Bảo hộ quyền tác giả trong hoạt động của thư viện
Tác giả: TS. Lê Thị Nam Giang*
TÓM TẮT
Xuất phát từ chính chức năng, nhiệm vụ của thư viện, các hoạt động của thư viện luôn gắn liền với vấn đề khai thác quyền tác giả. Trong các quyền tài sản của chủ sở hữu quyền tác giả, các quyền liên quan chặt chẽ đến hoạt động của các thư viện bao gồm: (i) quyền sao chép tác phẩm; (ii) quyền truyền đạt tác phẩm tới công chúng; (iii) quyền phân phối tác phẩm, (iv) quyền dịch tác phẩm. Khi thực hiện nhiệm vụ, chức năng của mình, thư viện có nghĩa vụ tuân thủ các quy định của pháp luật về quyền tác giả, mặt khác phải đảm bảo để công chúng có thể khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên của thư viện. Đây không phải là nhiệm vụ đơn giản, đặc biệt trong bối cảnh tăng cường bảo hộ quyền tác giả được thực hiện trên phạm vi toàn cầu trong khi pháp luật điều chỉnh các quan hệ quyền tác giả trong hoạt động thư viện còn bộc lộ những bất cập nhất định. Bài viết phân tích việc khai thác các quyền tài sản trong hoạt động thư viện dưới góc độ pháp luật quyền tác giả và đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả bảo hộ quyền tác giả trong hoạt động thư viện tại Việt Nam.
Xem thêm bài viết về “Quyền tác giả”
- Bình luận bản án: Hành vi xâm phạm quyền tác giả – ThS. Nguyễn Phương Thảo
- Bồi thường chi phí Luật sư trong tranh chấp về hành vi xâm phạm quyền tác giả – ThS. Nguyễn Phương Thảo
1. Khái quát về quyền tác giả trong hoạt động của thư viện
Hoạt động của thư viện luôn gắn chặt với vấn đề bảo hộ quyền tác giả. Điều này xuất phát từ chính chức năng, nhiệm vụ của thư viện là “giữ gìn di sản thư tịch của dân tộc; thu thập, tàng trữ, tổ chức việc khai thác và sử dụng chung vốn tài liệu trong xã hội nhằm truyền bá tri thức, cung cấp thông tin phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu, công tác và giải trí của mọi tầng lớp nhân dân; góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển khoa học, công nghệ, kinh tế, văn hóa, phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”[1].Như vậy, thư viện có hai nhiệm vụ chính: (i) giữ gìn, thu thập, tàng trữ, tổ chức việc khai thác và sử dụng chung các nguồn tài nguyên thông tin mà thư viện quản lý; (ii) truyền bá tri thức, cung cấp thông tin, góp phần phục vụ công cuộc xây dựng đất nước. Việc thực hiện các nhiệm vụ trên luôn gắn chặt với vấn đề bảo hộ quyền tác giả vì bản thân nguồn tài nguyên thông tin của thư viện là các đối tượng được bảo hộ quyền tác giả, mặt khác các hoạt động thu thập, tổ chức khai thác nguồn tài nguyên thư viện đều gắn với vấn đề khai thác quyền tác giả. Tại Việt Nam, Pháp lệnh Thư viện quy định thư viện được quyền thu phí đối với các dịch vụ sao chụp, nhân bản tài liệu, biên dịch phù hợp với pháp luật về bảo hộ quyền tác giả; biên soạn thư mục; phục vụ tài liệu tại nhà hoặc gửi qua bưu điện và một số dịch vụ khác theo yêu cầu của người sử dụng vốn tài liệu thư viện[2].
Về mặt nguyên tắc, trong suốt thời hạn bảo hộ quyền tác giả, các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả được pháp luật bảo hộ các quyền độc quyền đối với tác phẩm của mình, bao gồm các quyền nhân thân và quyền tài sản. Quyền nhân thân luôn thuộc về tác giả, không thể chuyển giao còn quyền tài sản thuộc về chủ sở hữu quyền tác giả, trong trường hợp tác giả không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả, và có thể chuyển giao. Tuy nhiên có một quyền nhân thân khá đặc biệt là quyền công bố, cho phép công bố tác phẩm được pháp luật Việt Nam quy định như quyền tài sản, có nghĩa là thuộc về chủ sở hữu tác phẩm và có thể được chuyển giao. Trong suốt thời hạn bảo hộ quyền tác giả, các hành vi sử dụng tác phẩm đều phải được sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả. Trong các quyền tài sản của chủ sở hữu quyền tác giả, các quyền liên quan chặt chẽ đến hoạt động của các thư viện bao gồm: (i) quyền sao chép tác phẩm; (ii) quyền truyền đạt tác phẩm tới công chúng; (iii) quyền phân phối tác phẩm, (i) quyền làm tác phẩm phái sinh trong đó có quyền dịch tác phẩm.
