thấy Tòa án thường xuyên theo hướng tính lãi đến thời điểm xét xử và bắt đầu tính lại lãi từ khi có yêu cầu thi hành án (tức có khoảng thời gian không làm phát sinh lãi là từ khi xét xử đến khi có yêu cầu thi hành án). Chẳng hạn, sau khi xét rằng “cho đến nay phía bị đơn chưa thanh toán cho nguyên đơn, gây ảnh hưởng không ít đến hoạt động sản xuất kinh doanh cho phía nguyên đơn. Vì vậy buộc bị đơn phải chịu khoản nợ lãi tính từ 9/11/2004 cho đến ngày xét xử sơ thẩm như đê nghị của nguyên đơn là hoàn toàn có cơ sở”, một Tòa án đã quyết định “Kể từ ngày nguyên đơn có đơn xin thi hành án cho đến khi thi hành án xong, nếu bị đơn chưa trả hết số tiền phải trả thì phải chịu khoản lãi của số tiền chậm trả theo mức lãi xuất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán”.[16] Hướng trên dường như do thói quen được hình thành trên cơ sở Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Toà án nhân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ tài chính “Hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản”. Thực ra, hướng như trên là không thuyết phục và, để bảo vệ người được nhận tiền, chúng ta cần phải tính lãi liên tục. Bởi lẽ, trong các quy định của BLDS cũng như của Luật thương mại đều không có việc gián đoạn trong việc tính lãi. Cụ thể, BLDS theo hướng lãi chậm trả phải “tương ứng với thời gian chậm trả”, tức chừng nào chưa trả, chưa thanh toán khoản tiền cần trả thì chừng đó vẫn phải chịu lãi chậm trả. Điều 306 Luật Thương mại cũng có quy định tương tự khi khẳng định lãi chậm trả “tương ứng với thời gian chậm trả”. Từ rất lâu liên quan đến việc Tòa án thường xác định thời điểm cuối cùng chịu lãi là ngày xét xử sơ thẩm và sau đó bắt đầu lại từ thời điểm yêu cầu thi hành án, chúng tôi đã cho rằng hướng như vậy “có thể bị coi là trái với Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại. Đồng thời, nếu có văn bản nào cho phép Tòa án tiến hành như trên thì văn bản này mâu thuẫn với Bộ luật Dân sự, Luật thương mại”[17] và chúng ta theo hướng áp dụng văn bản có giá trị cao hơn như Tòa án đã làm khi Nghị định mâu thuẫn với Luật.[18] Trong quá trình giải quyết tranh chấp tại VIAC, chúng tôi cũng đã theo hướng không có sự giãn đoạn ngay cả đối với khoản tiền không xuất phát từ hợp đồng vay tín dụng.[19] Chẳng hạn, trong một Phán quyết năm 2013, chúng tôi đã xét rằng “Với nội dung bên bị vi phạm được yêu cầu lãi chậm trả cho khoảng thời gian “tương ứng với thời gian chậm trả” Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 cho thấy chừng nào nghĩa vụ thanh toán chưa được thực hiện thì lãi chậm trả vẫn phát sinh”. Tương tự như vậy trong một Phán quyết năm 2015. Ở đây, chúng tôi đã xét rằng “Với quy định trên, chừng nào Bị đơn chưa thanh toán tiền gốc thì Bị đơn phải chịu lãi, từ thời điểm phải thanh toán đến khi thanh toán xong”.
CHÚ THÍCH
[1] Thực ra, sau khi khẳng định “Quyết định trên (của Hội đồng thẩm phán) cho thấy Điều 306 Luật Thương mại được áp dụng cho cả trường hợp hoàn trả tiền ứng trước”, chúng tôi đã đề xuất cho phía Tòa án nhân dân tối cao rằng “nội dung vừa nêu trong đoạn trên nên phát triển thành án lệ vì là tình huống rất phổ biến trong thực tiễn và tòa án khá lúng túng”.
[2] Khoản 3 Điều 425 BLDS năm 2005 quy định “Khi hợp đồng bị huỷ bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền”. Quy định tương tự cũng được duy trì trong BLDS năm 2015 tại khoản 2 Điều 427 với nội dung “Các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận sau khi trừ chi phí hợp lý trong thực hiện hợp đồng và chi phí bảo quản, phát triển tài sản. Việc hoàn trả được thực hiện bằng hiện vật. Trường hợp không hoàn trả được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để hoàn trả. Trường hợp các bên cùng có nghĩa vụ hoàn trả thì việc hoàn trả phải được thực hiện cùng một thời điểm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
[3] Khoản 2 Điều 314 Luật Thương mại về Hậu quả pháp lý của việc huỷ bỏ hợp đồng quy định “Các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời; trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền”.
