Mục lục
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Tác giả: Phan Thị Thanh Hải [1]
TÓM TẮT
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung, trong đó có lĩnh vực quyền sở hữu công nghiệp đã và đang trở thành yêu cầu cấp bách đối với mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam. Đặc biệt, khi quôć tế đang có xu hướng bảo hộ mậu dịch ở nhiều nước và khu vực, thậm chí ngay tại những quốc gia có truyền thống ủng hộ tự do hóa thương mại. Hiện nay, nước ta đang là thành viên của 14 Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có hai Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (Hiệp định CPTPP và Hiệp định EVFTA), trong hai Hiệp định này vấn đề thực thi quyền sở hữu trí tuệ luôn là nội dung được các bên rất quan tâm, đặc biệt đối với lĩnh vực quyền sở hữu công nghiệp. Trong phạm vi bài viết, tác giả sẽ tập trung làm rõ thực trạng vi phạm quyền sở hữu công nghiệp ở nước ta hiện nay và kiến nghị một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác này.
1. Tình hình vi phạm quyền sở công nghiệp ở nước ta hiện nay
Trong những năm gần đây, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành đối với công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự trong đảm bảo thực thi quyền sở hữu trí tuệ nói chung trong đó có quyền sở hữu công nghiệp, đã góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường đầu tư, bảo vệ thành quả sáng tạo tài sản sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, qua khảo sát, nghiên cứu thực tiễn công tác phòng, chống vi phạm, tội phạm xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều dấu hiệu diễn biến phức tạp, khó lường, cụ thể:
Theo Báo cáo Tổng kết Chương trình 168 giai đoạn II trong năm 2015 và giai đoạn 2012 – 2015 về hành động phòng, chống hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của Bộ Khoa học và Công nghệ thì từ năm 2012 đến năm 2015 toàn lực lượng Thanh tra Khoa học và Công nghệ đã trực tiếp phát hiện 717 vụ sản xuất buôn bán hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; lực lượng Quản lý thị trường đã phát hiện và xử lý 62.430 vụ; lực lượng Hải quan đã phát hiện gần 200 vụ; ngành Tòa án đã giải quyết 177 vụ việc đã xét xử: 55 vụ (trong đó có 12 vụ án hình sự), đã công nhận thỏa thuận 16 vụ; chuyển 15 vụ và đình chỉ 91; lực lượng Cảnh sát kinh tế toàn quốc đã phát hiện là 2.047 vụ sản xuất, buôn bán hàng giả và xâm phạm sở hữu trí tuệ, trong đó có 1.434 vụ hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, cụ thể: Quyền tác giả, quyền liên quan: 13 vụ; sáng chế: 6 vụ; kiểu dáng công nghiệp: 201 vụ; nhãn hiệu: 915 vụ; chỉ dẫn địa lý: 64 vụ; tên thương mại: 218 vụ; cạnh tranh không lành mạnh: 8 vụ; quyền đối với giống cây trồng: 9 vụ. Đã khởi tố 381 vụ, 553 bị can; chuyển xử lý hành chính 1564 vụ, phạt tổng số tiền 28,5 tỷ đồng (VND). Tổng hàng hóa thu giữ khoảng 70 tấn thực phẩm chức năng các loại; 6.500 sản phẩm rượu ngoại các loại; 26.292 sản phẩm thuốc tân dược; 80.900 tấn phân bón; hàng triệu sản phẩm điện tử, túi xách, giày dép, quần áo thời trang, rượu, bia, nước giải khát; lương thực thực phẩm các loại xâm phạm nhãn mác, kiểu dáng của các thương hiệu có uy tín trong và ngoài nước2.
Tính riêng năm 2018, Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ đã thanh tra, xử lý đối với 40 đối tượng vi phạm về sở hữu công nghiệp, tổng số tiền phạt là 366,2 triệu đồng (VNĐ). Tính đến 09 tháng đầu năm 2019, số lượng đơn Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp nhận khoảng hơn 90 đơn trong khi đó đã giải quyết được 72 đơn đề nghị xử lý vi phạm về sở hữu công nghiệp (gấp đôi số lượng đơn giải quyết của năm 2018), trong đó đã tiến hành 46 cuộc thanh tra, xử lý vi phạm hành chính 20 đối tượng vi phạm với tổng số tiền phạt 730,4 triệu đồng (VNĐ)3. Ngoài ra, theo số liệu thống kê từ năm 2014 đến năm 2019, các lực lượng chức năng đã phát hiện, xử lý 1.057.934 vụ buôn lậu và gian lận thương mại (trong đó có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ) thu nộp ngân sách nhà nước hơn 91 nghìn tỷ đồng, khởi tố 8.788 vụ, với 10.404 đối tượng buôn lậu. Trong công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, 6 tháng đầu năm 2020, các lực lượng chức năng đã phát hiện, xử lý gần 75.000 vụ việc vi phạm, thu nộp ngân sách gần 11.300 tỷ đồng (tăng 83% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó số thu từ lực lượng thuế và hải quan tăng mạnh, lần lượt là 98% và 44%), khởi tố 1.128 vụ án, với hơn 1.346 đối tượng4 .
