Mục lục
Chủ trương giáo dục nhân quyền của Liên hợp quốc và Việt Nam hiện nay
Tác giả: ThS. Vũ Thị Bích Hường & ThS. Trần Quang Trung
TÓM TẮT
Giáo dục quyền con người là một trong những chủ trương của lớn của Liên hợp quốc cũng như của Đảng và Nhà nước Việt Nam nhằm hướng đến việc đẩy mạnh nhân quyền trên phạm vi toàn cầu, qua đó, giúp các chủ thể mang quyền tiếp cận đầy đủ hơn và thực thi hiệu quả hơn các giá trị về quyền con người; mặt khác qua đó còn hình thành thái độ, niềm tin, tính tôn trọng, khoan dung trong ứng xử giữa con người với nhau trong bối cảnh thế giới ngày càng phẳng với nhiều diễn biến phức tạp. Để đạt được mục tiêu này, cần thúc đẩy sự hiểu biết và tương tác giữa các quốc gia cũng như giữa quốc gia với cộng đồng quốc tế nhằm nâng cao sự hiểu biết, xây dựng một tương lai tươi sáng để tất cả cùng hướng đến mục đích cao cả và thiêng liêng nhất là quyền con người. Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng tham gia tích cực vào công cuộc giáo dục quyền con người.
Xem thêm:
- Tổng quan về quyền con người trong pháp luật lao động – TS. Đào Mộng Điệp
- Những nội dung mới của BLTTHS 2015 về bảo vệ quyền con người và quyền công dân trong tố tụng hình sự – TS. Hoàng Anh Tuyên
- Vai trò bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hành chính của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay – ThS. Lê Ngọc Duy
- Quyền con người sống trong môi trường trong lành và việc sửa đổi Hiến pháp 1992 – ThS. Trần Thị Trúc Minh
- Điểm mới của Hiến pháp 2013 về “quyền con người” và “quyền công dân” – TS. Nguyễn Mạnh Hùng & ThS. Phan Nguyễn Phương Thảo
- Sự ảnh hưởng của luật nhân quyền quốc tế đối với Bộ luật Tố tụng hình sự Đan Mạch – GS. Peter Vedel
- Nội luật hóa Công ước chống tra tấn về bảo đảm quyền của người bị buộc tội trong lĩnh vực tố tụng hình sự – TS. Lương Thị Mỹ Quỳnh
- Chống tra tấn – những cách thức tiếp cận theo Luật Nhân quyền quốc tế và Luật Hình sự quốc tế – PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa & TS. Hoàng Thị Tuệ Phương
TỪ KHÓA: Quyền con người, Pháp luật quốc tế, Tạp chí Khoa học pháp lý
1. Đặt vấn đề
Trong Diễn văn kỷ niệm 50 năm Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (QCN), Tổng thư ký Liên hợp quốc (LHQ) Kofi Annan khẳng định: “QCN là nền tảng cho sự hiện hữu và đồng tồn của nhân loại… QCN là những gì lý trí đòi hỏi và lương tri yêu cầu… QCN là những quyền bất cứ ai cũng có để làm người”[1]. Khẳng định này cho thấy, đến nay, phạm trù “QCN” – tức nhân quyền luôn là một vấn đề lớn, dù không mới nhưng cũng không bao giờ mất đi tính thời sự và sự quan tâm của toàn nhân loại. Con người và các phẩm giá của con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực chính của các cuộc đấu tranh diễn ra trong suốt chiều dài lịch sử tồn tại và phát triển của loài người. Tư tưởng về QCN đã hình thành từ rất sớm trong xã hội cổ đại, nhưng cho đến khi giai cấp tư sản thực hiện các cuộc cách mạng tư sản, vấn đề QCN mới thu hút sự quan tâm của các giai cấp, lực lượng xã hội.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, vấn đề QCN chuyển sang bước ngoặt mới, nó không còn là “câu chuyện nội bộ” được giải quyết trong phạm vi quốc gia mà trở thành quan hệ cơ bản và đối tượng điều chỉnh trong pháp luật quốc tế. Kể từ khi được thành lập năm 1945, LHQ đã ban hành hàng loạt các văn kiện quan trọng về nhân quyền, trong đó phải kể đến Hiến chương LHQ năm 1945, Tuyên ngôn thế giới về QCN năm 1948. Đây có thể xem là những cơ sở pháp lý tối quan trọng và đặt nền tảng cho quá trình hoàn thiện và phát triển hệ thống pháp luật quốc tế về QCN; đồng thời khuyến khích các quốc gia chuyển hóa các văn kiện đó vào trong pháp luật quốc nội.
