Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và những thách thức với Việt Nam khi thực thi trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ
TÓM TẮT
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) mang tới cho Việt Nam nhiều cơ hội và không ít thách thức, đặc biệt là trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Mặc dù đã có 10 nội dung trong lĩnh vực này được tạm hoãn thi hành nhưng các thách thức vẫn còn nguyên giá trị nghiên cứu. Bài viết phân tích các thách thức này gắn với những nội dung cụ thể trong chương 18 về sở hữu trí tuệ của CPTPP.
Xem thêm:
- Thực thi cam kết trong khuôn khổ hiệp định CPTPP về xác định thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ – ThS. Nguyễn Thị Bích Ngọc
- Đánh giá các quy định về bảo vệ môi trường trong hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên thái bình dương (CPTPP) – Lưu ý cho Việt Nam với tư cách quốc gia tiếp nhận đầu tư – ThS. Ngô Nguyễn Thảo Vy
- Quy định của CPTPP về thương mại điện tử và thách thức đối với Việt Nam trong bối cảnh hiện tại – ThS. Trần Lê Quốc Công
- Bàn về vấn đề bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng trong thương mại điện tử – ThS. Nguyễn Thị Thu Hằng
- Liên hệ tiêu chuẩn “đối xử công bằng và thỏa đáng” với mục tiêu bảo vệ môi trường trong Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) – Một số đề xuất cho Việt Nam – ThS. Nguyễn Thị Lan Hương
- Quy định về quyền sở hữu trí tuệ từ Điều 60 Hiến pháp 1992 đến Điều 43 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp – TS. Nguyễn Thị Hải Vân
- Bình luận bản án: bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ – ThS. Nguyễn Phương Thảo
- Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với chương trình máy tính – ThS. Nguyễn Trọng Luận
- Căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại vật chất do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ – ThS. Nguyễn Phương Thảo
- Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) – TS. Lê Thị Nam Giang
TỪ KHÓA: CPTPP, FTA, Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, Hiệp định thương mại tự do,
Tính đến hết ngày 31/12/2018, Việt Nam đã tiến hành ký kết 12 hiệp định thương mại tự do,[1] đã kết thúc đàm phán một hiệp định nhưng chưa ký kết[2] và đang đàm phán ba hiệp định.[3] So với 11 năm về trước,[4] có thể thấy rằng Việt Nam đã và đang tích cực ký kết nhiều hiệp định thương mại song phương lẫn đa phương.
Hiệp định có hiệu lực gần đây nhất là Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Việt Nam đã chính thức phê chuẩn Hiệp định tại Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIV vào ngày 12/11/2018 và sẽ có hiệu lực tại Việt Nam từ tháng 1/2019. CPTPP được đánh giá là có tác động tích cực tới Việt Nam trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và ngoại giao. Cùng với Hiệp định Thương mại tự do VN-EU (EVFTA), đây cũng là Hiệp định có mức mở cửa nhiều nhất, trong đó phạm vi dòng thuế cắt giảm lên tới 100% từ năm 2019 – 2035.Hiệp định không chỉ đề cập các lĩnh vực truyền thống như cắt giảm thuế quan đối với hàng hóa, mở cửa thị trường dịch vụ, sở hữu trí tuệ, hàng rào kỹ thuật liên quan đến thương mại… mà còn đặt ra những vấn đề mới với các yêu cầu cũng như tiêu chuẩn cao về bảo hộ sở hữu trí tuệ. Đây thực sự là một thách thức đối với Việt Nam.
Bài viết nghiên cứu bối cảnh ra đời của CPTPP từ tiền thân của nó là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) để thấy bối cảnh này ảnh hưởng như thế nào tới các thách thức được phân tích trong bài. Bài viết cũng điểm qua những tác động mang tính dự báo của CPTPP tới Việt Nam và phân tích những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt khi thực thi CPTPP trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Các thách thức được gắn với những nội dung cụ thể trong chương 18 về sở hữu trí tuệ của CPTPP.
1. Bối cảnh ra đời
Tiền đề của Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) là Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) với 12 thành viên đều là các quốc gia nằm bên bờ Thái Bình Dương bao gồm những nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada. TPP rơi vào bế tắc khi các nước không thể thống nhất với nhau trong nhiều vấn đề như sở hữu trí tuệ, nông sản, nguồn gốc thành phần sản xuất ô tô… Trong bối cảnh bế tắc này, ngày 30/1/2017, đại diện thương mại Hoa Kỳ đã gửi thư đến các thành viên khác của TPP thông báo chính thức việc rút khỏi TPP.