Thực trạng tình hình xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay xuất phát từ một số nguyên nhân cơ bản sau:
Một là, hệ thống văn bản pháp luật có liên quan vẫn còn chưa thực sự chặt chẽ, thiếu tính đồng bộ, thống nhất
Theo quy định của pháp luật hiện hành cho thấy, mức xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền sở công nghiệp nhìn chung vẫn còn thấp so với thực tế hậu quả mà hành vi này gây ra đối với chủ thể quyền, doanh nghiệp và người tiêu dùng nên chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn. Theo Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày 29 tháng 8 năm 2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, mức xử phạt cao nhất đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp do cá nhân thực hiện là 250.000.000 đồng, còn tổ chức là 500.000.000 đồng.
Đối với biện pháp xử lý hình sự, những quy định mới của BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015) đã cơ bản khắc phục những tồn tại, qua đó tạo thuận lợi hơn trong quá trình phát hiện, xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng vẫn còn một số tồn tại nhất định, điển hình như: các đối tượng thuộc quyền sở hữu công nghiệp chưa được BLHS năm 2015 quy định đầy đủ. Mặc dù Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2019 (Khoản 4, Điều 4) đối tượng quyền sở hữu công nghiệp gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh nhưng BLHS năm 2015 lại chưa quy định hết phạm vi các đối tượng này. Cụ thể, tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp mới chỉ quy định đối với đối tượng là nhãn hiệu, chỉ dẫn (02 trong số 07 đối tượng), hành vi xâm phạm quyền sở công nghiệp với các đối tượng còn lại sẽ không bị xử lý bằng biện pháp hình sự. Đặc biệt, điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp còn khó khăn, bất cập, điển hình BLHS năm 2015 đã quy định thêm yếu tố bắt buộc để định tội “thu lời bất chính” “giá trị hàng hóa vi phạm” thay vì chỉ có yếu tố “quy mô thương mại” như BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 trước đây. Tuy nhiên, cho đến nay các nhà làm luật chưa có hướng dẫn cụ thể về các yếu tố này để thống nhất trong xác định tội danh. Đồng thời, để xử lý hình sự tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Khoản 1, Điều 226 BLHS năm 2015) phải có thêm điều kiện là yêu cầu của bị hại (Khoản 1 Điều 155 Bộ luật TTHS năm 2015) thì mới đủ điều kiện xử lý hình sự. Ngoài ra, công tác giám định hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp vẫn còn tình trạng thời gian kéo dài, chi phí giám định cao, nhiều trường hợp còn khó khăn trong việc thu thập mẫu giám định nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình giải quyết vụ việc. Bên cạnh đó, yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại nói chung trong đó có tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp vẫn còn nhiều bất cập. Hiện nay, chưa có hướng dẫn, giải thích cụ thể về một số vấn đề liên quan như: trường hợp có nhiều người đại diện theo pháp luật cho pháp nhân thương mại phạm tội; người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại đồng thời cũng chịu trách nhiệm hình sự cá nhân; chứng minh lỗi của pháp nhân thương mại phạm tội; hình phạt của pháp nhân thương mại phạm tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Đồng thời, với hình phạt mà BLHS năm 2015 quy định “…phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm” (Điều 226) đối với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, theo tác giả mức phạt này còn thấp, chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn so với hậu quả mà tội phạm này gây ra cho chủ sở hữu quyền và người tiên dùng.
Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung, trong đó có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp còn được xử lý khá phổ biến bằng biện pháp dân sự. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi biện pháp này vẫn còn một số tồn tại nhất định, như: việc xác định thiệt hại (vật chất, uy tín, danh tiếng…) đối với chủ thể quyền do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây ra làm căn cứ xử lý, bồi thường thiệt hại đang là vấn đề còn nhiều tranh cãi, phức tạp. Trong khi đó, Điều 205 Luật sở hữu trí tuệ năm 2013 sửa đổi, bổ sung năm 2019 chỉ quy định một cách chung chung là mức bồi thường thiệt hại về vật chất do Tòa án ấn định nhưng không quá 500 triệu đồng, mà không quy định Tòa án có quyền tăng mức bồi thường lên gấp ba đối với hành vi xâm phạm do lỗi cố ý5 . Ngoài ra, cơ quan xét xử cũng phải thu thập nhiều loại chứng cứ, tài liệu pháp lý liên quan để chứng minh vai trò chủ thể quyền, trong khi các chủ thể này chưa chú trọng nhiều đến việc xác lập bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ… Đó là những lý do phổ biến khiến cho biện pháp xử lý dân sự thường diễn ra trong thời gian dài, tốn kém nhiều chi phí.