Kể từ những năm 1950 cho đến nay, có thể nói LHQ và các tổ chức thành viên rất tích cực và thành công trong việc hoàn thiện các chuẩn mực về QCN trong rất nhiều văn kiện quốc tế về QCN. Kết quả là một hệ thống (với hàng trăm) văn bản pháp luật quốc tế về QCN đã được ban hành, bao quát toàn diện những quyền cơ bản của con người. Điều này chứng tỏ trong gần bảy mươi năm qua, LHQ đã vượt qua được vô vàn khó khăn, thách thức, kêu gọi các quốc gia thành viên ký kết vào các văn kiện này và cam kết triển khai tại quốc gia mình. Chính sự đồng thuận to lớn của nhiều quốc gia thành viên tạo nên động lực mạnh mẽ để LHQ tiếp tục thực hiện sứ mệnh của mình trong việc bảo đảm và thúc đẩy QCN.
Tuy nhiên, hiện vẫn còn tình trạng nhiều văn kiện về QCN đã được LHQ thông qua nhưng chưa thật sự phát huy hết hiệu lực, chưa được tôn trọng đúng mức; tình trạng vi phạm QCN có lúc, có nơi còn diễn biến hết sức phức tạp, thậm chí vượt quá tầm kiểm soát của LHQ; các thiết chế, cơ chế bảo đảm, bảo vệ QCN do LHQ lập ra bị vô hiệu ở nhiều nơi trên thế giới. Tất cả đều đe dọa hòa bình, thịnh vượng chung của nhân loại; các giá trị QCN có khả năng bị xô đổ. Điều này trở thành nỗi lo lắng, trăn trở lớn nhất của LHQ cũng như của nhiều tổ chức và quốc gia thành viên. Các văn kiện liên quan đến QCN gần đây do LHQ và các tổ chức thành viên ban hành đều ghi nhận nỗi lo này[2].
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng vừa nêu như: khủng hoảng kinh tế, xung đột sắc tộc và tôn giáo, chiến tranh… Trong đó, nguyên nhân chủ quan là sự nhận thức, hiểu biết các giá trị và pháp luật liên quan đến QCN của chính chủ thể mang quyền và chủ thể có trách nhiệm bảo vệ QCN còn quá nhiều hạn chế. Đúng như nhận định cho rằng, “đáng buồn thay khi có hàng triệu người sinh ra và mất đi mà không hề biết rằng, họ chính là chủ nhân của QCN, và do đó không thể kêu gọi các chính phủ của họ thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ. Đúng hơn là chúng ta muốn nói rằng, lạm dụng sự không hiểu biết là một vi phạm QCN”[3].
Trước tình hình đó, LHQ và các tổ chức thành viên đang chuyển dần từ vai trò tiên phong trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về QCN sang vai trò cổ vũ, khuyến khích xây dựng nền văn hóa nhân văn về QCN, trong đó lấy hoạt động giáo dục QCN làm trọng tâm. Với quyết tâm này, LHQ một mặt củng cố niềm tin của mọi người đối với các công ước về QCN trên cơ sở sự hiểu biết và nâng cao năng lực nhận thức về QCN; mặt khác LHQ thể chế hóa quyết tâm này trong nhiều chương trình hành động cụ thể của mình và của các tổ chức thành viên thông qua việc liên tục ban hành hàng loạt các văn bản quy định về vấn đề giáo dục QCN.
Một hệ thống pháp luật quốc tế về QCN cho dù đầy đủ, phù hợp, đồng bộ, nhân văn nhưng cũng sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu không đặt bên cạnh đó về vấn đề giáo dục QCN. Do vậy, ngay Lời nói đầu của Tuyên ngôn Thế giới về QCN[4] khẳng định rằng, để thực hiện được bản Tuyên ngôn này cần “phải bằng giáo dục và giảng dạy, nỗ lực thúc đẩy sự tôn trọng đối với các quyền và những tự do cơ bản (được ghi nhận trong Tuyên ngôn) này”. Điều này một lần nữa được Tuyên ngôn nhắc lại tại Điều 26 rằng, “Giáo dục phải nhằm phát triển đầy đủ nhân cách con người và tăng cường sự tôn trọng đối với các quyền tự do cơ bản của con nguời; giáo dục phải thúc đẩy sự hiểu biết, lòng khoan dung và tình hữu nghị giữa tất cả các dân tộc, các nhóm tôn giáo hoặc chủng tộc…”.
2. Một số chủ trương của LHQ về giáo dục và đào tạo QCN
Trong các công ước quốc tế về QCN, thường bên cạnh các quy định về nội dung các quyền, công ước dành một vài điều khoản đề cập vấn đề nâng cao sự hiểu biết, tuyên truyền nội dung các quyền được công ước ghi nhận. Tuy nhiên, việc lồng ghép yêu cầu giáo dục, tuyên truyền QCN như vậy chưa làm nổi bật vai trò cũng như sức mạnh của hoạt động này. Trước tính cấp thiết nêu trên cũng như để tạo ra sự đồng bộ về cơ chế pháp lý trong lĩnh vực giáo dục QCN, trong khoảng hai mươi năm trở lại đây, LHQ và các tổ chức thành viên đã có một số chủ trương cụ thể sau:
– Tuyên bố Vienna và chương trình hành động năm 1993 (Tuyên bố Vienna[5]). Bên cạnh việc nhắc lại một số giá trị về QCN đã được thông qua trước đó, Tuyên bố Vienna còn dành ra một mục (mục D) gồm năm đoạn với tên gọi “Giáo dục về QCN”. Từ Tuyên bố Vienna, vấn đề giáo dục về QCN trở thành một trong những nội dung chính trong các chương trình nghị sự của LHQ và các tổ chức thành viên về QCN.