2. Quyền sao chép trong hoạt động thư viện
2.1. Khái niệm quyền sao chép
Theo khoản 10 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) Việt Nam[3], “sao chép” được hiểu là việc tạo ra một hoặc nhiều bản sao của tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc tạo bản sao dưới hình thức điện tử.Việc sao chép có thể được tiến hành một cách trực tiếp – là việc tạo ra bản sao từ chính các tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình, hoặc gián tiếp – là việc tạo ra các bản sao khác không từ chính các tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình, như sao chép từ mạng thông tin điện tử, chương trình phát sóng, dịch vụ mạng bưu chính viễn thông liên quan và các hình thức tương tự khác. Khái niệm tác phẩm được hiểu rất rộng, bao gồm các sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào (sau đây gọi tắt là tác phẩm).
Quyền sao chép là một trong những quyền tài sản quan trọng nhất của chủ sở hữu quyền tác giả, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ trong suốt thời hạn tác phẩm được bảo hộ. Xuất phát từ tính vô hình của các tài sản trí tuệ, các tác phẩm cũng như các tài sản trí tuệ khác có khả năng cho phép nhiều người cùng có thể khai thác cùng một thời điểm ở nhiều địa điểm khác nhau mà không làm mất hay giảm giá trị của các tài sản này. Cũng xuất phát từ tính vô hình này, các tác phẩm khi bị công bố có thể bị truyền đạt, bị sao chép, phân phối một cách rất dễ dàng với số lượng lớn mà chủ sở hữu rất khó kiểm soát hiệu quả. Với sự phát triển của khoa học công nghệ, các máy photocopy, máy scan và các thiết bị dùng để sao chép khác ngày càng hiện đại đã làm cho việc sao chép tác phẩm với một số lượng rất lớn trong một thời gian ngắn được tiến hành một cách dễ dàng, chất lượng gần như bản gốc nhưng giá thành rẻ hơn rất nhiều. Đặc biệt, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, việc sử dụng phổ biến các thiết bị đầu cuối đã làm cho việc sao chép tác phẩm trong môi trường số gần như không kiểm soát được với chất lượng bản sao hoàn toàn như bản gốc. Việc cho phép sao chép tác phẩm và thu lợi ích kinh tế từ hành vi này là một trong những hình thức khai thác tác phẩm phổ biến nhất, mang lại cho các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả những lợi ích kinh tế to lớn. Ngược lại, việc sao chép trái phép các tác phẩm sẽ làm tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả mất lợi nhuận từ việc khai thác tác phẩm Vì vậy, quyền sao chép được coi là quyền tài sản quan trọng nhất của chủ sở hữu quyền tác giả, là độc quyền của chủ sở hữu quyền tác giả cho phép hay ngăn cấm người khác sao chép tác phẩm của mình. Quyền sao chép được quy định trong rất nhiều các điều ước quốc tế về quyền tác giả mà điển hình là Công ước Berne[4] và trong pháp luật các quốc gia. Tại Việt Nam, quyền sao chép được quy định trong Điều 20 Luật SHTT và khoản 2 Điều 23 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP[5].
Cung cấp dịch vụ sao chép là một trong những hoạt động phổ biến của các thư viện tại Việt Nam cũng như các nước trên thế giới. Pháp lệnh Thư viện Việt Nam quy định thư viện có quyền cung cấp dịch vụ photocopy tài liệu và thu phí cho hoạt động photo với điều kiện phải tuân thủ pháp luật quyền tác giả[6]. Như đã được phân tích ở trên, pháp luật về quyền tác giả của Việt Nam quy định quyền sao chép tác phẩm, bao gồm photocopy là quyền tài sản mang tính độc quyền của chủ sở hữu quyền tác giả, do chủ sở hữu thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện. Do đó, về nguyên tắc, các hoạt động sao chép tác phẩm, dù được thực hiện tại thư viện bởi dịch vụ do thư viện cung cấp hay ở bất cứ đâu, dù sao chép toàn bộ tác phẩm hay một phần của tác phẩm, đều phải được sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả và phải trả thù lao.
