Mục lục
Những thay đổi quan trọng trong quy định pháp luật của liên minh Châu Âu về nhãn hiệu
Tác giả: TS. Nguyễn Hồ Bích Hằng
TÓM TẮT
Các thay đổi gần đây trong những quy định về nhãn hiệu của Liên minh châu Âu đã có hiệu lực. Bài viết này nhằm giới thiệu và phân tích những thay đổi trong quy định của pháp luật Liên minh châu Âu về các loại nhãn hiệu phi truyền thống mới được ghi nhận như nhãn hiệu đa phương tiện, nhãn hiệu hình ảnh động, nhãn hiệu ảnh ba chiều. Ngoài ra, bài viết này cũng phân tích các quy định về nhãn hiệu chứng nhận lần đầu tiên được ghi nhận ở cấp độ châu Âu.
Xem thêm bài viết “Nhãn hiệu”
- Nguyên tắc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại đối với nhãn hiệu hàng hóa Liên minh Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam – ThS. Lê Trần Thu Nga
- Bình luận bản án: Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam – PGS.TS. Đỗ Văn Đại & ThS. Nguyễn Phương Thảo
- Xung đột quyền trong bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại – TS. Lê Thị Nam Giang
- Bình luận bản án: Bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại – TS. Lê Thị Nam Giang & ThS. Phạm Vũ Khánh Toàn
- Nhãn hiệu nổi tiếng, pháp luật và thực tiễn – TS. Lê Xuân Lộc & ThS. Mai Duy Linh
Những thay đổi quan trọng trong các quy định về nhãn hiệu của Liên minh châu Âu bắt đầu có hiệu lực từ cuối tháng 3 năm 2016. Đây là kết quả của quá trình làm việc lâu dài, đến cuối năm 2015, Liên minh châu Âu đã thống nhất được các nội dung cải cách hệ thống luật pháp liên quan đến nhãn hiệu. Hai văn bản pháp luật đã ra đời nhằm cụ thể hóa những thay đổi liên quan đến nhãn hiệu. Chỉ thị nhãn hiệu Liên minh Châu Âu (Directive – EU 2015/2436) (“Chỉ thị 2015/2436”) được ban hành ngày 23/ 12/2015. Tiếp theo sau là Quy định Nhãn hiệu (Regulation – EU 2015/2424) (“Quy định Nhãn hiệu 2015/2424”), văn bản này được ban hành nhằm sửa đổi Quy định Nhãn hiệu (Regulation – EC 207/2009) được ban hành vào năm 2009.
Các quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu có 3 năm để chỉnh sửa luật pháp quốc gia cho phù hợp với Chỉ thị 2015/2436. Các thay đổi cơ bản trong Quy định Nhãn hiệu đến 2015/2424 bắt đầu có hiệu lực áp dụng từ ngày 23/3/2016.
Những thay đổi quan trọng của Quy định Nhãn hiệu tác động không nhỏ trong việc đăng ký, bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ ở khu vực này. Mục tiêu của cải cách lần này là nhằm hiện đại hóa, hài hòa hóa, đơn giản hóa các quy định pháp luật về nhãn hiệu hiện hành tại Liên minh châu Âu. Những thay đổi trong Quy định Nhãn hiệu 2015/2424 rất đáng kể, cả về hình thức lẫn nội dung, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình đăng ký bảo hộ nhãn hiệu. Những thay đổi trong quy định về nhãn hiệu của Liên minh châu Âu lần này đặt ra những thách thức không những đối với các quốc gia nội khối châu Âu mà còn đối với các quốc gia khác trên thế giới. Các cá nhân, tổ chức mong muốn bảo hộ nhãn hiệu của mình ở khu vực châu Âu sẽ phải tuân theo các quy định mới về nhãn hiệu này.
Việt Nam đang trong quá trình ký kết Hiệp định Thương mại tự do với Liên minh châu Âu (Hiệp định) từ năm 2012, nội dung bản dự thảo của hiệp định này đã được công bố. Liên minh châu Âu hiện đang rà soát pháp lý và tiến hành các thủ tục để phê chuẩn thông qua, dự kiến Hiệp định có hiệu lực trong năm 2018.[1] Khi Hiệp định có hiệu lực, các quy định về sở hữu trí tuệ của Việt Nam cũng sẽ đối mặt với các nhu cầu sửa đổi, bổ sung để phù hợp hơn với yêu cầu trong giai đoạn mới.
