Mục lục
Các nguyên tắc về kế thừa đối với lãnh thổ trong luật quốc tế – Thực tiễn áp dụng và một số kinh nghiệm cho Việt Nam
TÓM TẮT
Bài viết nghiên cứu các nguyên tắc giải quyết vấn đề kế thừa quốc gia đối với lãnh thổ trong luật quốc tế. Bài viết tập trung phân tích và đánh giá thực tiễn áp dụng vấn đề này thông qua phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế. Trên cơ sở đó, bài viết nghiên cứu các kinh nghiệm có thể áp dụng cho Việt Nam trong việc giải quyết các tranh chấp về lãnh thổ có liên quan đến việc xem xét hiệu lực của các điều ước quốc tế về vấn đề này.
Xem thêm:
- Bàn về các nguyên tắc pháp luật chung trong Luật Quốc tế – TS. Trần Thăng Long
- Quyền tài phán của quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế theo Công ước Luật Biển năm 1982 về lĩnh vực đánh bắt hải sản và bảo vệ môi trường – TS. Trần Thăng Long
- Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài theo Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 – TS. Ngô Hữu Phước
- Những khía cạnh pháp lý liên quan đến sự kiện Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển Việt Nam – ThS. Trần Thị Thu Hà
- Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Haiyang Shiyou 981 tại vùng biển của Việt Nam và những vấn đề pháp luật quốc tế – PGS.TS. Đinh Ngọc Vượng
- Vấn đề xác định đường cơ sở cho các đảo và nhóm đảo theo Công ước Luật Biển 1982 – Phân tích thực tiễn đường cơ sở của Trung Quốc – TS. Hồ Nhân Ái
TỪ KHÓA: Lãnh thổ,
Việc xuất hiện một quốc gia mới đặt ra yêu cầu giải quyết những vấn đề pháp lý liên quan đến quan hệ giữa quốc gia mới ra đời và những quốc gia đang tồn tại. Các quốc gia mới ra đời thường gắn với nhiều sự kiện khác nhau: (i) sự chấm dứt tồn tại của một hoặc nhiều quốc gia trước đó; (ii) một hay nhiều quốc gia mới hình thành trên cơ sở là sự chia tách, hợp nhất, hoặc sáp nhập nhiều quốc gia; (iii) sự hình thành các quốc gia mới do kết quả của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, như trường hợp của Việt Nam và nhiều quốc gia vốn trước đây là thuộc địa. Kế thừa quốc gia đặt ra các vấn đề như việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ liên quan tới các điều ước quốc tế (ĐƯQT), quy chế lãnh thổ, tài sản, quy chế của công dân, tư cách thành viên các tổ chức quốc tế liên chính phủ… Nói cách khác, kế thừa liên quan đến việc giải quyết những vấn đề pháp lý phát sinh từ mối quan hệ giữa thực thể mới và các quốc gia đang tồn tại.
Việc nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (DCCH) tuyên bố độc lập ngày 02/9/1945 đã chính thức chấm dứt mọi ràng buộc về mặt pháp lý với nước Pháp với tư cách là một thuộc địa. Điều này dẫn đến sự giải phóng khỏi các quan hệ điều ước cũng như những nghĩa vụ phát sinh từ các ĐƯQT mà thực dân Pháp đã ký về Việt Nam, trong đó có các ĐƯQT về lãnh thổ và biên giới. Tuy nhiên, có hai vấn đề đặt ra là: (i) trong các giai đoạn tiếp theo, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa, các chính quyền tại miền Nam Việt Nam, và Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kể từ sau năm 1975 vẫn công nhận giá trị pháp lý và áp dụng một số ĐƯQT về lãnh thổ và biên giới mà thực dân Pháp đã ký nhân danh Nhà nước Việt Nam; và (ii) Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận và thực thi các ĐƯQT được ký kết với các nước láng giềng về giải quyết những vấn đề liên quan đến lãnh thổ. Điều này đòi hỏi phải có nghiên cứu và luận giải một cách khoa học trên cơ sở luật quốc tế về vấn đề kế thừa quốc gia đối với lãnh thổ.
Trong phạm vi bài viết, kế thừa quốc gia chỉ giới hạn ở vấn đề kế thừa đối với lãnh thổ, trong đó bao gồm kế thừa đối với các ĐƯQT về lãnh thổ. Vấn đề này cũng được nghiên cứu tập trung trong bối cảnh các quốc gia mới được hình thành do kết quả của quá trình đấu tranh giành độc lập. Trong bối cảnh của Việt Nam, bài viết tập trung phân tích vấn đề kế thừa quốc gia đối với lãnh thổ từ giai đoạn tháng 9/1945 trở đi. Bài viết cũng không tập trung trình bày về quá trình xác lập, duy trì và phát triển lãnh thổ, cũng như đi sâu vào phân tích các luận điểm, yêu sách, bằng chứng có liên quan trong việc giải quyết các vấn đề lãnh thổ, biên giới giữa Việt Nam và các quốc gia láng giềng.
1. Khái niệm kế thừa quốc gia
“Kế thừa quốc gia” được định nghĩa bởi các học giả và giáo trình luật quốc tế theo nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, theo Oppenheim, đây là sự kế thừa của những chủ thể của luật quốc tế xuất hiện khi một hoặc nhiều chủ thể quốc tế thay thế cho một chủ thể quốc tế khác do sự thay đổi điều kiện cụ thể của chủ thể được thay thế này. Theo Brownlie, “kế thừa quốc gia” là sự thay thế của một quốc gia này bằng một quốc gia khác về chủ quyền đối với một lãnh thổ phù hợp với luật quốc tế. Tương tự, theo Shaw, “kế thừa quốc gia” là một thuật ngữ có tính bao trùm phản ánh thực tế là có sự thay đổi chủ quyền đối với một lãnh thổ cụ thể. Khái niệm kế thừa cũng có thể dùng để chỉ một chế định của luật quốc tế điều chỉnh các hậu quả pháp lý của sự thay đổi chủ quyền quốc gia đối với một lãnh thổ. Theo Beato, khái niệm “kế thừa quốc gia” dùng để chỉ tập hợp các quy tắc của luật quốc tế nhằm giải quyết các hậu quả pháp lý của sự thay đổi chủ quyền quốc gia đối với lãnh thổ. Trong đó, kế thừa là sự thay thế giữa hai quốc gia đối với cùng một lãnh thổ do kết quả của sự mất đi của một quốc gia là chủ thể luật quốc tế và sự thay thế quốc gia này bằng một quốc gia mới hoặc do những biến cố xảy ra đối với lãnh thổ đó.[1] Theo Công ước Vienna 1983 về kế thừa quốc gia đối với tài sản quốc gia, tài liệu và các khoản nợ thì “kế thừa quốc gia” là “sự thay thế của một quốc gia bằng một quốc gia khác về trách nhiệm đối với những quan hệ quốc tế đối với lãnh thổ” (Điều 1).