2.2. Các trường hợp sao chép tác phẩm không phải xin phép, không phải trả thù lao
a. Tự sao chép không quá một bản nhằm mục đích nghiên cứu, giảng dạy
Như đã được khẳng định ở trên, trong suốt thời hạn bảo hộ quyền tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả giữ độc quyền đối với việc sao chép tác phẩm. Tuy nhiên, pháp luật SHTT Việt Nam cũng như pháp luật các nước đều cho phép sử dụng tác phẩm, bao gồm sao chép tác phẩm trong những trường hợp nhất định mà không phải xin phép, không phải trả thù lao và những trường hợp sử dụng tác phẩm không phải xin phép nhưng phải trả thù lao[7]. Một trong những trường hợp sao chép không phải xin phép và không phải trả thù lao được quy định tại khoản 1 Điều 25 điểm a (viết tắt là Điều 25(1(a)) Luật SHTT Việt Nam là “tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân”. Theo đó, việc sao chép tác phẩm không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút và thù lao chỉ được tiến hành khi đáp ứng được các điều kiện sau: (i) tự thực hiện hành vi sao chép; (ii) và số lượng bản sao chép không quá một bản; (iii) chỉ nhằm mục đích nghiên cứu khoa học và giảng dạy; (iv) việc sao chép phải không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.
Quy định trên được đưa ra trên cơ sở quy định của Công ước Berne 1886 về bảo hộ tác phẩm văn học, khoa học, trong đó Công ước cho phép các quốc gia thành viên được quyền quy định trong pháp luật của mình về các trường hợp sử dụng ngoại lệ quyền tác giả miễn là phải tuân thủ ba điều kiện: (i) các trường hợp này phải được quy định trong pháp luật quốc gia; (ii) không phương hại đến quyền của tác giả; (iii) không ảnh hưởng đến sự khai thác bình thường tác phẩm. Tuy nhiên, quy định tại Điều 25 Luật SHTT Việt Nam đã thu hẹp một cách quá khắt khe các trường hợp sao chép tác phẩm không cần xin phép, không cần trả thù lao, ảnh hưởng việc khai thác tác phẩm của công chúng. Một là, quy định của pháp luật về hành vi “tự sao chép” gây nhiều tranh cãi trong cách hiểu và áp dụng, nhưng nhìn chung có hai quan điểm cơ bản. Theo quan điểm thứ nhất, hành vi “tự sao chép” phải được hiểu là người sao chép phải “tự mình” thực hiện hành vi đó, ví dụ như tự mình vận hành máy photocopy chứ không phải yêu cầu người khác thực hiện. Quan điểm thứ hai cho rằng, hành vi “tự sao chép” phải được hiểu ở nghĩa rộng hơn, ví dụ nếu người sao chép tự mình mang tác phẩm đến một cơ sở photocopy nào đó, yêu cầu photocopy tác phẩm cũng được hiểu là hành vi “tự sao chép”. Các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành Luật SHTT về quyền tác giả không có bất cứ giải thích nào về hành vi “tự sao chép”. Do đó, nếu hiểu theo quan điểm thứ nhất thì ngay cả đối với các giảng viên, họ cũng không có cơ hội để thực hiện quyền này cho chính mục đích nghiên cứu khoa học và giảng dạy vì điều kiện vật chất của các trường đại học ở Việt Nam không cho phép các giảng viên cơ hội được “tự mình” sử dụng các máy photocopy. Hiểu theo quan điểm này, thư viện cũng không thể cung cấp dịch vụ cung cấp các bản sao của tác phẩm dù phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học và giảng dạy, nếu chưa được sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả. Hai là, mục đích sao chép chỉ giới hạn ở mục đích nghiên cứu và giảng dạy. Như vậy, trong trường hợp chỉ cần photocopy một phần rất nhỏ của tác phẩm cho các mục đích nằm ngoài mục đích nghiên cứu khoa học và giảng dạy, ví dụ như mục đích học tập, mục đích giải trí… cũng không thuộc trường hợp không cần xin phép, không cần trả thù lao. Trong điều kiện hiện nay, khi mà việc quản lý nhà nước đối với hoạt động photocopy chưa được thắt chặt thì quy định này chưa thực sự gây trở ngại tới việc sử dụng tác phẩm của công chúng. Tuy nhiên, trong tương lai gần, khi mà các hoạt động nhằm đảm bảo thực thi quyền tác giả được đẩy mạnh, các hoạt động sao chép sẽ phải thực thi theo đúng quy định của pháp luật quyền tác giả thì quy định này sẽ trở thành rào cản đối với việc sử dụng tác phẩm và xa hơn là đối với mục đích của pháp luật quyền tác giả là nhằm khuyến khích hoạt động sáng tạo, phổ biến tác phẩm có giá trị phục vụ cho mục đích phát triển văn hóa, giáo dục.
b. Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu
Điểm đ khoản 1 Điều 25 Luật SHTT quy định trong trường hợp sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu thì sẽ không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, không phải trả thù lao. Giải thích rõ hơn về quyền sao chép trong hoạt động thư viện, Điều 25 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP quy định: “Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 25 của Luật SHTT là việc sao chép không quá một bản. Thư viện không được sao chép và phân phối bản sao tác phẩm tới công chúng, kể cả bản sao kỹ thuật số”. Tuy nhiên, trong trường hợp nào thư viện được phép sao chép để lưu trữ hiện nay vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Pháp luật Việt Nam chỉ quy định nguyên tắc chung là thư viện được quyền sao chép tác phẩm để lưu trữ nhằm mục đích nghiên cứu mà không quy định cụ thể, chi tiết về vấn đề này. Trong phiên họp của Ủy ban Quyền tác giả và quyền liên quan của WIPO vào tháng 12/2013, vấn đề này được đưa ra thảo luận và nhận được rất nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng quyền này chỉ được phép khi bản gốc không thể lưu trữ được, nhưng đa số các ý kiến đều cho rằng thư viện chỉ được quyền lưu trữ nhằm mục đích công cộng, phi lợi nhuận, nhằm bảo tồn di sản văn hóa.
Với quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các hoạt động sao chép tác phẩm theo yêu cầu của người đọc của các thư viện tại Việt Nam đều phải được sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả. Điều này thực sự gây khó khăn cho hoạt động của các thư viện trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Bởi lẽ, thứ nhất, các đầu sách được lưu trữ trong thư viện là rất lớn, khó có thể thực hiện việc xin phép và/hoặc trả thù lao cho các tác giả của tất các tác phẩm này. Mặc dù vấn đề này có thể được giải quyết thông qua các tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả, ví dụ Hiệp hội bảo vệ quyền sao chép Việt Nam. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi pháp luật Việt Nam phải hoàn thiện các quy định về quản lý hoạt động của các tổ chức này cũng như bản thân các tổ chức này cũng phải tự hoàn thiện mình. Thứ hai, trong nhiều trường hợp độc giả chỉ có nhu cầu sử dụng một phần tác phẩm và đa số các trường hợp yêu cầu photocopy tài liệu tại thư viện là nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc mục đích học tập, giảng dạy chứ không phải mục đích thương mại.
Tóm lại, các quy định hiện hành của pháp luật cho thấy, nếu tuân thủ đúng quy định của pháp luật quyền tác giả, thư viện sẽ không được phép cung cấp dịch vụ sao chép khi chưa có sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả, dù có thu phí hay không thu phí. Nhằm quyết vấn đề này, nhiều thư viện hiện nay tự đưa ra quy định cho phép photocopy 10% hoặc 15% tác phẩm và tiến hành thu phí đối với dịch vụ này. Rõ ràng các quy định này chỉ là giải pháp tình thế và không phù hợp với pháp luật SHTT Việt Nam hiện hành.
3. Quyền truyền đạt, phân phối tác phẩm
Theo pháp luật Việt Nam, quyền truyền đạt tác phẩm tới công chúng được hiểu là quyền độc quyền của chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện để đưa tác phẩm hoặc bản sao tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do chính họ lựa chọn.
Quyền phân phối bản gốc, bản sao tác phẩm là độc quyền của chủ sở hữu quyền tác giả do chủ sở hữu thực hiện hoặc cho người khác thực hiện bằng việc sử dụng bất kỳ hình thức, phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được để bán, cho thuê hoặc các hình thức chuyển nhượng khác.
Hiện nay, rất nhiều thư viện đã triển khai số hóa các tài liệu lưu trữ để giúp người đọc dễ dàng hơn trong việc tra cứu và tiếp cận nội dung của tài liệu. Tài liệu được số hóa đưa lên mạng thư viện, có thể đọc toàn văn ngay trong trình duyệt hoặc tải xuống để đọc qua một bộ đọc với các thao tác thuận tiện. Tài liệu số có thể được lưu trữ ở bất kỳ đâu, không nhất thiết phải nằm trên máy chủ đặt tại thư viện. Với công nghệ đám mây, bản thân thư viện chỉ biết nhà cung cấp dịch vụ, không cần biết dữ liệu của mình nằm ở đâu trên Internet[8].