1. Những thay đổi về mặt hình thức
1.1. Tên gọi của tổ chức
Thay đổi đầu tiên là thay đổi về tên gọi. Tên gọi trước đây của cơ quan đăng ký nhãn hiệu cho hệ thống đăng ký nhãn hiệu cộng đồng là OHIM (The Office for Harmonization in the Internal Market – Văn phòng hài hòa thị trường nội khối). Tên gọi mới của tổ chức này là EUIPO (The European Union Intellectual Property Office – Văn phòng Sở hữu trí tuệ châu Âu). EUIPO chịu trách nhiệm trong việc quản lý nhãn hiệu châu Âu và kiểu dáng cộng đồng đã đăng ký. Đồng thời, EUIPO cũng làm việc với các văn phòng sở hữu trí tuệ của các quốc gia thành viên cũng như các đối tác quốc tế trong việc cung cấp những dịch vụ đăng ký cho nhãn hiệu và kiểu dáng trên khắp châu Âu cũng như trên thế giới.
1.2. Tên gọi của nhãn hiệu
Tên gọi trước đây của các nhãn hiệu được đăng ký tại hệ thống đăng ký nhãn hiệu cộng đồng là CTM (Community trade mark – nhãn hiệu cộng đồng). Sau khi được thay đổi theo luật mới, các nhãn hiệu cộng đồng trước đây sẽ có tên gọi mới là EUTM (European trade mark – nhãn hiệu châu Âu).
Xem thêm bài viết về “Liên minh Châu Âu – EU”
- Hết quyền sở hữu trí tuệ đối với chương trình máy tính từ thực tiễn của EU và Hoa Kỳ: Kinh nghiệm cho Việt Nam – ThS. Nguyễn Thanh Tú
- Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương trong giai đoạn hiện nay – Bài học từ nghiên cứu lịch sử và so sánh kinh nghiệm một số quốc gia Châu Âu – ThS. Đào Bảo Ngọc
- Nguyên tắc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại đối với nhãn hiệu hàng hóa Liên minh Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam – ThS. Lê Trần Thu Nga
- Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và việc thực thi tại các nước Bắc Âu – GS. Per Ole Traskman
- Bàn về vấn đề tự do chọn luật áp dụng điều chỉnh quan hệ trách nhiệm ngoài hợp đồng trong pháp luật Liên minh Châu Âu – TS. Nguyễn Đức Vinh
2. Những thay đổi về nội dung
2.1 Quy định những loại nhãn hiệu mới và yêu cầu về biểu thị đồ hoạ
Từ ngày 1/10/2017 bên cạnh các Quy định số 2017/1001 về Nhãn hiệu của châu Âu (European trade mark regulations) (“Quy định 2017/1001”), Quy chế Sử dụng nhãn hiệu của châu Âu (European Trade Mark Implementing Regulations) (“EUTMIR”) và Các quy định hướng dẫn nhãn hiệu châu Âu (European trade mark delegated regulations) (“EUTMDR”) bắt đầu có hiệu lực. Cùng với đó là các thay đổi đáng kể các quy định về nhãn hiệu.
Cụ thể, các nhãn hiệu trước đây theo yêu cầu phải được biểu thị dưới dạng đồ họa (graphical representation) thì theo quy định mới yêu cầu đó không được đặt ra kể từ ngày 1/10/2017 khi đăng ký nhãn hiệu châu Âu. Điều này đồng nghĩa với việc một số nhãn hiệu có thể được xem xét chấp nhận kể cả khi các nhãn hiệu đó được tạo bởi các định dạng thích hợp trên nền tảng của công nghệ có sẵn nói chung, kể cả định dạng điện tử. Bởi lẽ, theo quy định tại EUTMIR thì bất cứ “nhãn hiệu được thể hiện dưới bất kỳ hình thức thích hợp nào sử dụng công nghệ có sẵn nói chung, miễn là nhãn hiệu có thể được sao chép vào sổ đăng ký một cách rõ ràng, chính xác, khép kín, dễ tiếp cận, dễ hiểu, bền và khách quan để các cơ quan có thẩm quyền và công chúng xác định rõ ràng và chính xác đối tượng bảo hộ dành cho chủ sở hữu”.[2]
Các quy định mới về nhãn hiệu đã tháo dỡ được các hạn chế trước đây do yêu cầu phải thể hiện được dưới dạng đường nét hình dáng đối với các nhãn hiệu phi truyền thống (nontraditional trademark). Bên cạnh các nhãn hiệu phi truyền thống đã được biết đến như nhãn hiệu mùi hương (scent mark), nhãn hiệu âm thanh (sound mark), nhãn hiệu màu (color mark) kể cả nhãn hiệu một màu (color single mark) và nhãn hiệu nhiều màu kết hợp (color combination mark), thì các nhãn hiệu phi truyền thống mới cũng được ghi nhận, bao gồm nhãn hiệu hình ảnh động (motion mark), nhãn hiệu đa phương tiện (multimedia mark), nhãn hiệu ảnh ba chiều (hologram mark).