Ở Việt Nam, theo Giáo trình Luật Quốc tế của Đại học Luật Hà Nội thì vấn đề kế thừa quốc gia đặt ra khi có sự thay đổi triệt để về chủ quyền của một quốc gia tại một lãnh thổ nhất định do sự xuất hiện và chấm dứt sự tồn tại của một quốc gia.[2] Trong khi đó, Giáo trình Công pháp quốc tế của Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh không đưa ra định nghĩa kế thừa quốc gia nhưng phân tích các đặc điểm của kế thừa quốc gia. Cụ thể, i. chủ thể của quan hệ kế thừa là các quốc gia liên quan, bao gồm quốc gia để lại kế thừa và quốc gia có quyền kế thừa; ii. đối tượng của quan hệ kế thừa bao gồm các quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế (đối với lãnh thổ quốc gia, ĐƯQT, tài sản quốc gia ở trong và ngoài nước, các khoản nợ, quốc tịch và công dân, quy chế thành viên tại các tổ chức quốc tế…); iii. sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi chấm dứt quan hệ kế thừa là những biến cố chính trị như việc chia, tách, hợp nhất, sáp nhập quốc gia, cuộc giải phóng dân tộc khỏi sự thuộc địa và phụ thuộc; iv. quốc gia để lại kế thừa không nhất thiết phải chấm dứt sự tồn tại; và v. nguồn luật áp dụng cho quan hệ kế thừa chủ yếu là các tập quán quốc tế cũng như các nguyên tắc pháp luật chung liên quan đến kế thừa.[3]
Hiện nay, việc áp dụng những nguyên tắc đó chủ yếu trên cơ sở theo từng vụ việc cụ thể và hai Công ước Vienna năm 1978 và Công ước Vienna năm 1983 có vai trò định hướng thi hành. Do tính phức tạp của vấn đề kế thừa và quan điểm của các quốc gia còn nhiều khác biệt nên hiện chỉ mới có Công ước Vienna năm 1978 về sự kế thừa của quốc gia đối với các ĐƯQT là có hiệu lực. Ngoài ra, các phán quyết và kết luận tư vấn của Tòa án Công lý quốc tế (ICJ) có vai trò làm sáng tỏ những nội dung pháp lý của vấn đề kế thừa quốc gia.
2. Các nguyên tắc về kế thừa lãnh thổ trong luật quốc tế
2.1. Nguyên tắc “di chuyển đường biên giới” (moving frontiers)
Nguyên tắc này nhằm tiếp tục khẳng định sự tôn trọng các cam kết quốc tế theo tinh thần thiện chí, tận tâm. Về nguyên tắc các điều ước sẽ chấm dứt hiệu lực trên phần lãnh thổ được chuyển giao trong khi các ĐƯQT của quốc gia nhận chuyển giao lãnh thổ bắt đầu có hiệu lực. Tuy nhiên, nếu điều ước có sự quy định, nếu việc áp dụng điều ước đối với phần lãnh thổ chuyển giao hoặc khi hoàn cảnh điều kiện mới không thích hợp cho sự thực hiện điều ước thì nguyên tắc này sẽ không được áp dụng.[4]
Theo Công ước Vienna năm 1978, trong trường hợp hợp nhất hoặc sáp nhập, thì về nguyên tắc quốc gia có quyền kế thừa sẽ kế thừa các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các ĐƯQT mà từng quốc gia để lại kế thừa là thành viên. Tuy nhiên ĐƯQT đã có hiệu lực vào thời điểm kế thừa có thể có hiệu lực chỉ đối với bộ phận lãnh thổ tương ứng của quốc gia có quyền kế thừa, trừ khi quốc gia này thông báo về việc chấp nhận hiệu lực của ĐƯQT. Theo Điều 11 “sự kế thừa không làm ảnh hưởng đến các ĐƯQT về biên giới và lãnh thổ, hoặc các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ điều ước liên quan đến quy chế pháp lý của đường biên giới”.
Nguyên tắc này cũng áp dụng trong trường hợp chia tách một phần lãnh thổ để trở thành quốc gia mới, khi một phần lãnh thổ của quốc gia để lại kế thừa trở thành một quốc gia mới, các ĐƯQT tiếp tục có hiệu lực. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc này trên thực tế còn tùy thuộc vào sự đồng ý của các quốc gia liên quan, hoặc điều ước có quy định chỉ áp dụng cho phần lãnh thổ được chuyển giao; điều ước có quy định hoặc nếu việc áp dụng điều ước là trái với mục đích và đối tượng của điều ước hoặc hoàn cảnh điều kiện để thi hành điều ước đã thay đổi về căn bản.[5] Đồng thời, nguyên tắc này cũng áp dụng trong trường hợp chia tách một quốc gia thành nhiều quốc gia riêng rẽ. Theo đó, những ĐƯQT mà quốc gia để lại kế thừa ký kết vẫn tiếp tục có hiệu lực trên lãnh thổ cũ trừ trường hợp những ĐƯQT đó đi ngược lại với mục đích của việc phân tách, tính chất chủ quyền của quốc gia mới hoặc việc phân tách khiến điều kiện để thực hiện những ĐƯQT đã thay đổi.[6]
2.2. Nguyên tắc tabula rasa (clean slate)[7]
Việc một quốc gia mới có quyền không kế thừa các ĐƯQT đã ký trước đó bởi quốc gia kế thừa đã xuất hiện trong thực tiễn quan hệ quốc tế. Cơ sở của việc từ chối này dựa trên lập luận cho rằng sẽ khó để buộc các quốc gia mới được thành lập tiếp tục áp dụng những ĐƯQT trước đó khi mà họ không phải là một bên ký kết.[8] Tuy nhiên, nguyên tắc này lại được áp dụng rộng rãi trong trường hợp kế thừa quốc gia trong trường hợp giải phóng khỏi chế độ thực dân. Theo Ủy ban Pháp luật quốc tế (ILC) thì một quốc gia được coi là độc lập nếu như trước đây nó có quy chế của một thuộc địa, hoặc dưới những hình thức như bảo hộ, quản thác, ủy trị…[9]
Theo nguyên tắc này, một quốc gia mới thành lập do kết quả của quá trình giải phóng thuộc địa, không mặc nhiên kế thừa những quyền hoặc nghĩa vụ điều ước của các quốc gia để lại kế thừa (các quốc gia xâm chiếm thuộc địa). Do việc giành độc lập đã thay đổi đặc điểm pháp lý của lãnh thổ thuộc địa, các quốc gia này được giải phóng khỏi những ràng buộc bởi các ĐƯQT mà quốc gia thuộc địa đã ký trước đây.[10] Trong thực tiễn, Burkina Faso sau khi giành độc lập đã tuyên bố từ bỏ tất cả các ĐƯQT với Pháp đang có hiệu lực.[11] Trong Tuyên ngôn Độc lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có đoạn “… lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam”. Vấn đề này được khẳng định bởi Tòa án trọng tài trong vụ tranh chấp biên giới biển giữa Guinee Bissau và Senegal năm 1989. Theo đó, “một quốc gia sinh ra từ quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc có quyền chấp nhận hay không các ĐƯQT được quốc gia thực dân ký”.[12] Nguyên tắc này cũng đã được nhắc lại trong phán quyết của ICJ trong vụ Áp dụng Công ước về diệt chủng (Bosnia Herzegovina và Nam Tư) năm 1996.[13]