Sau khi Hoa Kỳ rút khỏi TPP, với tất cả nỗ lực, các nước còn lại[5] đã thực hiện nhiều cuộc đàm phán để duy trì TPP. Đột phá quan trọng nhất là tại cuộc họp cấp Bộ trưởng tổ chức bên lề Tuần lễ Cấp cao APEC tại Đà Nẵng, các nước đã thống nhất thông qua tên gọi mới của Hiệp định với những nội dung có những thay đổi nhất định. Các nước kết thúc toàn bộ nội dung đàm phán còn lại vào cuối tháng 1 năm 2018. Hiệp định được ký kết vào ngày 8/3/2018 tại Santiago, Chile.
Mặc dù không còn Hoa Kỳ, Hiệp định này vẫn được coi là hiệp định thương mại tự do lớn nhất có hiệu lực[6] trong thời gian gần đây.
Hiệp định gồm Lời mở đầu và 7 điều khoản (Điều 1: Tích hợp Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, Điều 2: Tạm đình chỉ thực hiện một số điều khoản, Điều 3: Hiệu lực, Điều 4: Rút khỏi Hiệp định, Điều 5: Gia nhập, Điều 6: Rà soát Hiệp định CPTPP và Điều 7: Các lời văn xác thực). Phụ lục Danh mục một số điều khoản tạm đình chỉ thực hiện theo Hiệp định CPTPP gồm 20 nhóm nghĩa vụ tạm hoãn áp dụng theo Hiệp định này (trong đó có 11 nghĩa vụ liên quan tới Chương Sở hữu trí tuệ, 2 nghĩa vụ liên quan đến Chương Mua sắm của Chính phủ và 7 nghĩa vụ còn lại liên quan tới 7 Chương là Quản lý hải quan và tạo thuận lợi thương mại, Đầu tư, Thương mại dịch vụ xuyên biên giới, Dịch vụ tài chính, Viễn thông, Môi trường, Minh bạch hóa và Chống tham nhũng). Ngoài ra, Phụ lục này còn điều chỉnh lại nội dung dẫn chiếu liên quan tới thời điểm có hiệu lực cho phù hợp hơn với Hiệp định CPTPP đối với bảo lưu về các biện pháp không tương thích trong dịch vụ và đầu tư của Brunei và bảo lưu về doanh nghiệp nhà nước của Malaysia.[7] Ngoài các nội dung chính thức trên, cũng như với Hiệp định TPP trước đây, các nước dự kiến cũng ký một số Thư trao đổi về các nội dung quan tâm riêng của mỗi nước sau khi Hiệp định CPTPP được ký chính thức.
Như vậy có thể thấy CPTPP kế thừa gần như toàn bộ nội dung của TPP. Các nội dung thay đổi của CPTPP so với TPP chủ yếu ở nhóm nghĩa vụ được tạm hoãn thực thi do Hoa Kỳ đưa ra đàm phán. CPTPP được xem là phù hợp với Việt Nam hơn TPP về cả lộ trình và chi phí.
2. Dự báo tác động của Hiệp định CPTPP
Hiện có nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước dự báo các tác động, ảnh hưởng của CPTPP tới nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế của các quốc gia thành viên nói chung và đối với Việt Nam nói riêng. Báo cáo của Ngân hàng thế giới đã chỉ ra với gần nửa tỷ dân, 11 nước thành viên của CPTPP đóng góp tổng cộng 10.000 tỷ USD, tức hơn 13% GDP toàn cầu. Với điều kiện phát triển bình thường, CPTPP có thể giúp GDP của Việt Nam tăng thêm 1,1% tính đến năm 2030.[8]
Việt Nam có quyền tiếp cận ưu đãi với khoảng nửa tỷ dân nói trên và đặc biệt có thể tiếp cận thị trường lớn như Canada, Mexico, Chile, Peru – những nước mà hiện này Việt Nam chưa ký kết hiệp định tự do thương mại – với thuế suất thấp hơn. Ví dụ như Canada hiện đang là thị trường nhập khẩu dệt may lớn của thế giới với kim ngạch nhập khẩu khoảng 13,3 tỷ USD/ năm trong khi nhập khẩu dệt may từ Việt Nam mới chiếm 2% tổng nhập khẩu dệt may của Canada. Thị phần này có thể tăng lên nhờ việc xóa bỏ 100% thuế vào năm thứ 4.[9]
Ngoài ra, CPTPP là hiệp định mở, tức là bất cứ nước nào mong muốn tham gia đều được. Vì thế, khi số nước tham gia CPTPP tăng lên (cũng không loại trừ khả năng Mỹ muốn tham gia CPTPP) thì quyền tiếp cận thị trường với các ưu đãi của Việt Nam cũng sẽ lớn lên theo.