Các loại nhãn hiệu phi truyền thống khác nhau được định nghĩa và kèm theo đó là các yêu cầu tương ứng với loại nhãn hiệu khi một chủ thể muốn nộp hồ sơ đăng ký nhãn hiệu.[3] Cụ thể:
– Nhãn hiệu hình ảnh động là “nhãn hiệu bao gồm, hoặc mở rộng đối với, sự chuyển động hoặc thay đổi vị trí của các yếu tố của nhãn hiệu”. Đối với nhãn hiệu hình ảnh động thì yêu cầu đặt ra khi nộp hồ sơ đó là “nhãn hiệu phải được trình bày bằng cách nộp một tệp video (video file) hoặc bằng một loạt các ảnh tĩnh liên tiếp thể hiện chuyển động hoặc thay đổi vị trí. Trường hợp vẫn sử dụng hình ảnh, thì các hình ảnh đó có thể được đánh số hoặc đi kèm với mô tả giải thích trình tự”.[4]
– Nhãn hiệu đa phương tiện được định nghĩa là nhãn hiệu “một nhãn hiệu bao gồm, hoặc mở rộng đối với, sự kết hợp hình ảnh và âm thanh.” Đối với nhãn hiệu đa phương tiện thì yêu cầu đặt ra khi nộp hồ sơ đăng ký nhãn hiệu đó là “nhãn hiệu phải được thể hiện bằng một tệp âm thanh hình ảnh (audiovisual file) có chứa kết hợp hình ảnh và âm thanh”.[5]
– Nhãn hiệu ảnh ba chiều là “nhãn hiệu bao gồm các yếu tố với đặc điểm ảnh ba chiều”. Đối với loại nhãn hiệu này, thì yêu cầu đặt ra khi nộp hồ sơ đăng ký nhãn hiệu đó chính là “nhãn hiệu phải được thể hiện bằng một tệp video (video file) hoặc bản sao chép đồ họa hoặc sao chép hình ảnh có chứa đựng các góc nhìn cần thiết để xác định chính xác hiệu ứng ảnh ba chiều tổng thể”.[6]
Việc ghi nhận các loại nhãn hiệu mới trong EUTMIR cho thấy Liên minh châu Âu đã có những thay đổi quan trọng, nhằm đáp ứng sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ đang diễn ra trên thực tế.
Việc ghi nhận các loại nhãn hiệu mới cũng như việc bỏ quy định về biểu thị dưới dạng đồ họa là một trong những bước tiến ấn tượng cũng như trong việc đi đầu đón nhận các xu thế mới trong giai đoạn hiện tại. Điều này cũng có thể được lý giải khi nhìn vào sự phát triển về mặt kinh tế, kỹ thuật cũng như trình độ lập pháp của Liên minh châu Âu cũng như các quốc gia thành viên của liên minh này.
2.2. Nhãn hiệu chứng nhận châu Âu
Một trong những thay đổi quan trọng trong các quy định của Liên minh châu Âu về nhãn hiệu chính là sự ghi nhận một loại nhãn hiệu mới ở mức độ châu Âu – nhãn hiệu chứng nhận. Nhãn hiệu chứng nhận được xem là là loại nhãn hiệu mới ở mức độ châu Âu, mặc dù nhãn hiệu chứng nhận trước đây đã tồn tại trong pháp luật quốc gia của một số nước ở khu vực này.
Quy định Sửa đổi đã có hiệu lực vào ngày 23/3/2016, tuy nhiên Quy định này yêu cầu phải có các quy định pháp luật thứ cấp được thực hiện trước khi những quy định liên quan đến nhãn hiệu chứng nhận ở cấp độ châu Âu có thể áp dụng vào thực tiễn.