Mặc dù vậy, nguyên tắc này cũng cho phép các quốc gia mới kế thừa một cách có chọn lọc những ĐƯQT mà quốc gia thuộc địa (quốc gia để lại kế thừa) ký kết. Sự chọn lựa này có thể được áp dụng cho các ĐƯQT song phương hoặc đa phương và được thể hiện bằng việc quốc gia tuyên bố chính thức, hoặc ngụ ý bằng hành vi.[14] Việc kế thừa có chọn lọc này có thể được áp dụng ở những giai đoạn đầu sau khi giành được độc lập bằng việc tuyên bố tiếp tục kế thừa một số ĐƯQT nhất định, hoặc chỉ áp dụng đối với những ĐƯQT về những lĩnh vực cụ thể.
2.3. Nguyên tắc uti possidetis
Nguyên tắc này bắt nguồn từ câu “uti possidetis, ita possideatis” trong tiếng Latin có nghĩa là “bởi anh đã sở hữu nó, anh sẽ tiếp tục sở hữu nó”. Đây còn được gọi là nguyên tắc tôn trọng các đường biên giới đã tồn tại. Theo đó, các quốc gia mới giành được độc lập sẽ tôn trọng những đường biên giới đang tồn tại do các nước đế quốc đã vạch ra trước đây. Nguyên tắc này được chia thành hai trường hợp khác nhau là uti possidetis de juris và uti possidetis de facto.[15]
Nguyên tắc uti possidetis từng được áp dụng rộng rãi bởi các nước châu Mỹ Latin trong thời kỳ độc lập khỏi Tây Ban Nha. Theo đó, các đường biên giới hành chính mà thực dân Tây Ban Nha để lại sẽ là biên giới quốc gia của những quốc gia độc lập kế thừa.[16] Nguyên tắc này có sự liên hệ mật thiết nguyên tắc tabula rasa ở nội dung cho phép các quốc gia mới giành độc lập tiếp tục công nhận các đường biên giới hoặc quy chế pháp lý của một vùng lãnh thổ đã được thiết lập trước đó bởi các chính quyền thực dân. Nguyên tắc này có mục đích đảm bảo rằng sự hình thành các quốc gia mới như vậy không làm thay đổi ranh giới hành chính vốn đã được thiết lập trong thời kỳ thuộc địa một cách mặc nhiên trên thực tế (ipso facto). Nghị quyết AHG/Res.16(1) của Tổ chức thống nhất châu Phi (OAU) năm 1964 tuyên bố rằng những đường biên giới tạo ra ở thời kỳ thuộc địa vào thời điểm giành độc lập sẽ tạo nên một thực tế hữu hiệu và tất cả các quốc gia cam kết tôn trọng những đường biên giới đó.
Nguyên tắc này được đề cập trong vụ tranh chấp về đường biên giới giữa Burkina Faso và Mali năm 1986. Theo đó, các bên yêu cầu Tòa giải quyết tranh chấp dựa trên sự tôn trọng của nguyên tắc “bất khả xâm phạm của các đường biên giới được tạo ra trong thời kỳ thuộc địa”. Tòa ICJ đã tuyên bố “… nghĩa vụ tôn trọng các đường biên giới quốc tế đã tồn tại trong trường hợp kế thừa quốc gia xuất phát từ một quy tắc chung của luật quốc tế, thể hiện dưới hình thức của nguyên tắc uti possidetis”. Phán quyết của Tòa dựa trên cơ sở Tuyên bố Thomson-Marchand Declaration (1929-1930) vào thời thuộc địa Pháp. Tòa cho rằng “uti posidetis là một nguyên tắc chung có sự liên hệ logic với vấn đề giành độc lập. Mục đích hiển nhiên của nó nhằm bảo vệ cho sự độc lập và ổn định của những quốc gia mới khỏi bị đe dọa bởi cuộc chiến huynh đệ tương tàn do sự tranh chấp về biên giới, vốn là kết quả của sự từ bỏ của các nước cai trị”.[17] Theo Tòa, nguyên tắc này đảm bảo sự tôn trọng của các đường biên giới vào thời điểm các quốc gia giành được độc lập và bản chất của những đường biên giới như vậy thực chất là sự phân định giữa các khu vực hành chính hoặc các thuộc địa khác nhau thuộc về cùng một chủ thể cai trị. Vì thế, việc áp dụng nguyên tắc uti posidetis sẽ dẫn đến kết quả là chúng sẽ được chuyển thành các đường biên giới quốc tế theo nghĩa đầy đủ của nó. Lập luận này đã được khẳng định lại bởi Tòa ICJ trong vụ Land, Island and Maritime Frontier Dispute (El Salvador và Honduras).[18]
Thực tiễn các tranh chấp về lãnh thổ cho thấy nguyên tắc này thường được viện dẫn nhằm ngăn chặn sự thay đổi về biên giới đất liền hoặc biên giới biển của các nước cựu thuộc địa khi tuyên bố độc lập vốn thường dẫn đến những tranh chấp ngay sau đó, nhất là khi các nước này đòi áp dụng những ranh giới có tính lịch sử, như các quyền lịch sử được thiết lập bởi người dân bản địa trong quá khứ.[19] Trong vụ Ngôi đền Preah Vihear, các bản đồ của Pháp về đường biên giới thể hiện trong hiệp định năm 1904 được sử dụng làm căn cứ để giải quyết tranh chấp. Trong vụ Sipadan và Ligitan (Malaysia và Indonesia) năm 2001, đường biên giới ký giữa Hà Lan và Anh ở Borneo được coi là cơ sở pháp lý cho tuyên bố về chủ quyền của mình; trong vụ Pulau Batu Putith/Pedra Branca (Malaysia và Singapore) năm 2007, đường biên giới do người Anh thiết lập đều được các bên sử dụng nhằm phục vụ cho lập luận của mình.[20]
Nguyên tắc uti possidetis vì thế đã trở thành một quy phạm tập quán chung của luật quốc tế trong vấn đề kế thừa quốc gia và cũng có thể được viện dẫn, áp dụng trong những trường hợp khác ngoài bối cảnh phi thực dân hóa. Ủy ban Trọng tài về Nam Tư cũ cũng đã nhấn mạnh rằng trừ khi có sự thỏa thuận khác, những đường biên giới cũ sẽ trở thành những đường biên giới được bảo vệ bởi luật pháp quốc tế. Trong Ý kiến thứ ba (về vấn đề biên giới) thông qua ngày 11/01/1992, Ủy ban đã cho rằng, đường biên giới giữa Serbia và Croatia, giữa Bosnia và Herzegovina và Serbia, và có thể giữa những quốc gia độc lập láng giềng khác sẽ không bị thay đổi, trừ khi bằng một thỏa thuận ký kết tự nguyện của các bên liên quan.