Nghiên cứu của Liên Việt PostBank đánh giá lợi ích của Việt Nam từ việc cắt giảm hàng rào thuế quan trong CPTPP (giảm về 0% vào năm 2030) không thực sự đáng kể[10] do Việt Nam đã thực hiện ký kết các FTA song phương và đa phương với 7/ 10 quốc gia trong CPTPP và được hưởng các ưu đãi về thuế quan trước đó. Nghiên cứu còn lo ngại rằng cam kết trong CPTPP có thể ảnh hưởng tiêu cực đến một số ngành sản xuất trong nước như ngành thức ăn chăn nuôi, lương thực, thực phẩm, đồ uống, thuốc lá… Các ngành được cho là sẽ nhận được những tác động tích cực từ mức không đáng kể tới mức vừa phải bao gồm dệt may, da giày, thủy sản, gỗ và sản phẩm từ gỗ. Nông nghiệp (trừ gạo[11] và thức ăn chăn nuôi[12]) sẽ có những chuyển biến tích cực nhờ CPTPP. Lương thực, thực phẩm, đồ uống, thuốc lá đang bị lo ngại là sẽ nhận những tác động tiêu cực do nhập khẩu từ các nước CPTPP hiện nay đang chiếm tới 45% trong khi các quy định phi thuế quan ngày càng được tăng cường và hạn ngạch thuế quan được áp dụng ở những nước có sản phẩm thế mạnh như thịt lợn, thịt gà ở Nhật Bản, Canada hay bơ, trứng, sữa ở Australia, New Zealand, Nhật Bản, Mexico, Canada.
Nghiên cứu của Ngô Tuấn Anh[13] kỳ vọng CPTPP sẽ giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của hệ thống doanh nghiệp; góp phần hoàn thiện môi trường thể chế, minh bạch hóa chính sách, đặc biệt là trong thị trường mua sắm công, đấu thầu của Chính phủ; thúc đẩy Việt Nam làm tốt hơn vấn đề bảo vệ môi trường và bảo vệ người lao động nội địa.
Bên cạnh đó, nghiên cứu này cũng liệt kê 5 thách thức mà Việt Nam phải đối mặt khi thực thi CPTPP. Đó là các thách thức về cạnh tranh của doanh nghiệp từ các nước thành viên khác, áp lực điều chỉnh hệ thống pháp luật, hệ thống nhân sự trong quản lý công còn yếu về chất lượng và thiếu về số lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật cao và yêu cầu xuất xứ nghiêm ngặt, khả năng doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp nhiều hơn nếu tăng được kim ngạch xuất khẩu vào các nước CPTPP, vị thế bất bình đẳng của Việt Nam trong thương mại quốc tế. Báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội[14] còn chỉ thêm hai thách thức nữa về thu ngân sách do cắt giảm thuế nhập khẩu và về an toàn, an ninh thông tin do thực thi các nghĩa vụ Tự do lưu chuyển thông tin và Yêu cầu đặt máy chủ tại nước sở tại. Ngoài ra, tiêu chuẩn cao trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ cũng là một thách thức được đánh giá đặc biệt khó khăn đối với Việt Nam.[12]
3. Tóm tắt nội dung về sở hữu trí tuệ trong Hiệp định CPTPP
Các quy định về sở hữu trí tuệ trong CPTPP chính là kế thừa toàn bộ chương 18 gồm 83 điều của Hiệp định TPP. Tuy nhiên, CPTPP hoãn thi hành với 10 nội dung của chương 18[16] về đối tượng được cấp bằng độc quyền sáng chế và thời hạn bảo hộ; về bảo hộ dữ liệu thử nghiệm bí mật hoặc dữ liệu bí mật khác; về bảo hộ thuốc sinh học; về thời hạn bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan; về các biện pháp bảo vệ quyền bằng công nghệ; về thông tin các nội dung quản lý của quyền sở hữu trí tuệ; về bảo hộ tín hiệu cáp và tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa; về chế tài và khu vực an toàn. Tại sao lại phải hoãn thi hành những nội dung này? Các vòng đàm phán về sở hữu trí tuệ giữa các nước thành viên của TPP luôn là những phiên căng thẳng nhất. Thứ nhất, các nội dung tạm hoãn thực thi này đều do Hoa Kỳ đưa vào trước đây. Thứ hai, việc thực thi các nghĩa vụ này đòi hỏi phải có nguồn lực kinh tế. Thứ ba, Hoa Kỳ cam kết sẽ mở cửa thị trường của mình để đổi lại những cam kết về sở hữu trí tuệ có tiêu chuẩn cao nhưng khi Hoa Kỳ không còn là thành viên nữa thì những nghĩa vụ này đã bị tạm hoãn.
