Thu hồi tài sản tham nhũng theo Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng: Một số vấn đề đặt ra đối với Việt Nam
TÓM TẮT
Thu hồi tài sản tham nhũng cùng với phòng ngừa tham nhũng đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phòng, chống tham nhũng toàn diện của bất kỳ quốc gia nào. Đây cũng là một trong những nội dung chính của Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng (UNCAC). Vì vậy, bài viết sẽ khái quát về các yêu cầu chính của UNCAC về thu hồi tài sản tham nhũng; đánh giá chung về các quy định pháp luật và thực tiễn Việt Nam về thu hồi tài sản tham nhũng; từ đó, đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực thi hiệu quả chế định thu hồi tài sản tham nhũng ở Việt Nam theo yêu cầu của UNCAC.
- Kiến nghị hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam trong việc nội luật hóa quy định của công ước chống tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia về tội phạm hóa hành vi tham nhũng trong lĩnh vực công – ThS. Vũ Thị Thúy
- Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về các tội phạm tham nhũng – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
- Giám sát, phản biện xã hội trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai – ThS. Hoàng Thị Vĩnh Quỳnh
- Về thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai tại cơ quan hành chính – TS. Lưu Quốc Thái
- Nhận diện hành vi tham nhũng trong lĩnh vực đất đai – TS. Lưu Quốc Thái
TỪ KHÓA: Thu hồi tài sản, Tham nhũng, Chống tham nhũng, Tạp chí Khoa học pháp lý
Thu hồi tài sản tham nhũng là một quá trình từ truy tìm, thu giữ, tịch thu, quản lý và hoàn trả tài sản tham nhũng. Quá trình này thường bao gồm năm công đoạn chủ yếu: (i) thu thập thông tin tình báo tài chính, chứng cứ và phát hiện tài sản, (ii) bảo vệ tài sản; (iii) tố tụng tại tòa án có thẩm quyền nhằm: kết tội (nếu có thể), tịch thu, phạt tiền, đòi bồi thường thiệt hại và/hoặc bồi hoàn; (iv) thực thi các phán quyết/quyết định; và (v) trả lại tài sản. Quá trình này diễn ra không chỉ ở trong nước mà còn có thể ở nước ngoài.[1]
Thu hồi tài sản tham nhũng không những khắc phục được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi tham nhũng, trả lại nguồn lực cho đất nước mà còn có ý nghĩa cảnh báo, ngăn chặn những đối tượng có ý định tham nhũng, đánh vào mục đích kinh tế của tội phạm tham nhũng. Vì vậy, việc thu hồi tài sản tham nhũng có ý nghĩa rất lớn, đặc biệt với các nước đang phát triển như Việt Nam. Ở cấp độ quốc gia, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về phòng chống tham nhũng nói chung và thu hồi tài sản tham nhũng nói riêng đã được thể hiện và cụ thể hóa tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có Hiến pháp năm 2013.[2] Ở cấp độ quốc tế, Việt Nam đã ký kết, gia nhập nhiều điều ước quốc tế liên quan đến phòng chống tham nhũng làm cơ sở cho hợp tác thu hồi tài sản tham nhũng trong bối cảnh toàn cầu hóa, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về Chống tham nhũng (UNCAC).[3] UNCAC khẳng định việc thu hồi mọi tài sản, phương tiện, công cụ có được hoặc liên quan đến tội phạm tham nhũng là mục đích cơ bản của Công ước và mỗi quốc gia thành viên có trách nhiệm cung cấp cho quốc gia thành viên khác các biện pháp hợp tác và trợ giúp rộng rãi nhất nhằm thực hiện việc thu hồi tài sản tham nhũng.[4] Trên cơ sở đó, UNCAC có một chương riêng (Chương V) quy định các biện pháp toàn diện nhằm tăng cường hiệu quả của việc thu hồi tài sản tham nhũng. Cần lưu ý rằng chế định thu hồi tài sản tham nhũng là một chủ đề quan trọng của UNCAC và sẽ được đưa vào đánh giá tại Chu trình thứ 2 của Cơ chế đánh giá thực thi UNCAC của các quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam, dự kiến bắt đầu vào năm 2016.