Tài nguyên thông tin trong thư viện điện tử đến chủ yếu từ các nguồn: (i) các nguồn thông tin điện tử được thư viện mua hoặc được tặng cho, hoặc do thư viện thu thập trên mạng Internet, có xử lý thông tin hoặc không; (ii) thông tin được thư viện thuê từ các nhà cung cấp; (iii) các loại sách, tài liệu được công bố dưới dạng bản giấy, được các thư viện mua hợp pháp sau đó thư viện tiến hành số hóa.
Đối với các tác phẩm in được thư viện mua một cách hợp pháp, hoặc tác phẩm được nộp lưu chiểu, sau đó số hóa và lưu trữ trên kho số của viện, câu hỏi đặt ra là quyền sử dụng, khai thác của thư viện đối với các tác phẩm này được mở rộng đến đâu theo pháp luật quyền tác giả? Liệu thư viện có quyền cho phép người đọc truy cập hay tải các tài liệu này về máy tính của họ hay không? Thư viện có quyền thu phí từ việc cho phép sử dụng đó hay không?
Đôi khi, việc sử dụng tác phẩm trong môi trường truyền thống được xem là không xâm phạm quyền tác giả nhưng trong môi trường số vấn đề có thể được nhìn nhận ở góc độ khác đi. Ví dụ, trong các thư viện truyền thống hiện nay, trong kho tác phẩm của thư viện bao gồm các nguồn sách do thư viện đặt mua, các nguồn sách do được tặng cho từ tổ chức, cá nhân có thể là chủ sở hữu quyền tác giả, có thể không phải chủ sở hữu quyền tác giả, các sách được nộp lưu chiểu. Các tác phẩm này được lưu giữ có thể chỉ là một bản duy nhất, có thể nhiều bản. Các độc giả đến thư viện đều được quyền tự do đọc tại chỗ, thậm chí một số trường hợp, nếu có nhiều đầu sách trên một tác phẩm, độc giả có thể mượn mang về nhà mà không bị tính phí. Thực chất trong trường hợp này, hành vi này cũng cần được xem xét dưới góc độ pháp luật quyền tác giả. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, đây được xem như một hoạt động bình thường của thư viện truyền thống nhằm thực hiện chức năng của mình mà không có bất cứ một sự phản đối nào từ phía chủ sở hữu quyền tác giả hay từ cá nhân, tổ chức khác[9].
Tuy nhiên nếu thư viện số hóa các nguồn sách này, lưu trữ và cho phép truy cập hoặc phân phối trên Internet thì đây là hành vi xâm phạm quyền. Như trên chúng tôi đã phân tích, theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, thư viện không được phép cho người đọc tải các tài liệu trên thư viện điện tử về máy tính cá nhân, nếu như chưa có sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả. Trên thực tế, nhiều thư viện hiện nay không cho phép người sử dụng được tải các tài liệu số và một số thư viện đã áp dụng các biện pháp kỹ thuật nhằm ngăn cản việc tải trái phép các tài liệu trên kho thư viện số. Vậy còn quyền truy cập tác phẩm thì sao? Bản chất của việc cho phép truy cập là việc khai thác quyền truyền đạt tác phẩm. Và quyền này cũng thuộc độc quyền của chủ sở hữu quyền tác giả. Do đó, về nguyên tắc, thư viện khi tiến hành số hóa tác phẩm và cho phép sử dụng các tác phẩm này phải được sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả. Khi mua một tài khoản (account) để được sử dụng thư viện số, người đọc có mục đích rõ ràng: được phép truy cập vào các nguồn thông tin của thư viện, thậm chí mong muốn được sao chép nguồn thông tin đó. Nhưng nếu thư viện, mặc dù đã mua các tác phẩm một cách hợp pháp, số hóa tác phẩm và cho phép người đọc truy cập tác phẩm mà không có sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả là đã vi phạm đến quyền truyền đạt tác phẩm và điều này ảnh hưởng đến sự khai thác tác phẩm của chủ sở hữu quyền tác giả. Đây là điều công bằng, bởi lẽ, với thư viện điện tử, sự tiện ích mang lại cho người sử dụng rất nhiều, họ không cần đến thư viện mà có thể ở bất cứ nơi nào có nối mạng Internet là có thể truy cập được tài liệu, thao tác đơn giản, nhanh chóng. Tuy nhiên cũng chính điều đó lại ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của chủ sở hữu quyền tác giả, làm họ mất đi một khoản thu lớn đối với việc khai thác tác phẩm của mình. Do đó, tìm được điểm cân bằng giữa lợi ích của chủ sở hữu quyền tác giả và người sử dụng là quan trọng và pháp luật phải đóng vai trò quan trọng khi đưa ra được những biện pháp tích hợp nhằm giải quyết vấn đề này. Nhưng rất tiếc là tại Việt Nam hiện nay, các quy định của pháp luật về bảo hộ quyền tác giả trong hoạt động của thư viện vẫn còn thiếu, còn nhiều điểm chưa rõ ràng, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