Các cam kết trong chương 18 bao gồm 3 nhóm sau: (i) nhóm cam kết chung liệt kê các công ước về sở hữu trí tuệ mà các thành viên phải tham gia và những nguyên tắc chung như đối xử quốc gia, minh bạch, hợp tác giữa các nước trong bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (từ Điều 18.1 đến Điều 18.17); (ii) nhóm các cam kết về tiêu chuẩn bảo hộ đối với nhãn hiệu, tên quốc gia, chỉ dẫn địa lý, sáng chế và dữ liệu bí mật hoặc các dữ liệu khác (bao gồm sáng chế nói chung, dữ liệu thử nghiệm bí mật hoặc dữ liệu bí mật khác đối với nông hóa phẩm, dược phẩm), kiểu dáng công nghiệp, quyền tác giả và quyền liên quan, bí mật thương mại (từ Điều 18.18 đến Điều 18.70, Điều 18.78); (iii) nhóm các cam kết liên quan tới việc thực thi các quyền sở hữu trí tuệ (từ Điều 18.71 đến Điều 18.81).
4. Những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt khi thực thi nội dung về sở hữu trí tuệ
4.1. Thách thức từ việc phải gia nhập các công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ được liệt kê trong CPTPP
Điều 18.7 khoản 1 của CPTPP liệt kê các điều ước quốc tế mà các thành viên phải phê chuẩn hoặc gia nhập không muộn hơn ngày Hiệp định có hiệu lực bao gồm: Nghị định thư liên quan đến Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu, thông qua tại Madrid ngày 27/6/1989; Hiệp ước Budapest về Công nhận quốc tế đối với việc nộp lưu chủng vi sinh nhằm các mục đích trong thủ tục về sáng chế (1977) được sửa đổi ngày 26/9/1980; Hiệp ước Singapore về Luật Nhãn hiệu thông qua tại Singapore ngày 27/3/2006; Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng được sửa đổi tại Geneva ngày 19/3/1991 (UPOV 1991); Hiệp ước của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới về quyền tác giả, thông qua tại Geneva ngày 20/12/1996 (WCT); Hiệp ước của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới về buổi biểu diễn và bản ghi âm, thông qua tại Geneva ngày 20/12/1996 (WPPT).
Trong số các điều ước quốc tế này, Việt Nam chưa tham gia Hiệp ước Bupadest, WCT và WPPT. Việt Nam có hai năm[17] để gia nhập Hiệp ước Budapest và ba năm[18] để gia nhập WCT và WPPT kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực, nghĩa là muộn nhất đến ngày 30/12/2021, Việt Nam đã phải là thành viên của cả ba điều ước nói trên. Đây là ba điều ước quốc tế liên quan đến việc thiết lập các chế độ bảo hộ quốc tế, hỗ trợ đăng ký quốc tế.
4.2. Thách thức từ các tiêu chuẩn bảo hộ cao đối với các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ
CPTPP đặt ra tiêu chuẩn bảo hộ cao hơn đối với các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ so với pháp luật Việt Nam, tất yếu dẫn đến thách thức phải sửa đổi nội dung luật. Cụ thể:
Đối với nhãn hiệu, Điều 18.18 CPTPP yêu cầu: “không Bên nào được từ chối đăng ký một nhãn hiệu chỉ với lý do rằng dấu hiệu cấu thành nhãn hiệu đó là âm thanh. Thêm vào đó, mỗi Bên phải nỗ lực hết sức để đăng ký nhãn hiệu mùi…”
Điều 72 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ: “là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc”.