Do đó, mục đích của bài viết này là nhằm: (i) khái quát về các yêu cầu chính của UNCAC về thu hồi tài sản tham nhũng; (ii) đánh giá chung về các quy định pháp luật và thực tiễn Việt Nam về thu hồi tài sản tham nhũng; và (iii) đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực thi hiệu quả chế định thu hồi tài sản tham nhũng theo yêu cầu của UNCAC.
1. Yêu cầu của UNCAC về thu hồi tài sản tham nhũng
Chế định thu hồi tài sản tham nhũng được quy định tại Chương V của UNCAC từ Điều 51 đến Điều 59[5]. Tuy nhiên, việc thực hiện thu hồi tài sản theo Chương V này gắn kết chặt chẽ với các quy định có liên quan tại các chương khác của Công ước, đặc biệt là những quy định về các tội phạm tham nhũng hay liên quan đến tham nhũng tại Chương III (Hình sự hóa và thực thi pháp luật) và các biện pháp hợp tác quốc tế trong chống tham nhũng tại Chương IV (Hợp tác quốc tế).
Thu hồi lại tài sản tham nhũng là một quá trình phức tạp và lâu dài. Do đó, UNCAC tập trung vào 3 nội dung chính: (i) phòng ngừa và phát hiện việc chuyển tài sản có được do tham nhũng (Điều 52); (ii) thu hồi tài sản tham nhũng trực tiếp (Điều 53); và (iii) thu hồi tài sản tham nhũng gián tiếp thông qua hợp tác quốc tế (các Điều 54 và 55). Bên cạnh đó, một loạt các hình thức hợp tác quốc tế được quy định để hỗ trợ cho việc thu hồi lại tài sản được quy định cụ thể tại Chương IV về hợp tác quốc tế (Điều 43 đến Điều 50) liên quan đến tương trợ tư pháp; dẫn độ, chuyển giao vụ án hình sự; điều tra chung, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù…
Thứ nhất, về phòng ngừa và phát hiện việc chuyển tài sản có được do tham nhũng, Điều 52 UNCAC đặt ra nhiều vấn đề mà các nước thành viên cần có cơ chế để đảm bảo thực thi, bao gồm: (i) yêu cầu xác minh danh tính khách hàng; (ii) xác định chủ sở hữu hưởng lợi từ các tài khoản có giá trị cao; (iii) tăng cường giám sát đối với các tài khoản được nắm giữ bởi những đối tượng có liên quan đến thực hiện các chức năng công; (iv) yêu cầu về giám sát tăng cường đối với cả tổ chức tài chính trong nước; (v) yêu cầu về lưu giữ hồ sơ; (vi) ngăn chặn việc thành lập và thiết lập mối quan hệ trao đổi thông tin với các ngân hàng vỏ bọc; và (viii) hệ thống công khai tài chính đối với các công chức.
Thứ hai, về thu hồi tài sản tham nhũng trực tiếp, Điều 53 UNCAC quy định 3 phương thức thu hồi trực tiếp: (i) quốc gia thành viên khác khởi kiện vụ án dân sự tại tòa án của nước sở tại để xác định quyền hay quyền sở hữu đối với tài sản có được qua việc thực hiện tội phạm tham nhũng; (ii) tòa án của nước sở tại yêu cầu người thực hiện tội phạm được quy định trong UNCAC phải bồi thường, đền bù cho quốc gia thành viên khác đã chịu thiệt hại từ tội phạm đó; và (iii) tòa án hay các cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại, khi ra quyết định tịch thu tài sản, công nhận yêu cầu của quốc gia thành viên về quyền sở hữu hợp pháp của quốc gia đó đối với tài sản có được do phạm tội theo quy định của Công ước.
Thứ ba, về thu hồi tài sản tham nhũng gián tiếp, các Điều 54 và 55 UNCAC quy định 4 phương thức thu hồi gián tiếp, gồm: (i) cơ quan có thẩm quyền công nhận hiệu lực thi hành đối với lệnh tịch thu do tòa án của quốc gia thành viên khác đưa ra; (ii) cơ quan có thẩm quyền ra lệnh tịch thu tài sản có nguồn gốc nước ngoài theo phán quyết đối với tội rửa tiền hoặc các tội phạm khác thuộc thẩm quyền xét xử của cơ quan này; (iii) cơ quan có thẩm quyền phong tỏa hoặc tạm giữ tài sản dựa trên một lệnh phong tỏa hoặc tạm giữ được ban hành bởi cơ quan có thẩm quyền của quốc gia thành viên; và (iv) cơ quan có thẩm quyền phong tỏa hoặc tạm giữ tài sản khi có yêu cầu.
2. Tổng quan pháp luật Việt Nam về thu hồi tài sản tham nhũng
Pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng ở Việt Nam hiện nay cần được xem xét dưới hai góc độ: pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng.
Về pháp luật nội dung, Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định các hành vi là tội phạm tham nhũng để từ đó áp dụng những biện pháp thu hồi tài sản phù hợp, bao gồm các hình phạt bổ sung và các biện pháp tư pháp áp dụng với tội phạm tham nhũng. Cụ thể: phạt tiền (hình phạt bổ sung đối với tội phạm tham nhũng), tịch thu tài sản (hình phạt bổ sung áp dụng với 2/7 tội phạm tham nhũng là tội tham ô tài sản và tội nhận hối lộ, áp dụng với tội phạm phái sinh là tội rửa tiền); các biện pháp tư pháp – biện pháp cưỡng chế không phải hình phạt – như: tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm để sung quỹ nhà nước (nhưng đối với vật, tiền bị chiếm đoạt sử dụng trái phép thì trả lại cho chủ sở hữu), biện pháp trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại[6]. Bộ luật Dân sự năm 2005 xác định quyền của chủ sở hữu trong việc đòi lại tài sản bị chiếm đoạt bất hợp pháp, đòi bồi thường thiệt hại, tạo điều kiện để hoàn trả tài sản tham nhũng về đúng chủ sở hữu,[7] và đặc biệt có một Chương riêng về nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.[8]
Về trình tự thủ tục, thẩm quyền và các bước cụ thể giải quyết các yêu cầu về thu hồi tài sản tham nhũng, kể cả các biện pháp bảo đảm thu hồi tài sản như tạm giữ đồ vật, tài liệu khi khám xét, kê biên tài sản trong tố tụng hình sự [9] hoặc các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự [10], cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền (cả trong nước và với nước ngoài) được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), Luật Tương trợ tư pháp năm 2007.
Ngoài ra, hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành còn có các Luật liên quan, như: Luật Phòng chống rửa tiền năm 2012, Luật Phòng chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2007 và 2012), Luật Thanh tra năm 2010, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010… Các Luật này vừa có những quy định về nội dung, vừa có những quy định liên quan đến thủ tục góp phần bước đầu thiết lập các giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả cho quá trình thu hồi tài sản trong tổng thể các giải pháp phòng ngừa, phát hiện thu thập thông tin, theo dõi xử lý các đối tượng tham nhũng. Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Luật Viên chức năm 2010 quy định về nghĩa vụ minh bạch tài sản và phòng, chống tham nhũng với nhóm đối tượng dễ phát sinh hành vi tham nhũng.
Tuy nhiên, hệ thống pháp luật hiện hành nhìn chung còn mang tính nguyên tắc, thiếu các quy định chi tiết về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tịch thu tài sản tham nhũng. Việc thu hồi tài sản tham nhũng chủ yếu thông qua kết án hình sự trong khi chưa có quy định rõ ràng về việc thu hồi tài sản không qua kết án hình sự. Việc thu hồi tài sản theo thủ tục hành chính đã có quy định trong Luật Thanh tra[11] năm 2010 nhưng vẫn chưa có quy định cụ thể về trình tự thủ tục thu hồi, các hậu quả pháp lý phát sinh và quan hệ hợp tác với các cơ quan liên quan trong quá trình tố tụng. Các quy định về thu hồi tài sản tham nhũng thông qua tố tụng dân sự chỉ mới là các quy định chung về bảo vệ quyền sở hữu và bồi thường thiệt hại, tức chỉ là các nguyên tắc chung của pháp luật dân sự và tố tụng dân sự. Trong khi đó, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 chưa có quy định cụ thể về chuyển giao, thu hồi tài sản do phạm tội mà có hay chủ động chia sẻ thông tin với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài liên quan đến thu hồi tài sản tham nhũng. Pháp luật cũng chưa quy định cụ thể về cơ quan chuyên trách quản lý tài sản sau khi kê biên, thu giữ. Pháp luật tố tụng cũng chưa có quy định về công nhận bản án hình sự của tòa án nước ngoài, công nhận bản án quyết định thu hồi tài sản không qua kết án của tòa án nước ngoài, thực thi các lệnh kê biên của tòa án nước ngoài.
Về cơ quan đầu mối và các cơ quan có liên quan đến thu hồi tài sản tham nhũng, theo Quyết định 445/QĐ-TTg ngày 07/4/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về Chống tham nhũng và Quyết định số 31/2012/QĐ-TTg ngày 26/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế phối hợp thực hiện Công ước này, cơ quan đầu mối về thu hồi tài sản tham nhũng là Bộ Tư pháp; các cơ quan liên quan trực tiếp gồm: Bộ Công an (cơ quan điều tra, đầu mối về dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù), Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (cơ quan truy tố, đầu mối thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự), Tòa án nhân dân tối cao (cơ quan quản lý hệ thống tòa án xét xử các vụ việc dân sự, hình sự), Ngân hàng nhà nước (cơ quan quản lý hệ thống các tổ chức tín dụng, cơ quan tình báo tài chính), Thanh tra Chính phủ (có chức năng thanh tra, phát hiện vi phạm pháp luật, đồng thời là cơ quan đầu mối quốc gia về phòng chống tham nhũng). Bên cạnh đó, việc thực hiện công tác thu hồi tài sản tham nhũng có thể liên quan đến các Bộ, ngành khác trực tiếp quản lý các cán bộ công chức hoặc tham gia vào quá trình cung cấp thông tin[12].
Như đã trình bày, UNCAC có một chương riêng quy định về thu hồi tài sản (Chương V). Tuy nhiên, khi gia nhập UNCAC, Việt Nam đã đưa ra tuyên bố không áp dụng trực tiếp các quy định của Công ước này. Ngoài ra, hiện nay 42 điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp dân sự, hình sự, dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù và 18 điều ước quốc tế đa phương về phòng chống tội phạm mà Việt Nam là thành viên cũng có những quy định mang tính nguyên tắc liên quan đến quá trình thu hồi, chuyển giao vật, tiền, thu hồi tài sản do phạm tội mà có.[13] Bên cạnh đó, trong quá trình đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) giữa Việt Nam và 11 nước khác, các tiêu chuẩn, yêu cầu của UNCAC cũng được xem xét để đàm phán trong Chương Minh bạch hóa và Chống tham nhũng của Hiệp định này. Gần đây nhất, Tuyên bố của các nhà lãnh đạo APEC vào tháng 11/2014 cũng tái khẳng định cam kết của các thành viên APEC, trong đó có Việt Nam, về chống tham nhũng và thu hồi tài sản tham nhũng.[14] Theo đó, các biện pháp thu hồi tài sản cần phải được chú trọng và được tiếp cận, quy định trong pháp luật quốc gia theo hướng mềm dẻo hơn, phù hợp với quy định của các điều ước quốc tế, các khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF) và các sáng kiến về chống tham nhũng trong khuôn khổ APEC.
Như vậy, để thực thi các cam kết quốc tế của Việt Nam về thu hồi tài sản tham nhũng, việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia liên quan theo các chuẩn mực quốc tế phù hợp với bối cảnh Việt Nam, cụ thể là yêu cầu của UNCAC, các điều ước quốc tế có liên quan, các khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF)… có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
3. Thực trạng thu hồi tài sản tham nhũng ở Việt Nam
Theo số liệu của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, từ ngày 01/10/2010 đến ngày 30/4/2013, tổng giá trị tài sản tham nhũng và thiệt hại do tham nhũng gây ra được phát hiện và xác định khoảng trên 17.000 tỷ đồng; tổng giá trị tài sản thu hồi được khoảng gần 5.000 tỷ đồng (chiếm khoảng 29,4 %).[15] Theo Báo cáo về công tác phòng, chống tham nhũng năm 2014 của Chính phủ, qua thanh tra, các cơ quan có thẩm quyền đã phát hiện 54 vụ tham nhũng với số tiền 68,5 tỷ đồng, thu hồi 46,9 tỷ đồng (đạt 68,5 %, tăng 18,3 % so với năm 2013); lực lượng cảnh sát điều tra các cấp đã thụ lý 415 vụ án về tham nhũng với số tiền thiệt hại trên 6740 tỷ đồng, đã thu hồi nộp ngân sách nhà nước trên 1500 tỷ đồng (đạt 22,3 % tăng 14,1 % so với năm 2013).[16]
Cơ quan tình báo về tài chính của Việt Nam (Cục Phòng chống rửa tiền, Ngân hàng nhà nước) cũng khẳng định những thông tin về giao dịch đáng ngờ và những thông tin về tình báo tài chính khác đã được cơ quan này gửi đến những cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có một vụ việc nào về rửa tiền hay tham nhũng được xử lý dựa trên cơ sở những thông tin này. Cũng chưa có thông tin về các vụ việc Việt Nam chủ động cung cấp thông tin tình báo tài chính cho các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài và ngược lại.
Như vậy, thực tiễn cho thấy công tác thu hồi tài sản tham nhũng thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực, tăng về số lượng tài sản thu hồi được. Tuy nhiên, nhiều vụ việc không thể thu hồi tài sản do không phát hiện, truy tìm được tài sản đã được các đối tượng phạm tội chuyển hóa tinh vi dưới nhiều cách thức khác nhau,[17] trong đó có việc chuyển ra nước ngoài. Quá trình phát hiện, điều tra, xử lý một vụ việc tham nhũng ở Việt Nam diễn ra tương đối dài, bị cắt khúc qua nhiều cơ quan xử lý khác nhau trong khi đó các cơ quan có thẩm quyền thường chưa kịp thời áp dụng các biện pháp nghiệp vụ (kê biên tài sản người phạm tội), dẫn đến tình trạng người phạm tội tẩu tán hết tài sản. Quá trình xét xử thường chú trọng nhiều phần trách nhiệm hình sự của bị cáo mà chưa quan tâm đúng mức đến phần trách nhiệm dân sự và việc xử lý tang, tài vật. Đối tượng phải thi hành án trong các vụ án tham nhũng chủ yếu phải chấp hành hình phạt tù, trong khi phần trách nhiệm dân sự có thể có giá trị lớn nhưng không có tài sản, không có điều kiện thi hành.
Cũng cần lưu ý rằng hiện tại vẫn chưa có số liệu thống kê chính thức về các vụ việc yêu cầu thu hồi tài sản tham nhũng có yếu tố nước ngoài nói chung và theo UNCAC nói riêng cũng như chưa có số liệu thống kê cụ thể về tài sản tham nhũng của nước ngoài được tẩu tán tại Việt Nam.
4. Đánh giá sơ bộ
Hiện nay còn tồn tại nhiều khó khăn, thách thức trong công tác thu hồi tài sản tham nhũng ở Việt Nam nói chung và theo yêu cầu của UNCAC nói riêng. Cụ thể:
Thứ nhất, về mặt thể chế, như đã trình bày ở trên, các quy định pháp luật chủ yếu mới ở dạng nguyên tắc, còn nhiều khoảng trống nên chưa thể áp dụng hiệu quả, khó có thể đáp ứng các yêu cầu của UNCAC trên thực tế.
Thứ hai, về phát hiện, chứng minh, truy tìm, thu giữ, quản lý tài sản do phạm tội tham nhũng mà có, đây là công việc khó khăn nhất, xuất phát từ văn hóa sử dụng tiền mặt, vai trò của hệ thống ngân hàng trong kiểm tra dòng tiền chưa thực sự tốt, mức độ minh bạch tài sản chưa cao và tình trạng chưa phát triển của hệ thống đăng ký tài sản. Chính sách pháp luật trong những năm qua cũng chưa thực sự đảm bảo sự ổn định cần thiết dẫn đến nhiều tài sản có thể không chứng minh được nguồn gốc. Việc áp dụng các biện pháp đảm bảo thu hồi tài sản trong tố tụng hình sự chưa được cơ quan điều tra thực hiện kịp thời dẫn đến tình trạng người phạm tội tẩu tán tài sản. Hiện nay, chưa có cơ quan chuyên trách thực hiện nhiệm vụ quản lý tài sản tham nhũng thu giữ được, trong khi tài sản kê biên thường được giao cho chủ tài sản hoặc người thân thích bảo quản.[18]
Thứ ba, về xử lý tội phạm tham nhũng, thực tế cho thấy một số vụ việc không thể xử lý là tội phạm tham nhũng mà chỉ có thể xử lý tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng hoặc tội phạm khác. Do đó việc thu hồi tài sản tham nhũng không thể thực hiện được. Các cơ quan tiến hành tố tụng cũng chủ yếu quan tâm xử lý tội phạm gốc là tội phạm tham nhũng mà chưa quan tâm nhiều đến tội phạm phái sinh như rửa tiền; hay tập trung trừng phạt trực tiếp người bị kết án mà chưa lưu ý nhiều vào việc đánh vào lợi ích kinh tế của người phạm tội tham nhũng (và những người liên quan).
Thứ tư, hoạt độnghợp tác giữa các cơ quan có thẩm quyền để thu hồi tài sản tham nhũng, khác với Bộ Tư pháp nhiều nước thực hiện quản lý nhà nước về cơ cấu tổ chức và hậu cần cho Tòa án, quản lý trại giam, nhà tù, công tố và có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của hệ thống cảnh sát, Bộ Tư pháp Việt Nam chỉ chủ yếu thực hiện nhiệm vụ xây dựng thể chế, bổ trợ tư pháp và đầu mối trong tương trợ tư pháp về dân sự. Việc phối kết hợp giữa các cơ quan liên quan trong thu hồi tài sản tham nhũng chưa được phát huy tốt. Do đó, để thực hiện nhiệm vụ đầu mối về thu hồi tài sản tham nhũng, thực tiễn đòi hỏi cần phải có một cơ chế đột phá và tinh thần chủ động phối kết hợp từ các cơ quan liên quan.
Những khó khăn nêu trên xuất phát từ các nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, về mặt nhận thức, cách tiếp cận toàn diện với vấn đề thu hồi tài sản tham nhũng nói riêng và thu hồi tài sản do phạm tội mà có nói chung, nhất là trong bối cảnh tội phạm ngày càng tinh vi, diễn ra ở quy mô xuyên quốc gia chưa được nhận thức đầy đủ và phổ biến rộng rãi. Vì vậy, việc thu hồi tài sản thường chỉ được coi như phần “đi kèm” để giải quyết hậu quả, là khâu cuối cùng của quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm, kết án người phạm tội. Nhiều cơ quan có thẩm quyền, nhiều cán bộ trực tiếp thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng chưa nhận thức rõ được quá trình thu hồi tài sản tham nhũng phải diễn ra song song, thậm chí tiến hành trước để lần ra dấu vết tội phạm, ngăn chặn và giải quyết triệt để hậu quả của tội phạm tham nhũng nói riêng và tội phạm kinh tế nói chung. Các quy định về thu hồi tài sản tham nhũng theo phương thức không kết án hình sự hay thông qua khởi kiện dân sự chưa được quan tâm nghiên cứu để bổ sung vào hệ thống pháp luật. Nghĩa vụ chứng minh của những người sở hữu tài sản bất minh cũng chưa được đề cao. Việc quản lý khối tài sản thu giữ được cũng chưa được quan tâm đầy đủ dẫn đến sự hao mòn, thất thoát ngay cả khi tài sản đã được tìm thấy.
Có thể thấy, quá trình thay đổi nhận thức và cách tiếp cận toàn diện về thu hồi tài sản tham nhũng theo xu hướng chung của thế giới cần phải có thời gian và đòi hỏi phải có quyết tâm cao.
Thứ hai, pháp luật chưa kịp thay đổi, hoàn thiện để đáp ứng các yêu cầu mới. Tội phạm tham nhũng là loại tội phạm mà người phạm tội là những người có học thức, có hiểu biết về những kẽ hở của hệ thống pháp luật, thậm chí có thể can thiệp để cố tình tạo nên những kẽ hở đó. Sự tản mạn, trùng lặp và chưa đầy đủ của hệ thống pháp luật đang gây vướng mắc cho việc thu hồi tài sản tham nhũng.
Thứ ba, về tổ chức thực hiện, con người, cơ sở vật chất đều chưa đáp ứng yêu cầu của công tác thu hồi tài sản tham nhũng. Thu hồi tài sản tham nhũng là khâu phức tạp nhất của quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm tham nhũng nhưng Việt Nam chưa đào tạo được những chuyên gia có kiến thức chuyên môn sâu về tình báo tài chính, giám định tài chính, điều tra đối với tội phạm tham nhũng. Bộ Tư pháp được giao là cơ quan đầu mối về thu hồi tài sản tham nhũng để thực hiện UNCAC nhưng hiện nay cũng chưa xây dựng được đội ngũ chuyên gia sâu của mình để giải quyết vấn đề này.
Thứ tư, vấn đề hợp tác quốc tế liên quan đến thu hồi tài sản tham nhũng chưa được phát huy.
5. Một số giải pháp
Từ những phân tích trên, nhiều giải pháp đã được đề xuất, bao gồm các nhóm giải pháp chính sau đây:
Thứ nhất, cần thay đổi và nâng cao nhận thức về vai trò và sự cần thiết của công tác thu hồi tài sản tham nhũng. Phải tổ chức hiệu quả việc nghiên cứu, phổ biến, giáo dục, đào tạo, nâng cao năng lực về công tác thu hồi tài sản tham nhũng không chỉ cho các cán bộ trực tiếp thực hiện công tác này và những chủ thể liên quan (những chủ thể tham gia vào quá trình cung cấp thông tin như ngân hàng, luật sư, công chứng, cơ quan đăng ký tài sản…) mà toàn thể xã hội để thay đổi cách tư duy và tiếp cận đối với công tác thu hồi tài sản tham nhũng nói riêng và đấu tranh phòng, chóng tham nhũng nói chung. Các cấp, các ngành cần đồng thuận và ưu tiên cho yêu cầu cần sớm hoàn thiện cơ sở pháp lý trong nước tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện thu hồi tài sản tham nhũng. Cần phải nhận thức được rằng công tác thu hồi tài sản tham nhũng không chỉ được thực hiện thông qua kết án hình sự mà cần phải thông qua các kênh khác, như kênh không kết án hình sự, kênh dân sự và kênh hành chính vì vấn đề quan trọng nhất là phải đánh vào và làm triệt tiêu động cơ, lợi ích kinh tế của người phạm tội tham nhũng và những người liên quan.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật, thiết chế về thu hồi tài sản tham nhũng; cần bổ sung các quy định pháp luật cụ thể về trình tự, thủ tục, cách thức hợp tác giữa các cơ quan trong nước với nhau và với các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, nhất là về thu hồi tài sản không qua kết án; chỉ định cơ quan đầu mối quản lý tài sản được thu giữ, tịch thu; đồng thời cần hoàn thiện pháp luật về sở hữu nhằm ngăn chặn hiệu quả việc hợp pháp hóa quyền sở hữu đối với tài sản tham nhũng qua các giao dịch dân sự.[19] Thực hiện giải pháp này có thuận lợi rất lớn do các bộ luật quan trọng có liên quan như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự đều đang được sửa đổi bổ sung toàn diện trong giai đoạn 2014-2016 nhằm tổ chức thi hành Hiến pháp năm 2013. Các luật có liên quan như Luật Đăng ký tài sản, Luật Tương trợ tư pháp (đã được tổng kết 6 năm thi hành) cũng được đề nghị xây dựng hoặc sửa đổi bổ sung trong giai đoạn 2016-2020.
Thứ ba, về tổ chức thực hiện, cần tăng cường nhân lực, vật lực cho công tác phòng chống tham nhũng nói chung và thu hồi tài sản tham nhũng nói riêng, xây dựng cơ chế phối hợp hiệu quả và thực chất hơn.
Tóm lại, tội phạm tham nhũng mang lại cho người phạm tội lợi ích vật chất rất lớn trong khi gây thiệt hại nghiêm trọng cho lợi ích quốc gia và xã hội Thực tế cũng cho thấy tội phạm tham nhũng thường chuyển tài sản từ những nước đang phát triển sang các quốc gia phát triển dưới nhiều hình thức. Vì vậy, đối với những quốc gia đang phát triển như Việt Nam, việc chú trọng thu hồi tài sản tham nhũng có ý nghĩa đặc biệt trong khắc phục hậu quả và ngăn ngừa loại hình tội phạm này. Trong thời gian qua, mặc dù Việt Nam đã có nhiều nỗ lực cải thiện cả hệ thống pháp luật và việc thực thi pháp luật cũng như ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế có liên quan, trong đó có UNCAC, kết quả thu được còn nhiều hạn chế. Để đảm bảo công tác phòng, chống tham nhũng nói chung và thu hồi tài sản tham nhũng nói riêng khả thi và hiệu quả hơn, theo kịp tiêu chuẩn quốc tế, ngoài việc tiếp tục nỗ lực và quyết tâm nhiều hơn nữa theo các giải pháp tổng thể nêu trên, Việt Nam rất cần sự giúp đỡ, đồng hành và chia sẻ kinh nghiệm cộng đồng quốc tế, nhất là khi Việt Nam đang chuẩn bị đánh giá việc thu hồi tài sản tham nhũng trong Chu trình thứ 2 của Cơ chế đánh giá thực thi UNCAC.
CHÚ THÍCH
* TS Luật học, Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp.
** ThS, Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp.
*** Cử nhân luật học,Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp.
[1] Bài viết này được phát triển dựa trên bài trình bày của tác giả Nguyễn Thanh Tú tại Đối thoại về Phòng chống tham nhũng lần thứ 13 do Thanh tra Chính phủ và Bộ Tư pháp phối hợp với Đại sứ quán Vương quốc Anh tại Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, ngày 27/11/2014.J. Brun et al., Asset Recovery Handbook: A Guide for Practitioners, Stolen Asset Recovery Initiative (WB, UNODC), 2011, p. 6.
[2] Khoản 2 Điều 8 Hiến pháp năm 2013 khẳng định quyết tâm “kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng”.
[3] UNCAC chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 18/9/2009.
[4] Điều 51 UNCAC.
[5] Điều 51: Những quy định chung; Điều 52: Phòng ngừa và phát hiện việc chuyển tài sản do tham nhũng mà có; Điều 53: Các biện pháp thu hồi tài sản tham nhũng trực tiếp; Điều 54: Các cơ chế thu hồi tài sản tham nhũng thông qua hợp tác quốc tế trong việc tịch thu; Điều 55: Hợp tác quốc tế vì mục đích tịch thu tài sản tham nhũng; Điều 56: Hợp tác đặc biệt; Điều 57: Trả lại và định đoạt tài sản; Điều 58: Đơn vị tình báo tài chính; Điều 59: Thỏa thuận và dàn xếp song phương và đa phương về thu hồi tài sản tham nhũng.
[6] Các Điều 30, 40, 41 và 42 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
[7] Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về bảo vệ quyền sở hữu, quyền đòi lại tài sản (Điều 256), quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại (Điều 260), bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Phần thứ ba – Chương XXI).
[8] Các Điều từ 599 đến 603 Bộ luật Dân sự năm 2005.
[9] Các Điều 145 và 146 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
[10] Chương VIII Phần thứ nhất Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011).
[11] Các Điều 48 và 55 Luật Thanh tra năm 2010.
[12] Ví dụ: Bộ Giao thông vận tải có thể cung cấp thông tin về các tài sản là phương tiện vận chuyển có giá trị lớn phải đăng ký như tàu bay, tàu biển.
[13] Báo cáo hoạt động tương trợ tư pháp năm 2014 (số 413 /BC-CP) ngày 17/10/2014 của Chính phủ.
[14] 2014 APEC Leaders’ Declaration “Beijing Agenda for an Integrated, Innovative and Interconnected Asia-Pacific”, 11/2014.
[15] Tham luận “Một số vấn đề về thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án tham nhũng” tại Hội thảo trước Đối thoại Phòng, chống tham nhũng lần thứ 13 được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 28/10/2014.
[16] Báo cáo về Công tác phòng, chống tham nhũng năm 2014 (số 382/BC-CP) ngày 9/10/2014 của Chính phủ.
[17] Chuyển quyền sở hữu cho người thân; thông qua hoạt động rửa tiền; mua sắm các tài sản, phương tiện có giá trị…
[18] Điều 146 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Mặc dù đã có quy định tại Điều 310 Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội vi phạm việc niêm phong kê biên tài sản để xử lý hình sự với người được giao quản lý tài sản bị niêm phong kê biên nhưng thực tế cũng không bảo đảm được tài sản sẽ được bảo toàn, không bị tẩu tán nếu tài sản lại được giao cho chủ sở hữu hoặc người thân thích quản lý.
[19] Ngoài ra cần đồng bộ hóa các luật liên quan đến phòng, chống tham nhũng và thu hồi tài sản tham nhũng. Ví dụ: sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) để hình sự hóa toàn bộ 12 hành vi tham nhũng cho phù hợp với Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2007 và 2012); quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân liên quan đến tham nhũng; quy định về thu hồi tài sản trong trường hợp làm giàu bất chính (không chứng minh được nguồn góc hợp pháp của tài sản)…
Tác giả: Nguyễn Thanh Tú* – Phạm Hồ Hương** – Hoàng Ngọc Bích*** – Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 02/2015 (87)/2015 – 2015, Trang 54-60