Câu hỏi đặt ra là nếu vẫn từ các nguồn sách đó, thư viện số hóa và lưu trữ trên máy chủ một bản sao tác phẩm, cho phép người đọc truy cập chỉ trong mạng nội bộ của thư viện chứ không phải trên mạng Internet, không thu phí truy cập, không cho phép tải sách về thì thư viện có xâm phạm quyền sao chép và quyền truyền đạt tác phẩm tới công chúng không? Nếu hiểu theo các quy định hiện hành của pháp luật, trong trường hợp này thư viện đã có hành vi xâm phạm quyền sao chép và quyền truyền đạt tác phẩm tới công chúng. Nếu thư viện thu tiền khi người sử dụng truy cập nguồn dữ liệu này thì thư viện đã xâm phạm cả quyền phân phối tác phẩm. Tuy nhiên, thư viện có chức năng, nhiệm vụ giữ gìn di sản thư tịch của dân tộc; thu thập, tàng trữ, tổ chức việc khai thác và sử dụng chung vốn tài liệu trong xã hội nhằm truyền bá tri thức, cung cấp thông tin phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu, công tác và giải trí của mọi tầng lớp nhân dân; góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển khoa học, công nghệ, kinh tế, văn hóa, phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thiết nghĩ, pháp luật cần có quy định cụ thể về bảo hộ quyền tác giả trong hoạt động thư viện, giải quyết được sự mâu thuẫn trong việc bảo hộ quyền tác giả trong các thư viện số với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của thư viện.
4. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo hộ quyền tác giả trong hoạt động của thư viện
4.1. Kiến nghị sửa đổi quy định tại Điều 25 Luật SHTT Việt Nam và Điều 25 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP
Một trong những giải pháp căn bản cho việc đảm bảo thực thi quyền tác giả tại thư viện Việt Nam là cần hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về các trường hợp cho phép sử dụng tác phẩm không cần xin phép, không cần trả thù lao được quy định tại Điều 25 Luật SHTT và Điều 25 Nghị định số 100/CP-NĐ-2006.
Nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động sao chép tại thư viện nói riêng cũng như mở rộng khả năng tiếp cận tác phẩm của người sử dụng, phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế, chúng tôi kiến nghị:
Một là, điểm a khoản 1 Điều 25 Luật SHTT cần được sửa đổi theo hướng bỏ quy định về hành vi “tự sao chép”. Cụ thể, Điều 25 khoản 1 điểm a sẽ được sửa đổi như sau:
“Sao chép không quá một bản nhằm mục đích nghiên cứu và giảng dạy”.
Hai là, cần bổ sung thêm quy định tại Điều 25 Luật SHTT và Điều 25 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP về trường hợp sao chép không cần xin phép, không cần trả tiền thù lao nếu “sao chép không quá 10% tác phẩm” mà không phụ thuộc vào mục đích “nghiên cứu khoa học và giảng dạy”.
Cụ thể, Điều 25 sẽ thêm một điều khoản: “Sao chép không quá 10% tác phẩm nhằm mục đích sử dụng cá nhân”.
Tất nhiên, trong tất cả các trường hợp trên vẫn cần đảm bảo nguyên tắc chung là việc sao chép “không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả”.
4.2. Bổ sung các quy định về bảo hộ quyền tác giả trong hoạt động của thư viện
Bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung Điều 25 Luật SHTT, pháp luật Việt Nam cần có những quy định cụ thể điều chỉnh vấn đề quyền tác giả trong hoạt động của thư viện, đảm bảo cân bằng lợi ích giữa chủ sở hữu quyền tác giả, lợi ích của người sử dụng và đảm bảo cho thư viện thực hiện các chức năng của mình. Một trong những vấn đề quan trọng là làm rõ các quyền của thư viện điện tử trong việc sao chép tác phẩm nhằm mục đích lưu trữ, quyền truyền đạt tác phẩm, phân phối tác phẩm, đặc biệt đối với hoạt động của thư viện điện tử. Thiết nghĩ, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của thư viện, pháp luật cần có quy định riêng về vấn đề này.