Như vậy, so với pháp luật Việt Nam, CPTPP còn mở rộng ra cả âm thanh và khuyến khích các nước bảo hộ cả mùi. Việt Nam có 3 năm (muộn nhất là 30/12/2021) phải thực hiện nghĩa vụ bảo hộ nhãn hiệu dưới hình thức âm thanh.[19]
Đối với trường hợp nhãn hiệu nổi tiếng, Điều 18.22 của CPTPP yêu cầu các nước không được xác định một nhãn hiệu là nổi tiếng khi: “nhãn hiệu đó đã được đăng ký tại Bên đó hoặc trong một lãnh thổ tài phán khác, hoặc được liệt kê trong một danh sách các nhãn hiệu nổi tiếng, hoặc đã được công nhận là một nhãn hiệu nổi tiếng”.
Trong khi đó đây lại chính là những tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng của Việt Nam.[20] Rõ ràng, Việt Nam phải ngay lập tức sửa đổi các nội dung này trong các văn bản pháp luật có liên quan để bảo đảm tính tương thích. Điều này có thể dẫn đến việc thay đổi căn bản toàn bộ cơ chế đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam, và sẽ là thách thức đối với Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam.
Đối với sáng chế, CPTPP đưa ra các tiêu chuẩn tương tự như quy định của pháp luật Việt Nam về tính mới, tính sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp. Ngoài ra, Điều 18.38 của CPTPP bảo vệ chủ sở hữu sáng chế hơn khi quy định thời gian ân hạn đối với tính mới: “mỗi bên phải bỏ qua ít nhất là các thông tin đã được bộc lộ công khai nếu việc bộc lộ công khai này do người nộp đơn sáng chế hoặc người có được thông tin trực tiếp hoặc gián tiếp từ người nộp đơn sáng chế và xảy ra trong vòng 12 tháng trước ngày nộp đơn trong lãnh thổ của Bên đó”.
Vấn đề này chưa được quy định rõ ràng trong pháp luật Việt Nam. Ngoài ra, để tuân thủ CPTPP, Việt Nam cũng phải làm rõ các nội dung sẽ được công bố khi công bố sáng chế, cũng như xây dựng hệ thống đăng ký sáng chế minh bạch và hiệu quả hơn. Ngoài ra, với quy định ân hạn như trên, chủ sở hữu sẽ giảm bớt rủi ro bị mất tính mới do lộ thông tin về sáng chế trước khi nộp đơn đăng ký.
Trong lĩnh vực sáng chế, CPTPP dành tiểu mục B để quy định về bảo hộ dữ liệu thử nghiệm bí mật hoặc dữ liệu bí mật khác đối với nông hóa phẩm – sản phẩm nông nghiệp có chứa một thành phần hóa học như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật. Cụ thể, thời hạn bảo hộ đối với dữ liệu thử nghiệm và các dữ liệu bí mật khác về tính an toàn/hiệu quả của nông hóa phẩm mới ít nhất là 10 năm kể từ ngày cấp phép lưu hành nông hóa phẩm mới trong lãnh thổ của nước thành viên. Điều 18.47 chỉ rõ: “Nếu một Bên yêu cầu như một điều kiện để cấp phép lưu hành đối với nông hóa phầm mới, việc nộp dữ liệu thử nghiệm hoặc các dữ liệu bí mật khác liên quan đến tính an toàn và tính hiệu quả của sản phẩm thì Bên đó không được cho phép người thứ ba, nếu không được sự đồng ý của người mà trước đó đã nộp dữ liệu, đưa ra thị trường sản phẩm trùng hoặc tương tự dựa trên các thông tin đó hoặc dựa trên việc cấp phép lưu hành cho người nộp dữ liệu thử nghiệm hoặc dữ liệu khác đó”.
Như vậy, có thể hiểu việc bảo hộ đối với dữ liệu chưa được bộc lộ liên quan đến nông hóa phẩm là tự động, không cần qua đăng ký. Trong khi đó, Điều 128 khoản 1 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) chỉ quy định việc bảo mật dữ liệu thử nghiệm như một nghĩa vụ của cơ quan có thẩm quyền khi người nộp đơn đăng ký có yêu cầu, mà không coi những dữ liệu này là đối tượng được bảo hộ. Hơn nữa, Điều 128 khoản 2 quy định nghĩa vụ bảo mật này chỉ kéo dài 05 năm. Việt Nam đã đạt được thỏa thuận với các nước thành viên CPTPP (thể hiện trong các thư song phương), theo đó các nước chấp nhận không kiện Việt Nam ra cơ chế giải quyết tranh chấp của CPTPP trong vòng 05 năm sau năm thứ 5 kể từ khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực.[21] Điều đó có nghĩa là Việt Nam có 10 năm thực thi nghĩa vụ này trong đó bao gồm cả công việc sửa đổi những nội dung này.