Nhãn hiệu chứng nhận của Liên minh châu Âu được ghi nhận tại Quy định số 2017/1001. Theo đó, nhãn hiệu chứng nhận châu Âu được định nghĩa là nhãn hiệu “có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ được chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận về vật liệu, phương thức sản xuất hàng hóa hoặc hoạt động dịch vụ, chất lượng, tính chính xác hoặc các đặc tính khác, ngoại trừ nguồn gốc địa lý, từ hàng hóa và dịch vụ không được chứng nhận”.[7]
Đối với nhãn hiệu chứng nhận châu Âu thì bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, bao gồm các viện, cơ quan nhà nước, tổ chức chính phủ được điều chỉnh bởi luật công, đều có thể nộp đơn đăng ký nhãn hiệu chứng nhận miễn là cá nhân/ tổ chức đó không hoạt động kinh doanh liên quan đến cung cấp hàng hóa, dịch vụ của loại được chứng nhận.[8]
Như vậy, về bản chất, nhãn hiệu chứng nhận của châu Âu liên quan đến việc bảo đảm các đặc tính cụ thể của một số hàng hóa và dịch vụ nhất định. Nhãn hiệu này nhằm xác định rằng hàng hóa và dịch vụ mang nhãn hiệu chứng nhận đó tuân theo một số các tiêu chuẩn nhất định trong các quy định về sử dụng và được kiểm soát theo trách nhiệm của chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận, không phụ thuộc đó là nhà sản xuất hay cung cấp hàng hóa.
Ngoài ra, đối với nhãn hiệu chứng nhận thì chủ sở hữu nhãn hiệu phải xây dựng được quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng nhận châu Âu. Quy chế sử dụng nhãn hiệu phải được nộp trong vòng hai tháng kể từ ngày nộp đơn[9] và cần phải bao gồm những vấn đề sau:
– Một là, danh mục các chủ thể sản xuất hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ sử dụng nhãn hiệu chứng nhận. Đây là điều kiện tiên quyết đối với nhãn hiệu chứng nhận nhằm xác định những sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ nào trên thị trường được quyền sử dụng nhãn hiệu chứng nhận. Điều này có nghĩa là các quy định điều chỉnh việc sử dụng nhãn hiệu chứng nhận phải nêu rõ những cá nhân/ tổ chức được quyền sử dụng nhãn hiệu chứng nhận. Điều này là hoàn toàn cần thiết để đảm bảo nhãn hiệu chứng nhận được sử dụng bởi các cá nhân tổ chức đạt được những điều kiện nhất định đặt ra cho hàng hóa, dịch vụ mình làm ra hoặc cung cấp.
– Hai là, các đặc tính của hàng hóa, dịch vụ được chứng nhận.[10] Một nhãn hiệu chứng nhận chỉ được cấp khi đối tượng được chứng nhận (hàng hóa, dịch vụ) bao gồm các đặc tính nhất định. Đặc tính này có thể là vật liệu, phương thức sản xuất hàng hóa hoặc hoạt động dịch vụ, chất lượng, tính chính xác hoặc các đặc tính khác. Quy định này tương tự với quy định ghi nhận tại điểm b khoản 5 Điều 105 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005.
– Ba là, các biện pháp kiểm tra và giám sát được chủ nhãn hiệu chứng nhận áp dụng (kể cả chế tài).[11] Việc kiểm tra, giám sát của chủ sở hữu nhãn hiệu là cách thức hữu hiệu để đảm bảo chất lượng, hoặc các đặc tính đặc thù của nhãn hiệu chứng nhận. Chính vì lẽ đó, nếu không có các biện pháp kiểm tra, giám sát một cách thích hợp từ phía các chủ sở hữu, các cá nhân tổ chức được ủy quyền sẽ buông lỏng quản lý, chất lượng và đặc tính đặc thù của sản phẩm mang nhãn hiệu chứng nhận do đó không được đảm bảo. Đồng thời, các biện pháp chế tài cũng cần phải được nêu trong hồ sơ chuyển quyền sử dụng để đảm bảo tính hiệu quả trong việc quản lý sử dụng nhãn hiệu chứng nhận. Quy định về phương pháp đánh giá các đặc tính của hàng hóa, dịch vụ và phương pháp kiểm soát việc sử dụng nhãn hiệu được quy định trong Quy định số 2017/1001 tương tự với quy định tại điểm d khoản 5 Điều 105 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005.