Mặc dù vậy, việc áp dụng nguyên tắc uti possidetis trên thực tế, đặc biệt trong bối cảnh các quốc gia giành độc lập từ các thuộc địa còn tiếp tục dựa trên cơ sở của tiêu chí “hữu hiệu” và được thể hiện trong nhiều án lệ của Tòa ICJ.[21] Theo các lập luận của Tòa thì các hoạt động thực thi hiệu quả sự cai trị của mình đối với các vùng lãnh thổ liên quan trong thời kỳ thuộc địa của các chính quyền thực dân là một cơ sở quan trọng khẳng định sự tồn tại của các đường biên giới tồn tại vào thời kỳ này. Trong vụ kiện giữa Nicaragua và Honduras, Tòa đã khẳng định lại rằng nguyên tắc uti possidetis sẽ không được áp dụng nếu sự cai trị hiệu quả trong thời kỳ thuộc địa là không đủ (insufficient) để thiết lập quy chế pháp lý của ranh giới hành chính liên quan.
2.4. Nguyên tắc nemo dat quod non habet
Tên đầy đủ của nguyên tắc này theo tiếng Latin là Nemo plus iuris transfere (ad alium) potest quam ipse habet, có nghĩa “không ai có quyền chuyển giao các quyền cho người khác nhiều hơn những gì anh ta đang có”.[22] Đây là một nguyên tắc quan trọng của luật quốc tế về lãnh thổ, trong đó việc chuyển giao lãnh thổ từ một quốc gia này sang một quốc gia khác (phổ biến trong thời kỳ thuộc địa) phải đảm bảo rằng quốc gia có quyền chuyển giao lãnh thổ là quốc gia có quyền sở hữu hợp pháp (thông qua các hình thức chiếm cứ lãnh thổ hữu hiệu). Nguyên tắc này được đề cập đến trong lịch sử cũng như trong các phán quyết của Tòa án quốc tế.[23]
Trong vụ tranh chấp liên quan đến đảo Las Palmas, yêu sách lãnh thổ của Hoa Kỳ dựa trên Hiệp ước năm 1898 với Tây Ban Nha. Theo đó, đảo Palmas là một phần thuộc về lãnh thổ được Tây Ban Nha chuyển giao cho Hoa Kỳ theo Hiệp ước. Trái lại, Hà Lan khẳng định, mặc dù Tây Ban Nha đã tìm thấy hòn đảo này nhưng Hà Lan lại là đã nước thực thi quyền lực nhà nước tại đây một cách lâu dài, ổn định, hòa bình từ thế kỷ XVII. Vì thế hòn đảo này không thể thuộc chủ quyền của Tây Ban Nha và không thể chuyển giao cho Hoa Kỳ theo Hiệp ước năm 1898. Trọng tài Max Huber đã đồng ý với quan điểm của Hà Lan và lập luận “Tây Ban Nha không thể chuyển giao cho Hoa Kỳ hơn các quyền mà bản thân mình có”.[24] Phán quyết này đã đóng góp quan trọng trong việc làm sáng tỏ những nguyên tắc áp dụng trong việc chuyển giao lãnh thổ.
Nguyên tắc này còn được áp dụng trong các vụ tranh chấp về chủ quyền có liên quan đến việc chuyển giao lãnh thổ giữa các quốc gia. Cụ thể, nguyên tắc này góp phần vào lập luận của các bên cũng như cơ quan tài phán phân xử nhằm bác bỏ yêu sách chủ quyền của phía bên kia nhằm chứng minh thỏa thuận chuyển giao lãnh thổ là vô hiệu bởi một bên không có quyền quyết định hợp pháp đối với đối tượng chuyển giao.
2.5. Nguyên tắc estoppel
Thuật ngữ “estoppel” được hiểu đầy đủ trong cụm từ Latin “allegans contraria non audiendus est”, có nghĩa rằng “một chủ thể không nên được hưởng lợi từ thái độ bất nhất của mình”. Estoppel được xem như là một nguyên tắc pháp luật chung quan trọng của luật quốc tế và được Tòa ICJ áp dụng trong nhiều vụ việc mà Tòa này phân xử về tranh chấp về biên giới, lãnh thổ có liên quan đến những tuyên bố của đại diện có thẩm quyền của các bên tranh chấp… Mục đích chính của nó là ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, từ đó gây thiệt hại cho quốc gia khác.