Đối với Chính phủ, tiêu chuẩn bảo hộ cao không chỉ dẫn đến khối lượng công việc phải thực hiện để thay đổi luật nội dung mà còn kéo theo những khó khăn trong quá trình tuân thủ và thực thi sau này. Đây được xem là một thách thức với các nước đang phát triển như Việt Nam khi tiêu chuẩn bảo hộ cao tất yếu dẫn đến sự phát triển dựa vào tài sản trí tuệ sẽ càng trở nên đắt đỏ.
Đối với doanh nghiệp, những cam kết về tiêu chuẩn bảo hộ cao như vậy đặt các doanh nghiệp Việt Nam trước những thách thức rất lớn về việc tuân thủ những quy định mới do thiếu về nhân lực chuyên môn trong lĩnh vực này cũng như gánh nặng chi phí của việc tuân thủ.
4.3. Thách thức từ các quy định thực thi quyền sở hữu trí tuệ một cách nghiêm ngặt
CPTPP xây dựng một cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ chặt chẽ với sự kết hợp của các chế tài hành chính, dân sự và đặc biệt là hình sự.
Điều 18.77 của CPTPP bắt buộc: “Mỗi Bên phải quy định các thủ tục và hình phạt hình sự để áp dụng ít nhất trong các trường hợp cố ý làm giả nhãn hiệu hoặc sao lậu quyền tác giả và quyền liên quan ở quy mô thương mại…”
và Điều 18.78 khoản 2 (a) chỉ rõ: “…Mỗi Bên phải quy định thủ tục và hình phạt hình sự cho … tiếp cận một cách cố ý và trái phép tới bí mật thương mại…”.
Như vậy, các dạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, bí mật thương mại. quyền tác giả và quyền liên quan bị buộc xử lý hình sự. Thậm chí, CPTPP cũng yêu cầu phải có chế tài hình sự đối với những hành vi giúp sức hoặc xúi giục thực hiện hành vi xâm phạm,[22] hành vi liên quan/ thúc đẩy việc vi phạm như nhập khẩu, xuất khẩu, phân phối, quảng cáo.[23] Hơn nữa, CPTPP cũng mở rộng quyền hạn cho cơ quan có thẩm quyền để chủ động xử lý một số hành vi xâm phạm quyền nhất định mà không cần có đơn yêu cầu hoặc đơn khởi kiện chính thức từ người thứ ba hay chủ thể quyền. Pháp luật Việt Nam về cơ bản đã hình sự hóa các hành vi xâm phạm đối với nhãn hiệu, quyền tác giả và quyền liên quan[24] nhưng lại chưa áp dụng cho hành vi xâm phạm bí mật thương mại. Ngoài ra, cũng chưa có các hướng dẫn cụ thể cho quá trình định tội của cơ quan tư pháp (ví dụ như thế nào là quy mô thương mại), dẫn tới khó khăn trong quá trình thực thi. Cần lưu ý rằng CPTPP yêu cầu xử lý hình sự đối với cả những hành vi không vì lợi ích thương mại/tài chính nhưng gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của chủ sở hữu quyền.[25]
Bên cạnh hình sự, các biện pháp thực thi sở hữu trí tuệ tại biên giới cũng được quy định rất nghiêm ngặt. Các cơ quan có thẩm quyền tại biên giới được trao thẩm quyền rất lớn như thẩm quyền tự khởi xướng các biện pháp thực thi tại biên giới đối với hàng hóa nhập khẩu, hàng hóa xuất khẩu, hàng hóa quá cảnh mà nghi ngờ có vi phạm, quyền ra kết luận vi phạm và xử lý tiêu hủy sản phẩm vi phạm kể cả đối với các lô hàng nhỏ.[26]
Cơ chế thực thi phải nói là hà khắc nói trên đặt Chính phủ Việt Nam trước áp lực vượt qua các thách thức sửa đổi luật nội dung liên quan đến thực thi nói trên cũng như chuẩn bị nhân lực, vật lực để việc thực thi có hiệu quả theo yêu cầu của CPTPP trong thời gian tối đa 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực.[27] Từ phía doanh nghiệp, gánh nặng đối với các thủ tục kiểm soát, đặc biệt trong các thủ tục tranh chấp, kiện tụng là không thể tránh khỏi.