Nếu các quy định về điều kiện sử dụng, điều kiện quản lý nhãn hiệu không đáp ứng được yêu cầu thì hồ sơ đăng ký nhãn hiệu chứng nhận châu Âu sẽ bị từ chối.[12] Trong trường hợp nhãn hiệu đã được cấp, nhưng trong quá trình sử dụng nhãn hiệu này, chủ sở hữu nhãn hiệu không tuân thủ các quy định phân tích trên, hoặc chủ sở hữu không thực hiện nghiêm túc, triệt để các yêu cầu đối với nhãn hiệu thì nhãn hiệu chứng nhận đã được cấp đó có thể bị hủy bỏ.[13]
Quy định về hủy bỏ nhãn hiệu chứng nhận châu Âu trong trường hợp quy định tại điểm (a), (b) Điều 91 Quy định số 2017/1001 có nhiều điểm tương đồng với quy định tại điểm e khoản 1 Điều 95 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005. Cụ thể, văn bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu chứng nhận chấm dứt hiệu lực nếu “Chủ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đối với nhãn hiệu chứng nhận vi phạm quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng nhận hoặc không kiểm soát, kiểm soát không có hiệu quả việc thực hiện quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng nhận”.[14]
Ngoài ra, có hai hạn chế quan trọng đối với nhãn hiệu chứng nhận của châu Âu cần phải được lưu ý, như sau:
– Thứ nhất, nhãn hiệu chứng nhận châu Âu không thể thuộc quyền sở hữu của một chủ thể tiến hành kinh doanh liên quan đến việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ của loại được chứng nhận.[15] Quy định này nhằm đảm bảo tính khách quan trong việc đưa ra sự chứng nhận của chủ sở hữu. Điều này tương tự với quy định của Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005: “tổ chức có chức năng kiểm soát, chứng nhận chất lượng, đặc tính, nguồn gốc hoặc tiêu chí khác liên quan đến hàng hóa, dịch vụ có quyền đăng ký nhãn hiệu chứng nhận với điều kiện không tiến hành sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đó”.[16]
– Thứ hai, nhãn hiệu chứng nhận châu Âu không thể dùng để phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ được chứng nhận về nguồn gốc địa lý.[17] Nói cách khác, hàng hóa được bảo vệ bằng các quy định liên quan đến chỉ dẫn địa lý thì không được cấp nhãn hiệu chứng nhận.
Nhìn chung, các quy định mới về nhãn hiệu của liên minh châu Âu có nhiều thay đổi cơ bản và không kém phần quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu phát triển của khoa học, công nghệ trong thách thức của nền cách mạng công nghiệp 4.0. Việc xem xét các thay đổi này cũng đồng thời có ý nghĩa đối với Việt Nam khi Việt Nam tham gia hiệp định thương mại tự do với Liên minh châu Âu, mặc dù hiện tại các quy định về sở hữu trí tuệ của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu không đặt ra các yêu cầu liên quan đến việc bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống.
Tuy nhiên, yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống đã được đưa vào nội dung của Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP).[18] Mặc dù Hiệp định TPP đã được thay thế bằng Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP – Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership), các quy định về nhãn hiệu phi truyền thống được ghi nhận trong hiệp định không thay đổi. Chính vì lẽ đó, việc xem xét các nhãn hiệu phi truyền thống của liên minh châu Âu, từ đó nghiên cứu để có những điều chỉnh hợp lý phù hợp với tình hình Việt Nam nên được cân nhắc trong thời gian tới.
CHÚ THÍCH
[1] Eurocham, hitebook: Trade & Investment Issues and Recommendations, 2017, tr. 4.
[2] Khoản 1 Điều 3, EUTMIR.
[3] Khoản 3 Điều 3, EUTMIR.
[4] Điểm (h) khoản 3, Điều 3, EUTMIR.
[5] Điểm (i) khoản 3, Điều 3, EUTMIR.
[6] Điểm (j) khoản 3, Điều 3, EUTMIR.
[7] Khoản 1 Điều 83 Quy định số 2017/1001.
[8] Khoản 2 Điều 83 Quy định số 2017/1001.
[9] Khoản 1 Điều 84 Quy định số 2017/1001.
[10] Khoản 2 Điều 84 Quy định số 2017/1001.
[11] Khoản 2 Điều 84 Quy định số 2017/1001.
[12] Khoản 3 Điều 85 Quy định số 2017/1001.
[13] Điểm (a) (b) Điều 91 Quy định số 2017/1001.
[14] Điểm e Khoản 1 Điều 95 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005.
[15] Khoản 2 Điều 83 Quy định số 2017/1001.
[16] Khoản 4 Điều 87 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005.
[16] Khoản 1 Điều 83 Quy định 2017/1001.
[18] Điều 18.18, mục C, chương 18, Hiệp định TPP.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Quy định số 2017/1001 về Nhãn hiệu của châu Âu [trans: European trade mark regulationsNo. 2017/10]
- Quy chế sử dụng nhãn hiệu của châu Âu [trans: European Trade Mark Implementing Regulations]
- Các quy định hướng dẫn nhãn hiệu châu Âu [trans: European trade mark delegated regulations]
- Hiệp định thương mại CPTPP [trans: Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership]
- Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005 [trans: Law on Intellectual Property of Vietnam 2005]
- Eurocham, Whitebook: Trade & Investment Issues and Recommendations, 2017
- Like fanpage Luật sư Online tại: https://www.facebook.com/iluatsu/
Trả lời