Trong vụ Đông Greenland, Tòa ICJ cũng đã lập luận rằng phía Na Uy đã chấp nhận các ĐƯQT ký với Đan Mạch mà trong đó bao hàm cả đòi hỏi về chủ quyền của Đan Mạch đối với toàn bộ lãnh thổ Đông Greenland. Tòa đã viện dẫn tuyên bố của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Na Uy năm 1919 trong đó thể hiện ý “công nhận toàn bộ Đông Greenland là của Đan Mạch”. Tòa cũng cho rằng tuyên bố này là rõ ràng và phù hợp với các tuyên bố trước đó của Na Uy nên tuyên bố năm 1919 đã hình thành estoppel. Do đó, Tòa đã bác bỏ những lập luận phản đối của Na Uy đối với chủ quyền của Đan Mạch đối với lãnh thổ Đông Greenland. Vụ Ngôi đền Preah Vihear giữa Campuchia và Thái Lan thường được viện dẫn là ví dụ kinh điển cho việc áp dụng nguyên tắc estoppel trong thực tiễn. Tòa đã xác định vào năm 1904 một đường biên giới đã được xác định giữa Cambodia (Pháp bảo hộ) và Siam (Thái Lan) thông qua một hiệp định, trong đó bản đồ biên giới thể hiện ngôi đền nằm về phía lãnh thổ của Cambodia. Phía Thái Lan sau đó đã nhận được bản đồ này mà không có phản đối, thậm chí năm 1930 một Hoàng tử Thái Lan đã đến thăm ngoại giao chính thức cấp nhà nước đến khu vực tranh chấp khi khu vực đó đang do Pháp cai quản. Trên cơ sở đó, Tòa đã tuyên bố: “…trên cơ sở những hành động tiếp diễn sau đó, Thái Lan, bằng hành động của mình, không thể tuyên bố rằng họ đã không chấp nhận đối với nó”. Tòa ICJ đã cho rằng “estoppel có thể được suy diễn từ một thái độ, những lời tuyên bố của một quốc gia, nhằm chấp nhận một tình trạng nào đó; thái độ hoặc lời tuyên bố không những phải được phát biểu một cách rõ rệt và liên tục, mà còn phải khiến cho một hoặc nhiều quốc gia khác dựa vào đó mà thay đổi hoạt động, và do đó phải chịu thiệt hại”.
Như vậy, nguyên tắc estoppel đòi hỏi phải thỏa mãn đồng thời cả 3 thành tố: i. sự biểu đạt của quốc gia liên quan dẫn tới việc suy diễn nguyên tắc estoppel phải rõ ràng và không đa nghĩa, mập mờ; ii. sự biểu đạt này phải được thể hiện một cách tự nguyện, vô điều kiện và phải đúng thẩm quyền, iii. phải có sự tin tưởng thiện chí từ phía một chủ thể khác vào sự biểu đạt của một chủ thể đưa ra sự biểu đạt đó, dẫn đến sự thiệt hại cho bên chủ thể có sự tin tưởng này hoặc dẫn đến sự hưởng lợi từ phía chủ thể có sự biểu đạt.
3. Những kinh nghiệm cho Việt Nam
3.1. Thực trạng các vấn đề về biên giới, lãnh thổ giữa Việt Nam và các nước láng giềng
Với vị trí địa lý cùng với quá trình lịch sử về xác lập và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, Việt Nam có một số vấn đề về biên giới, lãnh thổ với các quốc gia láng giềng. Đối với Trung Quốc, biên giới trên bộ đã được giải quyết bằng Hiệp ước về biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc ký kết ngày 30/12/1999, đường biên giới được xác lập sau đó trên thực địa về cơ bản đã thể hiện đúng đường biên giới được hoạch định trong này.[25] Đối với biên giới trên biển, vấn đề đã được giải quyết bằng Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ ngày 25/12/2000, đây là một kết quả công bằng, phù hợp với hoàn cảnh khách quan của Vịnh Bắc Bộ và có thể chấp nhận.[26] Hiện tại, Việt Nam và Trung Quốc còn tồn tại tranh chấp đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong khi Việt Nam có đầy đủ các bằng chứng pháp lý và lịch sử không thể chối cãi về chủ quyền tại đây. Đối với Lào, vấn đề biên giới trên bộ đã được giải quyết triệt để bằng Hiệp ước về hoạch định biên giới giữa Việt Nam và Lào ký ngày 18/7/1977 và Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới nhằm phân định đường biên giới dài khoảng 2,340 km. Đến tháng 5/2016, quá trình phân giới thực địa về cơ bản đã hoàn tất.
Đối với Campuchia, có ba vấn đề liên quan đặt ra. Một là, vấn đề biên giới trên bộ, hai nước đã ký Hiệp ước hoạch định biên giới ngày 27/12/1985 và sau đó là Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia vào năm 2005. Kể từ năm 1986, sau đó là từ 2006 hai bên đã bắt đầu quá trình phân giới cắm mốc; Hai là, hai nước chưa phân định nội thủy và lãnh hải trong vùng Vịnh Thái Lan và hiện tại hai nước vẫn áp dụng Hiệp định về vùng nước lịch sử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Campuchia ngày 7/7/1982; Ba là, về vấn đề lãnh thổ, mặc dù nguyên tắc xác lập chủ quyền căn cứ vào sự chiếm hữu thực sự đã khẳng định giữa Việt Nam và Campuchia không thể tồn tại tranh chấp về lãnh thổ nhưng hiện nay vẫn có những thế lực cực đoan bên Campuchia cố tình xuyên tạc, tìm cách đặt lại vấn đề đòi hỏi lãnh thổ ở Nam bộ vốn đã được Việt Nam xác lập theo đúng các nguyên tắc của luật quốc tế về kế thừa và chiếm hữu lãnh thổ.
3.2. Khả năng áp dụng các nguyên tắc của luật quốc tế về kế thừa lãnh thổ
Các vấn đề về lãnh thổ và biên giới giữa Việt Nam và các quốc gia láng giềng đã được giải quyết căn cứ vào các nguyên tắc về xác lập chủ quyền và kế thừa lãnh thổ, đặc biệt là uti possidetis de juris.[27] Mặc dù vậy, việc xử lý những vấn đề chưa được giải quyết triệt để hoặc nguy cơ dẫn đến tranh chấp đòi hỏi việc nghiên cứu thấu đáo nhằm vận dụng các nguyên tắc về kế thừa quốc gia.
* Nguyên tắc “di chuyển đường biên giới”
Nguyên tắc này có thể được áp dụng nhằm giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình phân định biên giới hoặc lãnh thổ giữa các bên liên quan. Trên thực tế, giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng đã căn cứ nguyên tắc này để xử lý các khu vực được điều chỉnh do kết quả của đường biên giới đi qua tạo nên sự chuyển giao về quản lý lãnh thổ giữa hai nước. Đối với vấn đề biên giới, lãnh thổ với Campuchia, các hiệp định mà Pháp đã ký với Campuchia liên quan đến việc chuyển giao khu vực lãnh thổ, hoặc điều chỉnh về biên giới cần được tôn trọng.