[4] Xem Quyết định số 04/2014/KDTM-GĐT ngày 17/4/2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
[5] Cụ thể, sau khi hủy bỏ hợp đồng mua bán được xác lập năm 2004 xuất phát từ lỗi của bên bán, Tòa phúc thẩm này đã theo hướng buộc bên bán phải “hoàn trả cho vợ chồng ông D khoản tiền ứng trước là 2800 euros, cùng với lãi theo mức lãi suất luật định được tính từ ngày 11/11/2004” (CA Metz ngày 18/10/2011, 09/00565).
[6] Chẳng hạn, theo Bản án số 166/2016/DSST ngày 12/08/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương, “giấy xác nhận tạm ứng ngày 12/02/2015 là giấy giao tiền thực hiện hợp đồng chứ không phải là tiền đặt cọc. Việc bà Diễm từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự theo thảo thuận đã ký kết là do lỗi của bà Diễm làm cho hợp đồng vô hiệu, nên bà Diễm phải trả lại số tiền cho ông Hải và phải chịu bồi thường thiệt hại cho ông Hải theo Điều 137 BLDS năm 2005. Vì yêu cầu khởi kiện của ông Hải là tranh chấp hợp đồng đặt cọc không có cơ sở cho nên trong trường hợp này bà Diễm phải hoàn trả số tiền đã nhận và phải thanh toán tiền lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước quy định đối với số tiền đã nhận của ông Hải”.
[7]7 Liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng sản nghiệp được xác lập ngày 15/4/2011 mà Tòa án đã tuyên bố vô hiệu, Tòa phúc thẩm Tououse đã theo hướng “buộc ông D hoàn trả cho bà F khoản tiền 29.000 euros cùng với lãi suất theo quy định kể từ ngày 15/4/2011” (CA Toulouse ngày 25/6/2014, 12/04904).
[8] Seube Jean – Baptiste, Le juge et les restitutions, Revue des contrats 01 juin 2016 n°2.
[9] Về phạt vi phạm hợp đồng, xem thêm Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam 2017 (xuất bản lần thứ sáu), Bản án số 197 – 200.
[10] Về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, xem thêm Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam 2017 (xuất bản lần thứ sáu), Bản án số 183 – 186.
[11] Về chủ đề này, xem thêm Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng – Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam 2016 (xuất bản lần thứ ba), Bản án số 54-57, phần bình luận số 16.
[12] Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Tập 2 (2014), Nxb. CTQG (tái bản lần thứ tư), Bản án số 120 – 122 (phần bình luận số 17 và 18).
[13] Thực tế, chúng tôi đã đề xuất đối với Tòa án nhân dân tối cao như sau: “Quyết định trên cho thấy Điều 306 Luật thương mại được áp dụng cho cả trường hợp hoàn trả tiền ứng trước và xác định xác định lãi suất trung bình bằng “mức lãi suất quá hạn trung bình của ít nhất ba ngân hàng tại địa phương (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam…)”. Hai nội dung vừa nêu trong đoạn trên nên phát triển thành án lệ vì là tình huống rất phổ biến trong thực tiễn và tòa án khá lúng túng”.
[14] Theo khoản 2 Điều 357 và Điều 468 BLDS năm 2015, mức lãi bằng 10%/năm của khoản tiền chậm trả.
[15] Quyết định số 04/2014/KDTM-GĐT ngày 17/4/2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
[16] Bản án số 44/2006/KDTM – ST ngày 1/6/2006 của Tòa án nhân dân TP. Hà Nội.
[17] Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Tập 2 (2014), Nxb. CTQG (tái bản lần thứ tư), Bản án số 120-122 (phần bình luận số 12).
[18] Xem Bản án số 1408/2012/HC-ST ngày 17/9/2012 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh.
[19] Liên quan đến vay tín dụng, Án lệ số 08/2016/AL đã theo hướng trên. Ở đây, Nội dung Án lệ số 08/2016/AL đã khẳng định “Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm quyết định: “Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án còn phải trả lãi đối với số tiền chậm thi hành án theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm thi hành án” cũng là không đúng. Đối với các khoản tiền vay của tổ chức Ngân hàng, tín dụng, ngoài khoản tiền nợ gốc, lãi vay trong hạn, lãi vay quá hạn, phí mà khách hàng vay phải thanh toán cho bên cho vay theo hợp đồng tín dụng tính đến ngày xét xử sơ thẩm, thì kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này”. Như vậy, không có giai đoạn khoản tiền chậm trả không làm phát sinh lãi và thời điểm kết thúc tính lãi là “khi thanh toán xong”.
- Tác giả: PGS.TS. Đỗ Văn Đại
- Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam 03(106)/2017 – 2017, Trang 71-80
- Nguồn: Fanpage Tạp chí Khoa học pháp lý
Trả lời