Hai là, chủ thể quyền sở hữu công nghiệp chưa thật sự quan tâm đến bảo vệ quyền lợi của mình
Một trong những nguyên nhân phổ biến dẫn đến tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam còn phức tạp là do chủ thể quyền, cơ sở sản xuất, kinh doanh chính hãng chưa thật sự quan tâm nhiều đến việc bảo vệ quyền lợi của mình cụ thể: chưa nhận thức đầy đủ về giá trị tài sản trí tuệ, chưa chú trọng đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; yêu cầu tiết giảm chi phí, giảm giá thành sản phẩm chưa được quan tâm; một bộ phận chủ thể quyền chưa nêu cao ý thức trách nhiệm trong phối hợp như cung cấp thông tin, tài liệu về hành vi xâm phạm, mẫu sản phẩm thật…với cơ quan chức năng để kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Do đó, quan hệ phối hợp giữa các lực lượng thực thi và chủ thể quyền sở hữu trí tuệ chưa mang tính chủ động, hiệu quả thấp.
Ba là, mối quan hệ phối hợp giữa các lực lượng thực thi hiệu quả chưa cao
Hệ thống các cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, bao gồm lĩnh vực sở hữu công nghiệp hiện nay bị coi là quá phức tạp, nhiều đầu mối. Có cơ quan được trao thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nhưng thực tế không có điều kiện để tổ chức thực hiện (Ủy ban nhân dân cấp huyện)… Trong khi đó, phạm vi thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan còn có sự trùng lặp, chồng chéo nhau, ví dụ, các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý quy định tại Điều 12, Điều 13 của Nghị định số 99/2013/NĐ-CP thuộc thẩm quyền xử phạt của cả 04 cơ quan là Thanh tra Khoa học và Công nghệ, Quản lý thị trường, Hải quan, Công an; hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp nêu tại Điều 14 của Nghị định số 99/2013/NĐ-CP thuộc thẩm quyền xử phạt của 03 cơ quan là Thanh tra Khoa học và Công nghệ, Quản lý thị trường, Hải quan. Năng lực của các cơ quan thực thi hành chính về cơ bản còn thiếu và yếu…6. Bên cạnh đó, công tác giám định sở hữu công nghiệp luôn được xác định là một khâu quan trọng để xác định hành vi, tính chất, mức độ xâm phạm và xác định thiệt hại trong quá trình xử lý các vụ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, tuy nhiên hoạt động giám định trong thực tế vẫn còn nhiều khó khăn nhất định, hiện nay, mới chỉ có 01 tổ chức giám định được thành lập (Viện Khoa học sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ) và cũng chỉ có 04 người được công nhận là giám định viên sở hữu công nghiệp, trong đó, 02 người đang “hoạt động trong tổ chức giám định, dưới danh nghĩa của tổ chức” (Viện Khoa học sở hữu trí tuệ), 02 người còn lại “hoạt động độc lập”7. Ngoài ra, hiệu quả phối hợp giữa các lực lượng thực thi chưa cao, vẫn còn mang tính hình thức. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của một số cán bộ chuyên trách tại các cơ quan quản lý nhà nước trong đảm bảo thực thi quyền sở hữu công nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, lúng túng trong việc thực hiện các chức năng của mình, có tâm lý ỷ lại, trông chờ, lệ thuộc vào ý kiến của cơ quan chuyên môn; năng lực đánh giá hành vi, mức độ vi phạm xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp còn yếu, nhiều cơ quan chưa thiết lập được bộ phận chuyên trách về sở hữu trí tuệ.
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đảm bảo thực thi quyền sở hữu trí tuệ nói chung, quyền sở hữu công nghiệp nói riêng, thời gian tới cần thiết thực hiện đồng bộ một số giải pháp trọng tâm sau:
Thứ nhất, hoàn thiện văn bản pháp luật có liên quan đến công tác quản lý nhà nước trong đảm bảo thực thi quyền sở hữu công nghiệp.