* Nguyên tắc tabula rasa
Nguyên tắc này có thể được áp dụng để khẳng định sự hợp pháp và tiếp tục hiệu lực của các ĐƯQT về lãnh thổ và biên giới mà chính quyền thực dân đã ký kết tại thời điểm giành độc lập. Chính vì vậy, các hiệp ước mà thực dân Pháp đã ký về Việt Nam đã được nhà nước Việt Nam sử dụng làm luận điểm cho các yêu sách về chủ quyền. Về vấn đề chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa, việc sử dụng Hiệp ước Patenôtre ngày 06/6/1884 là có cơ sở. Theo đó, Pháp cam kết đại diện Việt Nam trong tất cả các mối quan hệ đối ngoại, tiếp nhận và có trách nhiệm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, bao gồm hai quần đảo nói trên. Ngoài ra, Hiệp ước Pháp – Thanh năm 1887 có thể được sử dụng nhằm phản bác lập luận của một số học giả Trung Quốc cho rằng bằng Hiệp định này, Pháp đã trao quyền quản lý hai quần đảo này cho Trung Quốc.[28] Cùng với nguyên tắc uti posidetis, chúng cũng đã được sử dụng làm căn cứ để giải quyết vấn đề phân định biên giới giữa Việt Nam và các nước láng giềng. Đối với Campuchia, đường biên giới tồn tại trước khi các hiệp định chính thức về phân định biên giới giữa hai nước. Đường biên giới này dựa trên cơ sở của những văn kiện pháp lý khác nhau như các thỏa ước Pháp – Cao Miên được ký lần lượt vào năm 1870 và năm 1873; các nghị định của Toàn quyền Đông Dương xác định đường biên giới giữa Trung Kỳ và Campuchia.
* Nguyên tắc uti posidetis de juris
Trên thực tế, nguyên tắc uti posidetis de juris đã được Việt Nam và các nước láng giềng sử dụng. Đối với Campuchia, nguyên tắc này đã được thể hiện trong Hiệp ước nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới và Hiệp định về quy chế biên giới Việt Nam – Campuchia ngày 20/7/1983. Cụ thể, đường biên giới được thể hiện tại các bản đồ của Sở Địa dư Đông Dương trước năm 1954 trên đất liền được nhất trí coi là đường biên giới quốc gia trên bộ giữa hai nước.[29] Tiếp theo, tại khoản 2 Điều 1 Hiệp ước Hoạch định biên giới quốc gia giữa Việt Nam và Campuchia năm 1985, để xác định hướng đi của đường biên giới tại 06 khu vực mà hai bên có quan điểm khác nhau trong quá trình đàm phán từ 1999 – 2000, hai bên nhất trí xem xét và áp dụng một số yếu tố, trong đó có “các yếu tố pháp lý mà chính quyền thực dân đã sử dụng để vạch đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Campuchia”. Về việc xác định biên giới trên biển, hai bên cũng dựa đường Brévié được vạch ra năm 1939 làm đường phân chia đảo trong khu vực này.[30] Tuy nhiên, một đường phân định biển tương lai phải dựa trên của các thỏa thuận giữa chính quyền thực dân Pháp và Campuchia, đặc biệt phải lưu ý đến nội dung của bức thư mà Toàn quyền Đông Dương đã gửi cho Thống đốc Nam Kỳ ngày 31/1/1939, trong đó nhấn mạnh “Đương nhiên là ở đây chỉ đề cập đến vấn đề hành chính và cảnh sát, còn vấn đề quy thuộc lãnh thổ của các đảo này hoàn toàn được bảo lưu”.[31] Cách hiểu và yêu sách như của phía Campuchia về sử dụng đường Brevié là không thích hợp, vì bức thư hoàn toàn không đề cập đến phân định biên giới lãnh thổ hay chủ quyền mà là về phân chia quản lý địa giới hành chính.
* Nguyên tắc nemo dat quod non habet
Nếu như các nguyên tắc ở trên có ý nghĩa quan trọng liên quan đến vấn đề phân định biên giới thì nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng ở vấn đề khác: xác định và tuyên bố chủ quyền lãnh thổ. Nguyên tắc này có thể được sử dụng nhằm phản bác các yêu sách và lập luận về chủ quyền lãnh thổ (nếu có) liên quan đến các lãnh thổ Việt Nam đã xác lập chủ quyền hợp pháp, đồng thời tuyên bố sự vô hiệu của tất cả các ĐƯQT nào được ký kết liên quan đến lãnh thổ của Việt Nam mà không có sự chấp nhận của nhà nước Việt Nam.[32] Nguyên tắc này cũng có thể được sử dụng cho luận điểm rằng sau Hiệp định Geveva, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên thực tế (de facto) do chính quyền Việt Nam Cộng hòa quản lý, chúng không thể là đối tượng đề cập đến trong Công hàm của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958.[33]
* Nguyên tắc estoppel
Tương tự như nguyên tắc trên, nguyên tắc estoppel có giá trị khẳng định những thực tế đã tồn tại trong thực tiễn quan hệ về lãnh thổ cũng như biên giới. Những hành vi chính thức hoặc ngụ ý và đã được các quốc gia tôn trọng, thực thi trong một quá trình lâu dài sẽ góp phần khẳng định chủ quyền đối với lãnh thổ. Tương tự, việc giải quyết bất kỳ vấn đề nào có liên quan đến lãnh thổ, biên giới cần phải dựa trên sự giải thích đúng đắn, hợp lý về nguyên tắc estoppel trong luật quốc tế.