4.3. Tăng cường các biện pháp bảo vệ quyền tác giả trong hoạt động của thư viện
– Tăng cường công tác kiểm tra về bản quyền nhằm ngăn chặn nguồn thông tin vi phạm bản quyền trong quá trình mua, thuê cơ sở dữ liệu
Nhằm thực hiện nhiệm vụ “tăng cường nguồn lực thông tin” và đảm bảo chức năng “thu thập, lưu trữ và phổ biến, cung cấp tài liệu phục vụ giảng dạy, học tập, nghiên cứu, hỗ trợ khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên thông tin đáp ứng nhu cầu bạn đọc”, các thư viện thường đi theo chiến lược phát triển song song hai loại hình tài liệu – tài liệu in và tài liệu điện tử. Tài liệu in của các thư viện thường được tập hợp chủ yếu từ 3 nguồn: nguồn mua, nguồn lưu chiểu và nguồn tặng/ tài trợ. Tài liệu điện tử thường được tập hợp từ các nguồn: (i) nguồn thông tin điện tử mua hoặc được cho tặng; (ii) thuê các cơ sở dữ liệu; (iii) số hóa các nguồn tài liệu in của thư viện.
– Quy định về quyền khai thác tác phẩm của người học đối với thư viện các trường đại học
Riêng đối với thư viện tại các trường đại học, viện nghiên cứu, hoạt động của các thư viện này có một số điểm đặc thù so với các thư viện khác.
Thứ nhất, về nguồn tài nguyên thư viện của các trường đại học, bên cạnh các tác phẩm như các thư viện thông thường còn có một số lượng lớn các tác phẩm là công trình nghiên cứu khoa học của các giảng viên và của người học; bao gồm nhưng không bị giới hạn bởi các tác phẩm sau: công trình nghiên cứu khoa học, bài báo khoa học, khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, các công trình nghiên cứu công bố trong các hội thảo, hội nghị… Về mặt nguyên tắc, các công trình trên thuộc quyền sở hữu của tác giả, không phải của nhà trường, trừ trường hợp Nhà trường có quy định khác hoặc các bên có thỏa thuận khác.
Tuy nhiên, Điều 7 Quy định về quản lý tài sản trí tuệ đươc ban hành kèm theo Quyết định số 78/2008/QĐ-BGDĐT của Bộ Giáo dục và đào tạo về Quản lý tài sản trí tuệ trong các trường đại học có quy định: “Quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ được xác định tương ứng với tỷ lệ đóng góp nguồn lực để tạo ra tài sản trí tuệ, nếu các bên không có thỏa thuận khác” và “Người học được hưởng một phần hoặc toàn bộ quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản đối với khóa luận (đồ án), luận văn, luận án, công trình nghiên cứu khoa học trên cơ sở được người hướng dẫn khoa học, các cộng sự chấp thuận và được cơ sở giáo dục đại học xác nhận. Việc sử dụng cơ sở vật chất của cơ sở giáo dục đại học để thực hiện khóa luận (đồ án), luận văn, luận án và công trình nghiên cứu khoa học tuân theo quy chế quản lý cơ sở vật chất của cơ sở giáo dục đại học”. Chúng tôi cho rằng quy định này chỉ thực sự phù hợp với các công trình nghiên cứu khoa học của người học, vì đối với các công trình này, có thể giảng viên sẽ phải bỏ ra rất nhiều công sức và trí tuệ, thậm chí là cộng sự cùng người học thực hiện. Tuy nhiên, đối với luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp, người thầy chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn khoa học, không thể là đồng tác giả hay cùng thực hiện đề tài với người học. Do đó quy định này sẽ không phù hợp với các luận án, luận văn và khóa luận tốt nghiệp. Tuy nhiên, quy định này đã dành cho trường đại học quyền tự quyết định trong việc xác định quyền sở hữu cũng như quyền khai thác các tác phẩm trên.
Do đó, ngoài việc lưu trữ một bản tại thư viện, các quyền tài sản khác như quyền sao chép, truyền đạt tác phẩm, phân phối tác phẩm thuộc về tác giả của tác phẩm, thư viện khi thực hiện các quyền trên theo nhu cầu của người đọc, về nguyên tắc phải có sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả.
Thứ hai, đối tượng người đọc là người học và các nhà nghiên cứu, bao gồm giảng viên, do đó nhu cầu tiếp cận nguồn thông tin thư viện chủ yếu nhằm mục đích học tập, nghiên cứu khoa học và giảng dạy. Do đó, các trường đại học nên ban hành quy định cho phép thư viện được quyền khai thác các tác phẩm của người học nhằm mục đích phi thương mại. Điều này sẽ tạo cơ sở cho thư viện trong việc khai thác hợp pháp nguồn thông tin này.