Đối với biện pháp xử lý vi phạm hành chính, thời gian tới theo tác giả cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung theo hướng tăng mức xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Bởi hiện nay với mức xử phạt như đã trình bày theo tác giả vẫn còn khá thấp, chưa phù hợp so với thực tế hậu quả hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có thể gây ra đối với chủ thể quyền và người tiêu dùng. Đối với biện pháp xử lý hình sự, thực tiễn công tác thực thi quyền sở hữu công nghiệp cho thấy, hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với các đối tượng như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp… đang có dấu hiệu diễn biến phức tạp, chiều hướng gia tăng trong khi đó xử lý bằng biện pháp dân sự, hành chính vẫn chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn. Hơn nữa, để đảm bảo những cam kết về sở hữu trí tuệ trong Hiệp định CPTPP, EVFTA mà chúng ta đã tham gia, thời gian tới cần thiết phải bổ sung thêm các đối tượng thuộc quyền sở hữu công nghiệp được BLHS bảo vệ, trước mắt là kiểu dáng công nghiệp, sáng chế. Đối với thuật ngữ “quy mô thương mại” – yếu tố cấu thành tội phạm xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, cần thiết sớm phải được làm rõ, tác giả cho rằng nên hiểu yếu tố này với tinh thần như sau: “quy mô thương mại” là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được thực hiện một cách có chủ ý nhằm để sản xuất, buôn bán hoặc để buôn bán nhằm mục đích thu lời, bao gồm giá trị của hàng hóa vi phạm. Đối với hai yếu tố “thu lời bất chính” và “giá trị hàng hóa vi phạm” cần quy định căn cứ theo số lượng hàng hóa xâm phạm tại thời điểm bắt giữ, thu giữ và đã xuất bán có giá trị tương đương với giá trị hàng hóa chính hãng đang được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
Ngoài ra, để nâng cao tính chủ động trong xử lý hình sự hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo tác giả cần thiết bỏ quy định khởi tố theo yêu cầu của bị hại đối với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Khoản 1 Điều 226). Đồng thời, cần sửa đổi, bổ sung khung hình phạt các tội xâm phạm quyền sở công nghiệp theo hướng bỏ hình phạt “cải tạo không giam giữ”, không quy định mức phạt tiền tối đa (hiện nay là 1.000.000.0000 đồng) mà thay vào đó là mức xử phạt tiền gấp 2 đến 3 lần số tiền thu lời bất chính, giá trị hàng hóa xâm phạm, tăng khung hình phạt tù từ “phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm” lên “phạt tù từ 03 năm đến 07 năm” đối với Khoản 2 Điều 226 BLHS năm 2015. Đối với biện pháp xử lý dân sự, theo tác giả để khuyến khích các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ trong đó có lĩnh vực quyền sở hữu công nghiệp được giải quyết bằng biện pháp dân sự, thời gian tới các cơ quan hữu quan ngoài việc quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về lĩnh vực sở hữu trí tuệ cho ngành tòa án nhằm nâng cao chất lượng kết quả xét xử các vụ án về sở hữu trí tuệ thì cần thiết kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định về chế tài xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp này. Người viết hoàn toàn đồng ý với quan điểm của tác giả Nguyễn Bích Thảo8 khi ngoài việc tiếp tục duy trì chế tài buộc bồi thường thiệt hại thực tế và lợi nhuận của bên xâm phạm, cần quy định về bồi thường theo luật định trong những trường hợp khó xác định thiệt hại và mức bồi thường thiệt hại theo luật định này phải đủ lớn để đảm bảo tính răn đe. Đối với hành vi xâm phạm cố ý thì tòa án cần có quyền buộc bên xâm phạm phải trả một khoản tiền bồi thường bổ sung, bao gồm cả khoản bồi thường bồi thường mang tính chất trừng phạt, răn đe.
Thứ hai, nâng cao vai trò, trách nhiệm của doanh nghiệp, chủ thể quyền sở hữu công nghiệp.
Hậu quả do hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp gây ra đối với chủ thể quyền, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh chính hãng (trường hợp doanh nghiệp được chủ thể quyền chuyển giao quyền) là rất lớn, đó không chỉ là thiệt hại về tài sản mà còn là uy tín, danh tiếng, thương hiệu trên thị trường. Vì vậy, để chủ động bảo vệ tài sản trí tuệ của mình, yêu cầu đầu tiên và có tính tiên quyết đối với chủ thể quyền, doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm chính hãng là cần tiến hành ngay hoạt động đăng ký xác lập bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Trong trường hợp có chuyển nhượng, mua bán, chuyển giao (cấp li xăng) tài sản trí tuệ cần công bố công khai, rộng rãi những đơn vị hợp tác, phân phối sản phẩm chính hãng để cho doanh nghiệp, người tiêu dùng biết được. Đồng thời, khi phát hiện hành vi xâm phạm, sản xuất, buôn bán hàng giả cần nhanh chóng cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến với cơ quan chức năng, cũng như chủ động phối hợp trong quá trình giải quyết vụ việc.
Thứ ba, tăng cường hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa các lực lượng chức năng trong phòng, chống hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
Hoạt động phòng, chống hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ cần thiết phải có sự tham gia, phối hợp của nhiều lực lượng liên quan khác nhau. Để làm tốt vấn đề này, cần thiết phải thực hiện rà soát, đánh giá hiệu lực, hiệu quả và sự phù hợp của hệ thống tổ chức, cơ cấu bộ máy bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung trong đó có quyền sở hữu công nghiệp. Đồng thời, cần tiếp tục chú trọng hoàn thiện, bổ sung cơ chế phối hợp giữa các lực lượng thực thi theo hướng chủ động, tích cực tăng cường trao đổi thông tin, tài liệu về tình hình, phương thức, thủ đoạn, địa bàn hoạt động mới của các đối tượng cũng như phối hợp trong xử lý các vụ việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phức tạp; kịp thời tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước, các cơ quan có liên quan để kịp thời sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn những quy định pháp luật còn tồn tại, bất cập, chưa thống nhất.
Hành vi xâm phạm quyền sở trí tuệ nói chung, trong đó có xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là một hiện tượng kinh tế – xã hội tiêu cực, có nguyên nhân, điều kiện phát sinh, tồn tại, phát triển nhất định và chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố. Do vậy, để nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong đảm bảo thực thi quyền sở hữu công nghiệp, đòi hỏi cơ quan thực thi căn cứ vào đặc điểm tình hình kinh tế, xã hội, thực trạng hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp tại từng khu vực, địa bàn cụ thể để có giải pháp phòng, chống xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đồng bộ, hiệu quả./.
CHÚ THÍCH
- Tiến sỹ, Học viện Cảnh sát nhân dân.
- Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ (2016), Những kết quả đạt được của Chương trình 168 về phối hợp hành động phòng và chống xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ giai đoạn II (2012-2015), xem ngày 05/5/2021, https://thanhtra.most.gov.vn/thanhtra/tin-tuc/4/49/nhung-ket-qua-dat-duoc-cua-chuong-trinh-168-ve-phoi-hop- hanh-dong-phong-va-chong-xam-pham-quyen-so-huu-tri-tue-giai-doan-ii-2012—2015.aspx,
- Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ (2019), Một vài nét cơ bản về thực trạng và giải pháp về thực thi quyền sở hữu trí tuệ, xem ngày 05/5/2021, https://thanhtra.most.gov.vn/thanhtra/tin-tuc/1/477/mot-vai-net-co-ban-ve-thuc- trang-va-giai-phapve-thuc-thi-quyen-shtt.aspx.
- Lê Quốc Hùng, Thiếu tướng, Thứ trưởng Bộ Công an (2020). “Tăng cường đấu tranh phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội đất nước”, xem ngày 20/5/2021, https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/820103/tang-cuong-dau-tranh- phong%2C-chong-buon-lau%2C-gian-lan-thuong-mai%2C-phuc-vu-phat-trien-kinh-te—xa-hoi-dat-nuoc.aspx, ngày 21/10/2020.
- Nguyễn Bích Thảo, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2017). “Hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ trong bối cảnh hội nhập quốc tế”.
- Phòng Pháp chế và Chính sách, Cục sở hữu trí tuệ, Một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo Chiến lược sở hữu trí tuệ đến năm 2030, xem ngày 05/5/2021, http://noip.gov.vn/vi_VN/web/guest/tin-tuc-su-kien/-/asset_publisher/7xsjBfqhCDAV/content/mot-so-giai-phap- cu-the-nham-nang-cao-hieu-qua-bao-ve-quyen-so-huu-tri-tue-theo-chien-luoc-so-huu-tri-tue-en-nam-2030.
- Phòng Pháp chế và Chính sách, Cục sở hữu trí tuệ. Một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo Chiến lược sở hữu trí tuệ đến năm 2030, xem ngày 20/5/2021, http://noip.gov.vn/vi_VN/web/guest/tin-tuc-su-kien/-/asset_publisher/7xsjBfqhCDAV/content/mot-so-giai-phap- cu-the-nham-nang-cao-hieu-qua-bao-ve-quyen-so-huu-tri-tue-theo-chien-luoc-so-huu-tri-tue-en-nam-2030.
- Nguyễn Bích Thảo, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2017). “Hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc dân và tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”, Tạp chí Lập pháp.
Trả lời