Đối với Trung Quốc, việc bác bỏ quan điểm của Trung Quốc rằng Việt Nam đã thể hiện sự công nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa qua Công hàm của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 cần phải dựa trên những lập luận về sự thỏa mãn các điều kiện về áp dụng estoppel trong thực tiễn xét xử quốc tế, như: nó có giá trị pháp lý ràng buộc như một cam kết quốc tế hay một điều ước hay không? Có ý nghĩa chính trị hay pháp lý? Lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách liên tục và trường kỳ hay không?[34]
Đối với Campuchia, quan điểm và chủ trương của Việt Nam trong việc vạch biên giới phân định nội thủy, lãnh hải với nước này luôn được thể hiện thống nhất, đảm bảo nguyên tắc estoppel. Việt Nam có thể sử dụng những chứng cứ lịch sử để khẳng định các điều kiện của nguyên tắc này đã được thỏa mãn nhằm kết thúc các vấn đề tranh cãi vô căn cứ về chủ quyền lãnh thổ từ phía Campuchia.[35]
Các nguyên tắc về kế thừa lãnh thổ có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến lãnh thổ và biên giới trong luật quốc tế hiện đại. Việc giải thích và áp dụng đúng đắn các nguyên tắc này giúp cho đảm bảo thực thi các nguyên tắc tôn trọng các cam kết quốc gia và giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng phương pháp hòa bình trong quan hệ quốc tế. Điều quan trọng là các nguyên tắc này cần phải được hiểu và áp dụng trong một thể thống nhất và đồng bộ với nhau. Cuối cùng, việc nghiên cứu nguyên tắc, thực tiễn áp dụng cần phải đặt trong mối tương quan với các quy tắc của pháp luật quốc tế về giải thích ĐƯQT.[36] Việc nghiên cứu các nguyên tắc này góp phần giải quyết dứt điểm, trọn vẹn các vấn đề về biên giới và lãnh thổ còn tồn đọng, xây dựng hệ thống các lập luận nhằm phục vụ cho yêu sách chủ quyền, cũng như đấu tranh chống lại các luận điểm sai trái, xuyên tạc về vấn đề chủ quyền lãnh thổ.
CHÚ THÍCH
[1] Oppenheim L, Interrnational Law a Treatise, Lauterpacht edited, 8th ed, 1955; Ian Brownlie, Principles of Public International Law, 6th edition, Oxford University Press, tr. 621; Malcolm N Shaw, International Law, Cambridge, 7th ed, 2003, tr. 864; Oppenheim L, Interrnational Law a Treatise, Lauterpacht edited, 8th ed, 1955; Andrew M. Beato, “Newly Independent and Separating States Succession to Treaties: Considerations on the Hybrid Dependency of the Republics of the Former Soviet Union”, American University International Law Review, Vol. 9 (2), 1994.
[2] Trường ĐH Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Quốc tế, Nxb. Công an Nhân dân, 2012, tr. 73.
[3] Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, Giáo trình Công pháp quốc tế, Quyển 1, Nxb. Hồng Đức, 2013, tr. 202.
[4] Ví dụ khi Mỹ sáp nhập Haiwaii năm 1898, Hiệp định thương mại giữa Mỹ và Bỉ có hiệu lực đối với lãnh thổ Hawaii. Trong trường hợp sáp nhập lãnh thổ Alsace-Lorraine vào Pháp sau Hiệp ước Versailles 1919, các Hiệp ước của Đức không áp dụng trong khi các hiệp định của Pháp bắt đầu áp dụng đối với lãnh thổ này.
[5] Malcolm N Shaw, Tlđd, tr. 878 – 881.
[6] Chẳng hạn, theo Thỏa thuận năm 1991 về việc chấm dứt sự tồn tại của Liên bang Xô viết, các nước cam kết đảm bảo tuân thủ các nghĩa vụ quốc tế của Liên bang Xô viết. Tương tự, Cộng hòa Séc và Slovakia sau khi chia tách vào năm 1993 đều tuyên bố tuân thủ các nghĩa vụ quốc tế của Tiệp Khắc trước đây.
[7] Nghĩa tiếng Anh “scraped slate”, tạm dịch “bắt đầu từ đầu”. Xem Aaron X Fellmeth and Maurice Horwitz, Guide to Latin in International Law, Oxford 2009, tr. 274.
[8] Điều này đã được áp dụng bởi Bỉ khi tách ra khỏi Hà Lan vào năm 1830; Cu Ba giành được độc lập từ Tây Ban Nha vào năm 1898; Panama khi tách khỏi Colombia năm 1903 hay Phần Lan tách khỏi Đế quốc Nga sau chiến tranh thế giới thứ Nhất. Xem M. Shaw, International Law, 2008, p. 974.
[9] Andrew M. Beato, Tlđd, tr. 534.
[10] Điều 16 Công ước Vienna năm 1978 về kế thừa ĐƯQT. Xem thêm: Andrew M. Beato, Tlđd, tr. 535; Richard D. Kearney, “The Twenty-Sixth Session of the International Law Commission”, American Journal of International Law, 69, 1975, tr. 592.
[11] Xem Andrew M. Beato, Tlđd, tr. 539.
[12] Giunea-Bissau v Senegal, Artbitration Award of 31 July 1989.
[13] Application of Convention on Genocide, (Bosnia and Herzegovina v. Yugoslavia), 1996, ICJ Rep. 595, 781.
[14] Theo Điều 17 Công ước Vienna năm 1978, một quốc gia có thể thông báo về việc kế thừa một ĐƯQT đa phương mà quốc gia để lại thừa kế ký kết. Họ không có nghĩa vụ phải kế thừa một điều ước như vậy nếu họ không muốn. Đối với các điều ước song phương, vấn đề kế thừa chỉ có thể đặt ra nếu quốc gia mới và quốc gia ký kết kia đồng ý (Điều 24).
[15] Nếu uti posidetis de juris là nguyên tắc áp dụng để giải quyết vấn đề lãnh thổ, biên giới giữa các bên căn cứ vào những văn kiện pháp lý chính thức thì uti posidetis de facto áp dụng cho trường hợp phân định biên giới nếu giữa các quốc gia đã tồn tại một đường biên giới thực tế (de facto). Xem thêm Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, Tlđd, tr. 267.
[16] M. Shaw, International Law, 2008.
[17] Frontier Dispute (Burkina Faso v, Mali) case, ICJ Reports, 1986, tr. 554.
[18] Burkina Faso v. Mali, ICJ Reports, 1986, tr. 566; 80 ILR, tr. 459; Land, Island and Maritime Frontier Dispute (El Salvador/Honduras), ICJ Reports, 1992, tr. 351, 386–7; 97 ILR, tr. 266, 299–300
[19] Xem Aaron X Fellmeth and Maurice Horwitz, Tlđd, tr. 287.
[20] Xem các vụ Sovereignty over Pulau Ligitan and Pulau Sipadan, Indonesia v. Malaysia, 2002, ICJ Rep 625; Sovereignty over Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks and South Ledge, Malaysia v. Singapore, 2008; Case concerning the Temple of Preah Vihear (Cambodia v Thailand), ICJ 1962.
[21] Frontiers (Burkina Faso/Mali); Land, Island and Maritime Frontier Dispute (El Salvador/Honduras).
[22] Xem Aaron X Fellmeth, Tlđd, tr. 195.
[23] I. Brownlie, Tlđd, tr. 128. Tiêu biểu như các Hiệp ước Bảo hộ giữa Vương quốc Anh với các vị Vua và Thủ lĩnh của vùng Calabar (the 1884 Treaty between Great Britain and the Kings and Chiefs of Old Calabar Case Concerning the Land and Maritime); các hiệp ước giữa Pháp với Morocco, Tunisia and Madagascar vào các năm 1885 và 1895; các hiệp ước giữa Vương quốc Anh, Bahrain và Qatar; Các vụ Las Palmas (Mỹ và Hà Lan); Ý kiến tư vấn của ICJ trong vụ Tây Sahara (Western Sahara); Vụ phân định biển và lãnh thổ giữa Qatar và Bahrain (Maritime Delimitation and Territorial Questions between Qatar and Bahrain) 2001; Vụ Boundary between Cameroon and Nigeria, 2002).
[24] Island of Las Palmas (United States v the Netherland) 2 RIAA, 1928.
[25] Nguyễn Trường Giang, “Hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc”, Tạp chí Cộng sản, 27/2/2009.
[26] Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, Tlđd, tr. 284.
[27] Chẳng hạn, theo thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày 19/10/1993, hai bên đồng ý sử dụng Công ước hoạch định biên giới ký giữa Trung Quốc và Pháp ngày 26/6/1887 và Công ước bổ sung Công ước hoạch định biên giới ngày 20/6/1895 cùng các văn kiện và bản đồ hoạch định và cắm mốc biên giới kèm theo mà đã được Công ước và Công ước bổ sung nói trên xác nhận hoặc quy định, cũng như các mốc quốc giới cắm theo quy định. Theo Điều 1 Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày 30/12/1999 thì “Hai bên ký kết lấy các công ước lịch sử về biên giới hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc làm cơ sở, căn cứ vào các nguyên tắc luật pháp quốc tế được công nhận cũng như các thỏa thuận đạt được trong quá trình đàm phán về vấn đề biên giới Việt – Trung, đã giải quyết một cách công bằng, hợp lý vấn đề biên giới và xác định lại đường biên giới trên đất liền giữa hai nước”.
[28] Trần Thăng Long, “Giải thích điều ước theo công ước Vienna 1969 về luật điều ước quốc tế và thực tiễn áp dụng của các cơ quan tài phán quốc tế – những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 7/2016.
[29] Cụ thể, quy định Điều 1: “Trên đất liền, hai bên coi biên giới hiện tại giữa hai nước được thể hiện trên bản đồ tỷ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương (SGI), thông dụng trước năm 1954 hoặc gần năm 1954 nhất (kèm theo 26 mảnh bản đồ đã được xác nhận), là đường biên giới quốc gia giữa hai nước”.
[30] Xem Hiệp định về vùng nước lịch sử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Công hòa nhân dân Campuchia ngày 07/7/1982.
[31] Nguyễn Minh Ngọc, “Quan hệ Việt Nam – Cambodia và vấn đề phân định biên giới biển tại vịnh Thái Lan”, Chương trình nghiên cứu Biển Đông, tháng 2/2010.
[32] Đây là cơ sở phản bác Trung Quốc đối với vấn đề chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các hành vi xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo này.
[33] Trần Thăng Long, “Giải thích điều ước theo công ước Vienna 1969 về luật điều ước quốc tế và thực tiễn áp dụng của các cơ quan tài phán quốc tế – những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 7/2016.
[34] Trần Thăng Long, Tlđd.
[35] Cụ thể, ngày 4/6/1949, Tổng thống Vincent Aurol ký Bộ luật số 49 – 733 trả lại Nam Kỳ cho chính quyền Bảo Đại. Quốc vương Campuchia Sihanouk sau đó đã thắc mắc về quyết định trên và ngày 8/6/1949 Chính phủ Pháp đã có thư chính thức gửi quốc vương Sihanouk. Trong bức thư đó có đoạn nói rõ: “Về pháp lý và lịch sử không cho phép Chính phủ Pháp trù tính các cuộc đàm phán song phương với Campuchia để sửa lại các đường biên giới của Nam Kỳ” vì “Nam Kỳ đã được An Nam nhượng cho Pháp theo các Hiệp ước năm1862 và 1874…. chính từ triều đình Huế mà Pháp nhận được toàn bộ miền Nam Việt Nam… về pháp lý, Pháp có đủ cơ sở để thỏa thuận với Hoàng đế Bảo Đại việc sửa đổi quy chế chính trị của Nam Kỳ”. Ngoài ra, cũng trong bức thư đó, Chính phủ Pháp còn khẳng định: “thực tế lịch sử ngược lại với luận thuyết cho rằng miền Tây Nam Kỳ vẫn còn phụ thuộc triều đình Khmer lúc Pháp tới” và “Hà Tiên đã được đặt dưới quyền tôn chủ của Hoàng đế An Nam từ năm 1715 và kênh nối Hà Tiên với Châu Đốc được đào theo lệnh của các quan An Nam từ nửa thế kỷ trước khi chúng tôi đến”. Với bức thư này, phía Campuchia sau đó không có ý kiến nào nêu ra về vấn đề này trong một thời gian rất dài. Có thể đưa ra một ví dụ khác, ngày 24/7/2015 trong phiên họp Nội các Campuchia, Thủ tướng Hun Sen tuyên bố: “… Khi các cán bộ có thẩm quyền của Campuchia nhận được chỉ thị của Hoàng thân Norodom Sihanouk năm 1964, họ đã chỉnh sửa bản đồ của Campuchia…. Họ (các quan chức Campuchia) thời điểm đó đã “bỏ rơi” đảo Koh Tral và Kamcuchea Krom cho Việt Nam. Tôi không thể đòi lại được“. Xem bài Trần Công Trục, “Tìm hiểu vấn đề biển đảo giữa Việt Nam và Campuchia”, http://nghiencuuquocte.org/2015/08/16/van-de-bien-dao-viet-nam-campuchia/
[36] Trần Thăng Long, “Một số vấn đề về chứng cứ trong thủ tục giải quyết tranh chấp tại các cơ quan tài phán quốc tế – những kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 2/2016.
- Tác giả: TS. Trần Thăng Long
- Tạp chí Khoa học pháp lý số 01(113)/2018 – 2018, Trang 53-63
- Nguồn: Fanpage Tạp chí Khoa học pháp lý