– Soạn thảo các hướng dẫn về quyền tác giả đối với người sử dụng
Quy định này một mặt ngăn chặn hành vi xâm phạm quyền tác giả từ người sử dụng, mặt khác góp phần nâng cao ý thức bảo vệ quyền tác giả cho người sử dụng. Cách thức này đặc biệt hữu ích đối với việc khai thác các cơ sở dữ liệu mà các thư viện thuê của nhà cung cấp nước ngoài, trong đó có quy định rất rõ ràng về số lượng truy cập, về các quyền được phép và không được phép. Do đó, trong trường hợp người sử dụng vi phạm các quy định này, thư viện có thể phải gánh chịu trách nhiệm.
5. Kết luận
Hoạt động của thư viện luôn gắn liền với pháp luật quyền tác giả. Khi thực hiện nhiệm vụ, chức năng của mình, thư viện có nghĩa vụ tuân theo các quy định pháp luật về quyền tác giả. Tuy nhiên, hiện nay, pháp luật Việt Nam điều chỉnh quyền tác giả trong hoạt động của thư viện còn nhiều bất cập. Mặt khác, sự phát triển mạnh mẽ của các thư viện số đã đặt ra nhiều thách thức về mặt pháp lý đối với việc bảo hộ quyền tác giả trong hoạt động của thư viện. Thực tiễn này đòi hỏi pháp luật Việt Nam phải có những sửa đổi, bổ sung nhằm tạo được hành lang pháp lý cho hoạt động của thư viện trong xu thế tôn trọng pháp luật quyền tác giả. Để thực hiện tốt chức năng của mình, bản thân các thư viện luôn phải tìm ra điểm cân bằng giữa quyền của chủ sở hữu quyền tác giả và quyền của người sử dụng, giữa nghĩa vụ phải tôn trọng hành lang pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền tác giả và sứ mệnh quan trọng – phổ biến, chia sẻ tài nguyên thông tin để phục vụ cho công cuộc phát triển của đất nước. Tìm ra được điểm cân bằng này cũng vô cùng cần thiết bởi những lý do sau: (i) việc thực hiện quyền tác giả góp phần giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật về SHTT của người sử dụng. Từ đó, thư viện góp phần làm giảm thiểu tình trạng vi phạm quyền tác giả tại Việt Nam; (ii) thực hiện quyền tác giả là góp phần phát triển một cách bền vững nguồn tài nguyên thông tin của thư viện, từ đó đóng góp lâu dài vào mục tiêu hỗ trợ khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thông tin của bạn đọc; (iii) việc thực hiện quyền tác giả tạo điều kiện kích thích hoạt động sáng tạo, giúp tăng cường công tác nghiên cứu khoa học trong và ngoài trường.
CHÚ THÍCH
* TS Luật học, Giám đốc Trung tâm Sở hữu – Trí tuệ – Phó trưởng Khoa Luật Quốc tế, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
[1] Điều 1 Pháp lệnh Thư viện Số 31/2000/PL-UBTVQH10 ngày 28/12/2000 (Sau đây gọi tắt là Pháp lệnh Thư viện Việt Nam).
[2] Điều 23 Pháp lệnh Thư viện Việt Nam.
[3] Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 ngày 19/11/2005, được sửa đổi bổ sung bởi Luật số 36/2009/QH12 ngày 19/6/2009 (Sau đây gọi tắt là Luật SHTT).
[4] Được quy định trong Điều 9 của Công ước Berne 1886 về tác phẩm văn học, nghệ thuật.
[5] Nghị định số 100/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 85/2011/NĐ-CP và Nghị định số 01/2012/NĐ-CP (sau đây gọi tắt là Nghị định số 100/2006/NĐ-CP).
[6] Điều 23 Pháp lệnh Thư viện số 31/2000/PL-UBTVQH10 ngày 28/12/2000.
[7] Tại Việt Nam, vấn đề này được quy định trong Điều 25, 26 Luật SHTT.
[8] Hà Thân, Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thư viện số, kỷ yếu hội thảo: Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường số được tổ chức tại trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, 5/2013.
[9] Lê Thị Nam Giang, “Những thách thức về mặt pháp lý trong việc bảo hộ quyền tác giả trên môi trường Internet”, kỷ yếu hội thảo Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường số được tổ chức tại trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, 5/2013.
- Tác giả: TS. Lê Thị Nam Giang*
- Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 03 (88)/2015 – 2015, Trang 39-47
- Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời