• Trang chủ
  • Hiến pháp
  • Hình sự
  • Dân sự
  • Hành chính
  • Hôn nhân gia đình
  • Lao động
  • Thương mại

Luật sư Online

Tư vấn Pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, ly hôn, thừa kế, đất đai

  • Kiến thức chung
    • Học thuyết kinh tế
    • Lịch sử NN&PL
  • Cạnh tranh
  • Quốc tế
  • Thuế
  • Ngân hàng
  • Đất đai
  • Ngành Luật khác
    • Đầu tư
    • Môi trường
 Trang chủ » Chế định đăng ký nhãn hiệu mùi hương theo Pháp luật Hoa Kỳ

Chế định đăng ký nhãn hiệu mùi hương theo Pháp luật Hoa Kỳ

05/05/2020 22/05/2021 TS. Nguyễn Hồ Bích Hằng& ThS. Nguyễn Xuân Mỹ Hiền & ThS. Huỳnh Thanh Thịnh Leave a Comment

Mục lục

  • TÓM TẮT
  • 1. Khái quát quy định pháp luật về nhãn hiệu mùi hương theo điều ước quốc tế và pháp luật Hoa Kỳ
  • 2. Chế định bảo hộ nhãn hiệu mùi hương theo pháp luật Hoa Kỳ
    • 2.1. Điều kiện bảo hộ nhãn hiệu mùi hương theo pháp luật Hoa Kỳ
    • 2.2. Đăng ký nhãn hiệu mùi hương theo pháp luật Hoa Kỳ
  • 3. Kết luận
  • CHÚ THÍCH

Chế định đăng ký nhãn hiệu mùi hương theo Pháp luật Hoa Kỳ

Tác giả: TS. Nguyễn Hồ Bích Hằng – ThS. Nguyễn Xuân Mỹ Hiền – ThS. Huỳnh Thanh Thịnh

TÓM TẮT

Hiệp định TPP đã tạo một bước tiến mới khi yêu cầu các thành viên phải nỗ lực bảo hộ nhãn hiệu mùi hương. Tuy hiện nay, hiệp định TPP vẫn chưa phát sinh hiệu lực, nhưng dù sớm hay muộn, pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam cũng cần phải bảo hộ loại nhãn hiệu này theo xu thế phát triển tất yếu của thế giới. Bài viết phân tích chế định đăng ký nhãn hiệu mùi hương theo Đạo luật Nhãn hiệu Hoa Kỳ – quốc gia tiên phong trong việc bảo hộ nhãn hiệu, với mong muốn cung cấp tài liệu tham khảo cho Việt Nam khi Việt Nam tiến hành quy định bảo hộ nhãn hiệu mùi hương.

Chế định đăng ký nhãn hiệu mùi hương theo Pháp luật Hoa Kỳ

Xem thêm bài viết về “Nhãn hiệu”

Xem thêm tài liệu liên quan:

  • Buôn bán trực tuyến hàng hóa vi phạm nhãn hiệu hàng hóa tại Việt Nam, thực trạng và hướng hoàn thiện
  • Hiệu lực của hợp đồng theo Công ước Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: “khoảng xám” cho xu hướng quay về áp dụng pháp luật quốc gia?
  • Lược sử luật hóa “Hôn nhân đồng tính” tại Hoa Kỳ và định hướng cho Việt Nam
  • Chế định mặc cả nhận tội theo pháp luật tố tụng hình sự Hoa Kỳ và kinh nghiệm cho Việt Nam
  • Thời hạn, thời hiệu trong chế định kỷ luật lao động theo quy định của pháp luật lao động Việt Nam
  • Hiến pháp 2013 và định hướng sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002
  • Quy định về chuyển giao bắt buộc quyền sử dụng đối với sáng chế và nhập khẩu song song dược phẩm theo quy định của pháp luật Hoa Kỳ
  • Quy định về sáng chế dược phẩm của hiệp định đối tác xuyên thái bình dương (TPP) và ảnh hưởng đến chiến lược phát triển dược phẩm Việt Nam
  • Tìm hiểu về các hoạt động nghiệp vụ và hành vi gài bẫy theo Pháp luật Hoa Kỳ
  • Nguyên tắc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại đối với nhãn hiệu hàng hóa Liên minh Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
  • Bình luận bản án: Hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu – ThS. Nguyễn Ngọc Hồng Phượng & ThS. Nguyễn Phương Thảo
  • Bình luận bản án: Bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại – TS. Lê Thị Nam Giang & ThS. Phạm Vũ Khánh Toàn
  • Xung đột quyền trong bảo hộ Nhãn hiệu và Tên thương mại – TS. Lê Thị Nam Giang
  • Nhãn hiệu nổi tiếng, pháp luật và thực tiễn – ThS. Lê Xuân Lộc & ThS. Mai Duy Linh
  • Bình luận bản án: Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam – PGS.TS. Đỗ Văn Đại & ThS. Nguyễn Phương Thảo

1. Khái quát quy định pháp luật về nhãn hiệu mùi hương theo điều ước quốc tế và pháp luật Hoa Kỳ

Ngày nay, cùng với xu thế toàn cầu hóa, các nhà sản xuất đã và đang không ngừng sáng tạo, đổi mới những phương thức nhận diện và bảo hộ nhãn hiệu của mình. Theo đó, việc phân biệt các sản phẩm/ dịch vụ giữa chủ sở hữu này với chủ sở hữu khác đã được thực hiện không chỉ bằng cách tạo dựng các nhãn hiệu truyền thống[1] mà còn được mở rộng hướng đến sử dụng nhãn hiệu phi truyền thống), bao gồm: âm thanh, hình ảnh động, mùi hương, hay mùi vị… Khác biệt với những nhãn hiệu phi truyền thống khác, nhãn hiệu mùi hương thể hiện đặc trưng thông qua việc sử dụng mùi hương để giúp người tiêu dùng nhận biết, phân biệt hàng hóa và dịch vụ giữa các chủ sở hữu hàng hóa, dịch vụ khác nhau ngay cả khi khách hàng không nhớ tên sản phẩm đó. Bên cạnh đó, nhãn hiệu mùi hương góp phần tạo lợi thế độc quyền cho chủ sở hữu thông qua việc ngăn chặn chủ thể khác đăng ký và sử dụng các nhãn hiệu tương tự.

Khái niệm “nhãn hiệu” đã được ghi nhận tại Công ước Paris về quyền sở hữu công nghiệp 1883,[2] sau đó là Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại về quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS) được tổ chức thương mại thế giới (WTO) ký kết năm 1995.…[3] Theo Điều 15.1 Hiệp định TRIPS, nhãn hiệu được hiểu là bất kỳ dấu hiệu nào được sử dụng trong thương mại với mục đích để xác định và phân biệt hàng hóa hay dịch vụ của chủ thể này với các chủ thể khác. Theo đó, Hiệp định TRIPS không giới hạn nhãn hiệu là nhãn hiệu truyền thống hay phi truyền thống. Điều này đồng nghĩa với việc công nhận bảo hộ cho cả hai loại nhãn hiệu. Như vậy, với cách ghi nhận khái niệm nhãn hiệu khái quát và mềm dẻo của mình, Hiệp định TRIPS dành quyền quyết định cho các Thành viên. Các quốc gia Thành viên đều có thể lựa chọn bảo hộ nhãn hiệu mùi hương hay không tùy thuộc vào điều kiện pháp luật của từng quốc gia. Trên cơ sở này, trong các hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia, đặc biệt là Hoa Kỳ, loại nhãn hiệu mới này đã góp phần trong việc tạo ra một hình thức quảng bá và chiến lược quảng cáo mới làm thay đổi nhận thức của người tiêu dùng[4] về nhãn hiệu của các nhà sản xuất, chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ.

Theo lịch sử, nhãn hiệu mùi hương được đăng ký và bảo hộ đầu tiên tại Hoa Kỳ vào năm 1990[5] và kể từ thời gian đó trở về sau, Hoa Kỳ tiếp tục có nhiều nhãn hiệu mùi hương đăng ký thành công.[6] Theo quy định pháp luật Hoa Kỳ – đạo luật Lanham,[7] nhãn hiệu được định nghĩa như sau: “thuật ngữ nhãn hiệu bao gồm bất kỳ từ ngữ, tên, ký hiệu hoặc bất kỳ dấu hiệu nào được sử dụng bởi một cá nhân hay một người có ý định sử dụng nhãn hiệu trong thương mại và đăng ký theo nguyên tắc quy định tại chương này để xác định, phân biệt hàng hóa của họ, bao gồm sản phẩm độc quyền của nhà sản xuất này với nhà sản xuất khác và để chỉ ra nguồn gốc của hàng hóa”. Như vậy, pháp luật nhãn hiệu Hoa Kỳ đã dự liệu bảo đảm mọi loại nhãn hiệu đều có thể được đăng ký trong tương lai. Thông qua cách quy định như trên, Hoa Kỳ đã công nhận mùi hương có thể là dấu hiệu, từ đó có khả năng trở thành nhãn hiệu dùng với mục đích nhận diện và phân biệt hàng hóa/ dịch vụ.

Xem thêm bài viết về “Pháp luật Hoa Kỳ“

  • Hết quyền sở hữu trí tuệ đối với chương trình máy tính từ thực tiễn của EU và Hoa Kỳ: Kinh nghiệm cho Việt Nam – ThS. Nguyễn Thanh Tú
  • Lược sử luật hóa “Hôn nhân đồng tính” tại Hoa Kỳ và định hướng cho Việt Nam – ThS. Hồ Minh Thành
  • Tìm hiểu về các hoạt động nghiệp vụ và hành vi gài bẫy theo Pháp luật Hoa Kỳ – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
  • Chế định mặc cả nhận tội theo pháp luật tố tụng hình sự Hoa Kỳ và kinh nghiệm cho Việt Nam – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
  • Giám sát tư pháp các cuộc trưng cầu ý dân ở Hoa Kỳ: Nguyên tắc quy trình chính trị và việc bảo đảm quyền con người – PGS.TS. The John Marshall

2. Chế định bảo hộ nhãn hiệu mùi hương theo pháp luật Hoa Kỳ

2.1. Điều kiện bảo hộ nhãn hiệu mùi hương theo pháp luật Hoa Kỳ

Để xác định một mùi hương có tiềm năng được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu, mùi hương này cần phải thỏa mãn ba điều kiện.  Thứ nhất, dấu hiệu mùi hương phải được sử dụng như một nhãn hiệu gắn liền với một sản phẩm, dịch vụ. Sản phẩm ở đây được hiểu là hàng hóa, dịch vụ thương mại cụ thể. Ví dụ: nhãn hiệu mùi hoa đại có thể được sử dụng cho sợi dùng để may vá, sợi thêu vì loại sợi này là một loại hàng hóa cụ thể được đưa vào thương mại. Thứ hai, mùi hương muốn được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu phải có khả năng phân biệt, thông qua chứng minh tính phi chức năng của dấu hiệu và vai trò như một nhãn hiệu của mùi hương. Thứ ba, dấu hiệu mùi hương trên không được gây nhầm lẫn với các nhãn hiệu khác.

2.2. Đăng ký nhãn hiệu mùi hương theo pháp luật Hoa Kỳ

Khi nộp đơn đăng ký nhãn hiệu mùi hương, đạo luật Lanham yêu cầu người nộp đơn cần nộp bảng mô tả chi tiết nhãn hiệu. Trong trường hợp đơn đăng ký nhãn hiệu mùi hương cùng với những thành phần khác có thể nhìn thấy được, việc nộp bản vẽ là yêu cầu bắt buộc bởi lẽ không thể phủ nhận thực tế rằng hình vẽ đóng vai trò rất quan trọng trong việc đăng ký nhãn hiệu.[8] Hình vẽ sẽ được lưu lại trong hồ sơ tại Cơ quan sáng chế và nhãn hiệu Hoa Kỳ (USPTO), đồng thời được thể hiện trong giấy chứng nhận đăng ký của các đại diện nhãn hiệu đăng ký.[9] Ngoài ra, đối với đơn đăng ký điện tử tại USPTO, mẫu nhãn hiệu[10] phải được nộp trực tiếp hoặc thông qua bưu điện, theo số đơn đã đăng ký, ngay sau khi việc nộp đơn điện tử thành công.[11]

Sau khi đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu mùi hương được nộp, thẩm định viên sẽ phải cân nhắc hai vấn đề riêng biệt liên quan đến tính chức năng và khả năng phân biệt của dấu hiệu.

2.2.1. Tính chức năng

Theo pháp luật của Hoa Kỳ, vấn đề quan trọng cần chứng minh là nhãn hiệu mùi hương được đăng ký chỉ có một chức năng duy nhất là chỉ định nguồn gốc của sản phẩm, chứ không phải chỉ dẫn đến đặc điểm của sản phẩm gắn liền với mùi hương.[12] Một dấu hiệu mùi hương sẽ không được bảo hộ nếu có tính chức năng. Điều này đồng nghĩa với việc một dấu hiệu mùi hương sẽ bị từ chối bảo hộ nếu mùi này trùng với mùi tự nhiên của sản phẩm.[13] Ví dụ: mùi hương chuối sẽ không được đăng ký bảo hộ cho sản phẩm chuối. Ngoài ra, một nhãn hiệu mùi hương sẽ được xem là có tính chức năng nếu mùi hương này do công dụng hay chất lượng của sản phẩm tạo ra, hay nói cách khác, việc áp dụng mùi hương “cần thiết cho việc sử dụng, mục đích sử dụng hay ảnh hưởng đến giá thành hoặc chất lượng của sản phẩm”. [14] Chính vì vậy, Ủy ban xét xử và khiếu nại nhãn hiệu Hoa Kỳ (TTAB) đã đặc biệt chỉ dẫn một mùi hương sẽ không thể được đăng ký là nhãn hiệu nếu sản phẩm chủ yếu được sử dụng nhờ mùi hương đó. Trên thực tế, USPTO đã từ chối bảo hộ nhãn hiệu cho sản phẩm dầu thơm được mô tả là: “sản phẩm có mùi hương aldelhudic-floral, với lớp trên cùng là mùi aldehit, hương cam bergamont, chanh và hoa cam; lớp giữa là hương hoa tinh tế từ hoa nhài, hoa huệ thung lũng, cây thủy tiên và cây ngọc lan tây, mà mùi hương nữ tính lớp trong cùng từ gỗ đàn hương, bách hương, vani, hổ phách, xạ hương, mùi xạ”. Lý do USPTO đưa ra là mùi hương đăng ký nhãn hiệu chính là đặc tính “có thể ngửi được” của sản phẩm dầu thơm. Điều này đã chứng minh nhãn hiệu này không đạt được yêu cầu về tính phi chức năng. Trong một vụ việc khác, thẩm định viên cũng đã từ chối đơn đăng ký “mùi hương gợi đến hương bạc hà” được sử dụng cho mặt nạ dùng trong y tế[15] với lập luận là mùi hương trong trường hợp này mang tính chức năng. Bởi lẽ, trong lĩnh vực y tế, mùi hương bạc hà trong mặt nạ có tác dụng rõ rệt trong việc giúp người bệnh sẽ có cảm giác dễ chịu hơn. USPTO cũng chỉ ra các bài báo chứng minh việc bệnh nhân mang mặt nạ trước khi gây mê sẽ có tác dụng hiệu quả hơn đối với việc gây mê phẫu thuật. Bên cạnh đó, một bài báo khác cũng đưa ra thực tế là các đối thủ cạnh tranh khác cũng đã sử dụng mùi hương cho mặt nạ. Chính vì thế, người nộp đơn không được độc quyền sử dụng hương bạc hà cho sản phẩm mặt nạ y tế của mình.

Thông thường, USPTO sẽ quyết định tính chức năng của mùi hương dựa theo các yếu tố sau: Thứ nhất, việc sử dụng mùi hương lên sản phẩm có phải là sáng chế hay giải pháp hữu ích; Thứ hai, việc áp dụng này có nhằm mục đích quảng cáo những lợi ích của sản phẩm; Thứ ba, đây có phải là thiết kế thay thế. Thứ tư, ứng dụng mùi hương cho hàng hóa, dịch vụ làm phương pháp sản xuất đơn giản hay rẻ hơn. Tuy nhiên, trên thực tế, tính chức năng đối với hàng hóa không bắt buộc phải xác định dựa trên tất cả các yếu tố, mà có thể tùy trường hợp sử dụng kết hợp các yếu tố đã phân tích.[16]

Chính vì vậy, việc yêu cầu nhãn hiệu phải mang tính phi chức năng có ý nghĩa đặc biệt trong duy trì sự cân bằng thích hợp giữa luật về sáng chế, giải pháp hữu ích với luật nhãn hiệu. Nếu việc bảo hộ mùi hương có tính năng thiết thực cho sản phẩm dưới dạng sáng chế hay giải pháp hữu ích thì thời hạn bảo hộ cho các đối tượng này ngắn hơn, thay vì cho phép chủ sở hữu sử dụng mùi hương trên dưới dạng nhãn hiệu vô thời hạn.[17] Ngoài ra, tính phi chức năng cũng có tác dụng đảm bảo mục tiêu ban đầu của nhãn hiệu là chỉ định nguồn, chứ không phải là hạn chế quyền cạnh tranh với những đối thủ kinh doanh khác.[18] Ví dụ, trong vụ Clarke, người nộp đơn đã thành công khi chứng minh mùi hương hoa đại không là đặc tính liên quan đến việc sử dụng chỉ thêu và sợi dệt và không gây trở ngại kinh doanh cho đối thủ.

2.2.2. Khả năng phân biệt

Bên cạnh chức năng nhận diện và chỉ dẫn nguồn gốc hàng hóa, các nhãn hiệu phi truyền thống gắn với từng sản phẩm, dịch vụ còn phải có khả năng phân biệt. Theo đó, để một nhãn hiệu được ghi nhận vào Đăng bạ chính (Principal Register)[19] thì dấu hiệu đó phải có tính phi chức năng và chủ sở hữu nhãn hiệu phải chứng minh được bản chất của dấu hiệu vốn đã có khả năng phân biệt (inherently distinctive) hoặc dấu hiệu này sẽ đạt được khả năng phân biệt thông qua việc sử dụng (acquired distinctive).[20] Tuy nhiên, trong khi một số dấu hiệu phi truyền thống như âm thanh về bản chất có thể có sự phân biệt, thì dấu hiệu mùi hương lại khó có thể tồn tại sẵn khả năng phân biệt. Vì vậy, chủ yếu nhãn hiệu mùi hương được đăng ký bằng cách chứng minh mùi hương của nhãn hiệu đạt được khả năng phân biệt trong quá trình sử dụng. Nếu tại thời điểm nộp đơn người nộp đơn không thể chứng minh được khả năng đạt được sự phân biệt thì mùi hương chỉ có thể đăng ký theo Đăng bạ phụ.[21] Sau khi nhãn hiệu mùi hương này tồn tại được 5 năm trở lên theo Đăng bạ phụ và có đủ chứng cứ kèm theo để thỏa mãn sự đạt được tính phân biệt thì người nộp đơn có thể nộp đơn đăng ký mới cho nhãn hiệu theo Đăng bạ chính.[22] Đối với quá trình này, người nộp đơn đăng ký cần phải chuẩn bị rất nhiều tài liệu, chứng cứ trong một khoảng thời gian để thẩm định viên đánh giá.[23] Ví dụ, trong đơn đăng ký “hương hoa tươi, mạnh, gợi tới hương hoa đại” để sử dụng cho sản phẩm sợi dùng để may vá và sợi thêu. Mặc dù thẩm định viên từ chối việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu theo cơ chế Đăng bạ chính trên cơ sở nhãn hiệu không có tiềm năng giúp người tiêu dùng nhận biết, phân biệt sản phẩm, nhưng người nộp đơn đã nộp bổ sung chứng cứ giúp nhãn hiệu đăng ký bảo hộ theo cơ chế Đăng bạ chính thành công. Cụ thể là (i) người nộp đơn đã tuyên bố rằng tại thời điểm đó, các nhà sản xuất khác chưa có kiến thức trong việc tạo mùi hương cho sản phẩm của họ; (ii) sản phẩm đã có quảng cáo chào hàng “mùi hương ngọt ngào” (iii) chủ sở hữu nhãn hiệu đã nộp bằng chứng chứng minh sự thành công của sản phẩm liên quan đến vấn đề đây là sản phẩm sợi mang mùi hương độc nhất trên thị trường.[24] Trong khi đó, tại đơn đăng ký mùi hương nho cho sản phẩm dầu nhớt và động cơ đốt trong, người nộp đơn phải nộp bổ sung các chứng cứ là: (i) Mùi hương nho đã được sử dụng được trong trước ít nhất 5 năm kể từ ngày nộp đơn đăng ký. (ii) Hàng năm bán được ít nhất 5000 chai nhớt có hương nho trong 5 năm trên. (iii) Quảng bá sản phẩm trên một số lượng danh mục, tài liệu kinh doanh và trên trang web của người nộp đơn.[25] Tuy nhiên, thẩm định viên đã cho rằng chứng cứ của người nộp đơn không đủ để chứng minh là sản phẩm đã đạt được tính phân biệt. Cụ thể, thẩm định viên đã chứng minh rằng nhãn hiệu mùi hương này đã được sử dụng ít hơn 10 năm, doanh thu của sản phẩm này thấp hơn trong hơn 5 năm mùi hương được sử dụng và người nộp đơn cũng không nộp được số lượng chính xác các tạp chí quảng bá sản phẩm. Kết quả là, đơn đăng ký bị bác bỏ vì không có câu trả lời cho cơ quan chức năng.[26]  Đến những năm gần đây 6 nhãn hiệu mùi hương đã được đăng ký vào Đăng bạ phụ và hiện đăng ký này vẫn còn hiệu lực.[27] Đồng thời, đến nay, mới chỉ có thêm một nhãn hiệu với mùi hương tác động cao bao gồm xạ hương, vani, hoa hồng, và oải hương cho dầu dưỡng tóc, kem cho tóc, kem dưỡng ẩm, tạo kiểu tóc được ghi nhận vào Đăng bạ chính.

3. Kết luận

Nhãn hiệu phi truyền thống nói chung và nhãn hiệu mùi hương nói riêng được đánh giá mang lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp, góp phần hỗ trợ họ khuếch trương uy tín, hình ảnh và gia tăng tài sản sở hữu trí tuệ của mình, từ đó tạo động lực để các doanh nghiệp nâng cao công tác sáng tạo, tìm ra những mùi hương độc đáo kết hợp với phát triển chất lượng sản phẩm, dịch vụ, bởi lẽ mùi hương có chức năng khơi gợi cảm xúc và tác động đến nhận thức của người tiêu dùng giúp họ phân biệt được hàng hóa, dịch vụ của nhà sản xuất này với nhà sản xuất khác. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của việc đăng ký nhãn hiệu mùi hương, việc bảo hộ nhãn hiệu này cũng sẽ mang lại thách thức cho các doanh nghiệp cũng như cơ quan quản lý nhãn hiệu. Từ kinh nghiệm thực tiễn của quốc gia bảo hộ nhãn hiệu mùi hương hàng đầu thế giới, việc nghiên cứu quy định pháp luật Hoa Kỳ hứa hẹn sẽ đóng vai trò nền tảng cũng như là nguồn tài liệu tham khảo cho pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam.

CHÚ THÍCH

[1]* TS, giảng viên Khoa Luật Dân sự, Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh.

** CN, giảng viên Khoa Luật Quốc tế, Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh.

*** CN Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh.Đây là những nhãn hiệu có những dấu hiệu có thể nhìn thấy được như từ ngữ, hình ảnh, chữ cái, chữ số, tên riêng, hình ảnh ba chiều, tổ hợp màu sắc…

[2] Việt Nam là thành viên ngày 8/3/1949.

[3] Việt Nam là thành viên ngày 11/01/2007.

[4] Tổ chức sở hữu trí tuệ Thế giới, “Văn bản của Thư Ký, Ủy ban thường trực liên quan đến Luật Nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, chỉ dẫn địa lý”, Hội nghị lần thứ 16, Geneva, tổ chức từ ngày 13 đến ngày 17 tháng 11, năm 2006, tr. 5.

[5] Clarke 17 USPQ 2d 1238 (1990). Năm 1990 Ban Giải quyết Khiếu nại nhãn hiệu (TTAB) thuộc Cơ quan Sáng chế và nhãn hiệu Hoa Kỳ (USPTO) đã ra quyết định chấp thuận khiếu nại của chủ đơn và đồng ý bảo hộ nhãn hiệu “mùi hương hoa đại” (Phumeria Blossoms) cho sản phẩm “chỉ may và chỉ thêu” (nhóm 23) dựa trên bằng chứng là mùi đó đã đạt được khả năng phân biệt thông qua việc sử dụng trên thị trường. Sự kiện này đã đánh dấu việc USPTO chính thức chấp nhận Bảo hộ nhãn hiệu mùi hương tại Hoa Kỳ.

[6] Tính đến thời điểm tháng 3/2012 đã có 15 nhãn hiệu mùi hương được đăng ký thành công tại Hoa Kỳ, trong đó có 2 nhãn hiệu được bảo hộ theo Đăng bạ chính 13 nhãn hiệu được bảo hộ theo Đăng bạ phụ, xem tại: [https://books.google.com.vn/books?id=VHc_BAAAQBAJ&pg=SA2-PA13&lpg=SA2-PA13&dq=U.S.%20Reg.%20No.%203%2C140%2C701&source=bl&ots=99AgK53yhB&sig=gQOkRdFqFlSQiiWOyqjpUm-552s&hl=vi&sa=X&ved=0ahUKEwj6sMCsstbSAhXDJ5QKHWDjA6oQ6AEIIDAB#v=onepage&q=U.S.%20Reg.%20No.%203%2C140%2C701&f=false],  truy cập lần cuối ngày 15/03/2017.

[7] Luật Nhãn hiệu Hoa Kỳ được điều chỉnh bởi đạo luật Lanham 1946.

[8] Ví dụ: Đơn quốc gia số 2463044 – “Mùi anh đào” sử dụng cho sản phẩm “dầu nhờn tổng hợp cho xe phân khối lớn và xe dã ngoại”.

[9] James E. Hawes, “Fragrance as Trademarks”, số 79, Báo cáo về nhãn hiệu năm 1989, [http://heinonline.org/HOL/LandingPage?handle=hein.journals/thetmr79&div=20&id=&page=], truy cập lần cuối ngày 14/1/2015, tr. 142 đến 154.

[10] Mẫu nhãn hiệu là sản phẩm mang mùi hương được đăng ký bảo hộ nhãn hiệu.

[11] Laura Hammel, Kỷ yếu Hội thảo Thủ tục đăng ký bảo hộ và duy trì nhãn hiệu tại Hoa Kỳ, Bài viết Bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống tại USPTO, tr.25.

[12] Adam Brookman, Trademark Law, tr. 2-13.

[13].http://pham.com.vn/vi/tin-tuc-su-kien/chuyen-muc-binh-luan/bao-ho-nhan-hieu-mui-scent-mark-1482.aspx], truy cập lần cuối 10/03/2017.

[14] Qualitex Co. v. Jacobson Products Co., 514 U.S. 159, 165 (1995) (trích Inwood Laboratories, Inc. v. Ives Laboratories, Inc., 456 U.S. 844, 850 n.10, 1982).

[15] Vụ In re Pohl-Boskamp GmbH & Co., 106 USPQ2d. 1042 (TTAB 2013).

[16] Vụ In re Morton Norwich Products, Inc, 671 F.2d 1332m 213m USPQ 9, 15-16 (CPPA, 1982).

[17] Roxana Sullivan, Dennemeyer & Associates LLC.[http://www.iam-media.com/intelligence/IAM-Yearbook/2016/Country-by-country/Non-traditional-trademarks-through-the-lens-of-the-USPTO160], truy cập lần cuối ngày 15/03/2017.

[18] https://tmep.uspto.gov/RDMS/TMEP/current#/current/TMEP-1200d1e873.html], truy cập ngày 15/03/2017.

[19] Theo Đạo luật Lanham, đăng ký theo cơ chế Liên bang (Federal Registration) được xem là biện pháp để bảo hộ quyền đối với nhãn hiệu tối ưu tại Hoa Kỳ, bao gồm 2 cấp đăng ký với 2 mục đích khác nhau: Đăng bạ chính (Principle Register), Đăng bạ phụ (Supplemental Register). Trong khi cơ chế Đăng bạ chính có xu hướng được sử dụng phổ biến nhờ nhiều lợi ích được mang lại cho chủ sở hữu, thì việc đăng ký theo cơ chế Đăng bạ phụ được xem là biện pháp thay thế khi nhãn hiệu chưa đủ tiêu chuẩn đăng ký theo cơ chế Đăng bạ chính.  [http://www.inta.org/TrademarkBasics/FactSheets/Pages/PrincipalvsSupplementalRegister.aspx], truy cập lần cuối ngày 15/06/2016.

[20] TMEP §1202.13.

[21] TMEP §1202.13.

[22]  Jay M. Burgett, “Hmm…What’s That Smell? Scent Trademarks—A United States Perspective”, Illinois, USA, Vol. 64 No. 5, 2009, tr.2. [http://www.inta.org/INTABulletin/Pages /Hmm%E2%80%A6What%E2%80%99sThatSmellScentTrademarks %E2%80%94AUnitedStatesPerspective.aspx] , truy cập 14/4/2016.

[23] TMEP §1202(b)(i).

[24] Kỷ yếu Hội thảo Thủ tục đăng ký bảo hộ và duy trì nhãn hiệu tại Hoa Kỳ, Bài viết Bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống tại USPTO, tr.25.

[25] U.S. Serial No. 77/179,347.

[26] Jay M. Burgett, tlđd.

[27] Jay M. Burgett,  tlđd.

  • Tác giả: TS. Nguyễn Hồ Bích Hằng – ThS. Nguyễn Xuân Mỹ Hiền – ThS. Huỳnh Thanh Thịnh
  • Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 05(108)/2017 – 2017, Trang 26-30
  • Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Chia sẻ bài viết:
  • Share on Facebook

Bài viết liên quan

Hành nghề luật sư một số nước trên thế giới (Mỹ, Pháp, Anh)
Hành nghề luật sư một số nước trên thế giới (Mỹ, Pháp, Anh)
Giải quyết tranh chấp chống bán phá giá theo pháp luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ
Giải quyết tranh chấp chống bán phá giá theo pháp luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ
Bàn về nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự theo Hệ thống pháp luật Anh - Mỹ
Bàn về nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự theo Hệ thống pháp luật Anh – Mỹ
Quy định về trách nhiệm hình sự của cá nhân và pháp nhân khi có tai nạn hàng hải gây ô nhiễm môi trường biển - Pháp luật Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Quy định về trách nhiệm hình sự của cá nhân và pháp nhân khi có tai nạn hàng hải gây ô nhiễm môi trường biển – Pháp luật Hoa Kỳ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Bảo hiến với việc bảo vệ quyền con người theo mô hình bảo hiến phi tập trung – Nghiên cứu trường hợp Hoa Kỳ
Bảo hiến với việc bảo vệ quyền con người theo mô hình bảo hiến phi tập trung – Nghiên cứu trường hợp Hoa Kỳ
Hoạt động Tam quyền phân lập trong nhiệm kỳ Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump dưới góc độ Luật Hiến pháp
Hoạt động Tam quyền phân lập trong nhiệm kỳ Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump dưới góc độ Luật Hiến pháp

Chuyên mục: Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam/ Sở hữu trí tuệ Từ khóa: Nhãn hiệu/ Pháp luật Hoa Kỳ/ Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam/ Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 05/2017

Previous Post: « Xác định mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
Next Post: Chế độ tự quản địa phương vùng nông thôn và vấn đề đổi mới chính quyền nông thôn Việt Nam »

Reader Interactions

Trả lời Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Primary Sidebar

Tìm kiếm nhanh tại đây:

Tài liệu học Luật

  • Trắc nghiệm Luật | Có đáp án
  • Nhận định Luật | Có đáp án
  • Bài tập tình huống | Đang cập nhật
  • Đề cương ôn tập | Có đáp án
  • Đề Thi Luật | Cập nhật đến 2021
  • Giáo trình Luật PDF | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | TRẢ PHÍ
  • Từ điển Luật học Online| Tra cứu ngay

Tổng Mục lục Tạp chí ngành Luật

  • Tạp chí Khoa học pháp lý
  • Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
  • Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
  • Tạp chí Kiểm sát
  • Tạp chí nghề Luật

Chuyên mục bài viết:

  • An sinh xã hội
  • Cạnh tranh
  • Chứng khoán
  • Cơ hội nghề nghiệp
  • Dân sự
    • Luật Dân sự Việt Nam
    • Tố tụng dân sự
    • Thi hành án dân sự
    • Hợp đồng dân sự thông dụng
    • Pháp luật về Nhà ở
    • Giao dịch dân sự về nhà ở
    • Thừa kế
  • Doanh nghiệp
    • Chủ thể kinh doanh và phá sản
  • Đất đai
  • Giáo dục
  • Hành chính
    • Luật Hành chính Việt Nam
    • Luật Tố tụng hành chính
    • Tố cáo
  • Hiến pháp
    • Hiến pháp Việt Nam
    • Hiến pháp nước ngoài
    • Giám sát Hiến pháp
  • Hình sự
    • Luật Hình sự – Phần chung
    • Luật Hình sự – Phần các tội phạm
    • Luật Hình sự quốc tế
    • Luật Tố tụng hình sự
    • Thi hành án hình sự
    • Tội phạm học
    • Chứng minh trong tố tụng hình sự
  • Hôn nhân gia đình
    • Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam
    • Luật Hôn nhân gia đình chuyên sâu
  • Lao động
  • Luật Thuế
  • Môi trường
  • Ngân hàng
  • Quốc tế
    • Chuyển giao công nghệ quốc tế
    • Công pháp quốc tế
    • Luật Đầu tư quốc tế
    • Luật Hình sự quốc tế
    • Thương mại quốc tế
    • Tư pháp quốc tế
    • Tranh chấp Biển Đông
  • Tài chính
    • Ngân sách nhà nước
  • Thương mại
    • Luật Thương mại Việt Nam
    • Thương mại quốc tế
    • Pháp luật Kinh doanh Bất động sản
    • Pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm
    • Nhượng quyền thương mại
  • Sở hữu trí tuệ
  • Kiến thức chung
    • Đường lối Cách mạng ĐCSVN
    • Học thuyết kinh tế
    • Kỹ năng nghiên cứu và lập luận
    • Lý luận chung Nhà nước – Pháp luật
    • Lịch sử Nhà nước – Pháp luật
    • Lịch sử văn minh thế giới
    • Logic học
    • Pháp luật đại cương
    • Tư tưởng Hồ Chí Minh
    • Triết học

Quảng cáo:

Copyright © 2023 · Luật sư Online · Giới thiệu ..★.. Liên hệ ..★.. Tuyển CTV ..★.. Quy định sử dụng