4.4. Thách thức từ thực trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam
Đã có nhiều nghiên cứu và báo cáo đánh giá thực trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay. Các tài liệu đều có chung một đánh giá là tình trạng xâm phạm diễn ra rất phổ biến trong các lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực máy tính.[28] Khi các tiêu chuẩn bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cao hơn, chắc chắn tình trạng xâm phạm sẽ trầm trọng hơn. Điều này dẫn tới thách thức rất lớn đối với Chính phủ Việt Nam trong việc phát hiện, xử lý, giải quyết kịch bản này.
Sở hữu trí tuệ là xương sống của một nền kinh tế tri thức trong tương lai. Đây cũng là nội dung đàm phán khó khăn trong CPTPP. Mặc dù Việt Nam được đánh giá là nước có hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ khá đồng bộ và tiên tiến, thậm chí còn có nhiều điểm tiến bộ so với pháp luật của các nước trong khu vực nhưng phải ý thức được rằng CPTPP còn đòi hỏi cao hơn thế. Sửa đổi pháp luật sở hữu trí tuệ cho tương thích với nội dung của Hiệp định trong khoảng thời gian theo quy định là thách thức đầu tiên Nhà nước phải vượt qua. Xây dựng, củng cố bộ máy cả về chất lượng chuyên môn và số lượng là điều tất yếu phải thực hiện song song với quá trình cải cách luật pháp nói trên. Tuyên truyền và nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp và xã hội về CPTPP nói chung và các thách thức trong sở hữu trí tuệ nói riêng là phương án giúp giảm bớt áp lực của các thử thách nói trên.
Về phía doanh nghiệp, chủ động nắm bắt các cơ hội từ CPTPP là điều cần thiết nếu doanh nghiệp muốn tận dụng những lợi thế của Việt Nam trong CPTPP. Khảo sát của Bộ Công thương cho thấy doanh nghiệp không chủ động và linh hoạt tìm hiểu về cơ hội, mức thuế cũng như cách để hưởng ưu đãi thuế khi xuất khẩu sản phẩm của mình đến các thị trường. Rất ít doanh nghiệp tự liên hệ để hỏi thông tin nhằm tìm hiểu thị trường xuất khẩu và ưu đãi cho sản phẩm của mình. Khi tiếp cận thị trường gần nửa tỷ dân của CPTPP, doanh nghiệp Việt Nam đứng trước nguy cơ đối mặt với các vụ khiếu nại, khiếu kiện, thậm chí là bị áp dụng các chế tài do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Do đó, hiểu rõ thách thức và có chiến lược, giải pháp vượt qua các thách thức là con đường phát triển tối ưu với doanh nghiệp hiện nay.
CHÚ THÍCH
[1] Hiệp định Thương mại hang hóa ASEAN (ATIGA), ASEAN- Trung Quốc, ASEAN – Hàn Quốc, ASEAN – Ấn Độ, ASEAN – Australia, New Zealand, ASEAN- Nhật Bản, Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh kinh tế Á Âu (EAEU), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA), Hiệp định Thương mại tự do (FTA) Việt Nam – Chile, Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), ASEAN – Hong kong.
[2] Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA).
[3] Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) giữa ASEAN và 6 đối tác đã có FTA với ASEAN là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và New Zealand; Hiệp định Thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và Khối EFTA (bao gồm 4 nước Thụy Sĩ, Na Uy, Iceland, Liechtenstein); Hiệp định Thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và Israel.
[4] Trước năm 2007 VN chỉ mới có hai FTA được thực thi là ASEAN – Trung Quốc và ASEAN – Hàn Quốc.
[5] Canada, Mexico, Peru, Chile, New Zealand, Australia, Nhật Bản, Singapore, Brunei, Malaysia và Việt Nam.
[6] Hiệp định có hiệu lực 60 ngày sau khi sáu quốc gia đầu tiên phê chuẩn. Australia là quốc gia thứ 6 phê chuẩn Hiệp định này vào ngày 31/10/2018, do đó Hiệp định sẽ có hiệu lực vào 30/12/2018.
[7] Bộ Công thương, Các nội dung chính của Hiệp định CPTPP, https://bnews.vn/cac-noi-dung-chinh-cua-hiep-dinh-cptpp/77846.html, truy cập ngày 5/3/2018.
[8] Ngân hàng thế giới, Tác động kinh tế và phân bổ thu nhập của Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương: Trường hợp của Việt Nam, Ấn phẩm song ngữ, Chương trình Hỗ trợ Thương mại và Năng lực Cạnh tranh cho Việt Nam, 2018, tr. 11.
[9] Trung tâm WTO và Hội nhập, Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương- Tóm tắt chương 2- Đối xử quốc gia và mở cửa thị trường đối với hàng hóa, 2018, tr. 7.
[10] Khối Nghiên cứu chiến lược và quan hệ kinh doanh quốc tế, Báo cáo đánh giá tác động của Hiệp định CPTPP đến một số ngành kinh tế của Việt Nam, Liên Việt PostBank Research, http://research.livietpostbank.com.vn/download/file/fid/2219, truy cập ngày 31/12/2018, tr. 3-6.
[11] Không được hưởng ưu đãi từ Nhật Bản, Australia, Malaysia và Peru, lộ trình giảm thuế quan kéo dài đến 10 năm với Mexico.
[12] Ngày càng phụ thuộc vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với thị phần chiếm trên 60% và nguồn nguyên liệu đầu vào như ngô và đậu tương chủ yếu được nhập khẩu từ các quốc gia khác.
[13] Ngô Tuấn Anh, “Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương CPTPP – Những cơ hội và thách thức đặt ra với Việt Nam”, Ấn phẩm của Diễn đàn Hội nhập Kinh tế Quốc tế Việt Nam 2018, tr. 140-142.
[14] Báo cáo Thuyết minh Hiệp định CPTPP do Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh trình bày tại kỳ họp thứ 6 của Quốc hội ngày 2/11/2018, Bài viết ““Nhận diện” thách thức của Việt Nam khi tham gia CPTPP“, truy cập ngày 3/1/2019.
[15] Quan điểm của bà Lê Thu Hà, Ủy viên Thường trực Ủy ban đối ngoại của Quốc Hội, Phó chủ tịch Nhóm Nghị sĩ Việt Nam- Hoa Kỳ trong cuộc phỏng vấn với Báo Trí thức trẻ, Bài viết “Những điều bỏ ngỏ trong báo cáo thuyết minh về CPTPP của Chính phủ“, truy cập ngày 3/1/2018.
[16] Điều 18.8 (hai câu cuối của chú thích 4), Điều 18.37 khoản 2 và câu cuối của khoản 4, Điều 18.46, Điều 18.48, Điều 18.50, Điều 18.51, Điều 18.63, Điều 18.68, Điều 18.69, Điều 18.79, Điều 18.82, Phụ lục 18-E và phụ lục 18-F.
[17] Điều 18.83 khoản 4, f (i) Hiệp định CPTPP.
[18] Điều 18.83 khoản 4, f (ii), (iii) Hiệp định CPTPP.
[19] Điều 18.83 khoản 4 f(iv).
[20] Điều 75 khoản 2, 6, 7 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
[21] Trung tâm WTO và hội nhập, “Hiệp định Đối tác toàn diện và xuyên Thái Bình Dương- Tóm tắt chương 18- Sở hữu trí tuệ“, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, 2018, truy cập ngày 5/1/2018.
[22] Chú thích 137 của Điều 18.78 khoản 1 của CPTPP.
[23] Điều 18.77 khoản 2, 4 Hiệp định CPTPP.
[24] Điều 225, 226 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[25] Điều 18.77 khoản 1 (b), Điều 18.78 khoản 3 (c) Hiệp định CPTPP.
[26] Điều 18.76 Hiệp định CPTPP
[27] Điều 18.83 khoản 4 f (xviii) – (xxiv) Hiệp định CPTPP.
[28] Năm 2017 đã có hơn 2.400 máy tính tại 63 doanh nghiệp phải chấp hành việc thanh tra, kiểm tra theo đơn yêu cầu xử lý xâm phạm quyền tác giả của chủ sở hữu. Trong đó, có 54 doanh nghiệp có hành vi sao chép chương trình phần mềm máy tính mà không được phép của chủ sở hữu; xử lý vi phạm hành chính 1,65 tỷ đồng (Số liệu ghi nhận tại Hội Thảo Doanh nghiệp Việt Nam và vấn đề thực thi quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của Bộ luật Hình sự sửa đổi của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tổ chức tại Hà Nội ngày 18/4/2018).
- Tác giả: ThS. Hồ Thúy Ngọc
- Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 03(124)/2019 – 2019, Trang 93-103
- Nguồn: Fanpage Tạp chí Khoa học pháp lý