Theo Tuyên bố Vienna, việc giáo dục, đào tạo và thông tin công cộng về QCN là thiết yếu để thúc đẩy việc đạt được các mối quan hệ ổn định và hài hoà giữa các cộng đồng, và để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, sự khoan dung và hoà bình. Do vậy, các quốc gia cần nỗ lực xoá nạn mù chữ và cần hư-ớng giáo dục đến mục tiêu phát triển đầy đủ nhân cách việc tăng cường sự tôn trọng các QCN và tự do cơ bản; đư¬a vấn đề QCN vào các môn học trong chương trình giảng dạy ở tất cả các cơ sở giáo dục chính quy và không chính quy. Đồng thời, khuyến nghị các quốc gia soạn thảo các chiến lược và chương trình cụ thể để bảo đảm sự giáo dục và phổ biến thông tin ở mức rộng rãi nhất về QCN, đặc biệt lưu ý đến các QCN của phụ nữ. Ngoài ra, Tuyên bố Vienna còn yêu cầu các chính phủ tăng cường hoạt động giáo dục, đào tạo pháp luật QCN cho các nhóm đặc biệt như các lực lượng quân đội, các nhân viên thực thi pháp luật, cảnh sát…
– Thập kỷ giáo dục nhân quyền của LHQ. Nghị quyết số 48/127[6] chính thức tuyên bố lấy giai đoạn mười năm 1995 – 2004, là “Thập kỷ giáo dục nhân quyền” của LHQ (The United Nations Decade for Human Rights Education). Nghị quyết này cụ thể hóa Tuyên bố Vienna năm 1993 về tăng cường năng lực của các quốc gia về giáo dục QCN. Chúng tôi cho rằng, việc lấy giai đoạn mười năm 1995 – 2004 là Thập kỷ giáo dục nhân quyền của LHQ thể hiện tinh thần quyết tâm cao của LHQ đối với việc giáo dục QCN; tạo nguồn cảm hứng cũng như động lực cho các quốc gia trên toàn thế giới quan tâm hơn nữa đến hoạt động tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao năng lực nhận thức về các quyền của mỗi chủ thể. Bởi, giáo dục QCN tự thân nó là một quyền cấu thành nhóm quyền về văn hóa, giáo dục; đồng thời là điều kiện tiên quyết cho việc thực hiện các quyền khác của con người. Muốn tăng cường hiệu lực, hiệu quả các chuẩn mực pháp luật về QCN thì trước hết phải “xóa mù” về QCN, tức là giáo dục nhân quyền. Do vậy, Nghị quyết số 48/127 khuyến cáo các chính phủ phải đẩy mạnh nỗ lực để tiêu diệt mù chữ và giáo dục trực tiếp, hướng tới sự phát triển đầy đủ tính cách của con người và tăng cường sự tôn trọng QCN. Tuy nhiên, hoạt động giáo dục QCN nêu trong Nghị quyết số 48/127 không mang tính cào bằng giữa các đối tượng được giáo dục mà cần phân hóa và xem xét sự đa dạng của các nhóm xã hội như trẻ em, phụ nữ, thanh niên, người khuyết tật, cao tuổi, người bản địa, dân tộc thiểu số và các nhóm khác. Từ đó, các quốc gia có kế hoạch cụ thể trong chiến lược giáo dục QCN nhằm đạt được mục đích cao nhất.
– Chiến dịch triển khai hoạt động thông tin công cộng trong lĩnh vực QCN theo Nghị quyết số 52/127[7]. Nghị quyết này cụ thể hóa Tuyên bố Vienna năm 1993 và nhằm hưởng ứng phong trào “Thập kỷ giáo dục nhân quyền” của LHQ. Nghị quyết số 52/127 nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò của hoạt động cung cấp, trao đổi thông tin đối với hoạt động giáo dục QCN. Hoạt động cung cấp thông tin trong Nghị quyết được hiểu là các quốc gia phải sử dụng các công cụ thông tin truyền thống kết hợp các các công cụ thông tin hiện đại nhằm đưa kiến thức về QCN đến công chúng một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất; phát huy cao độ tính năng và hiệu quả của các phương tiện thông tin công cộng trong việc phổ biến pháp luật QCN. Đồng thời, yêu cầu thiết lập các kênh thông tin cũng như cơ chế phối hợp, báo cáo kịp thời trong quá trình thực hiện hoạt động giáo dục QCN giữa các quốc gia thành viên với nhau, cũng như giữa quốc gia thành viên với LHQ. Bởi, chiến dịch thông tin công cộng về QCN là một bổ sung có giá trị cho các hoạt động của LHQ nhằm thúc đẩy hơn nữa việc bảo vệ QCN, Nghị quyết còn đặc biệt kêu gọi các chính phủ, phù hợp với điều kiện của từng quốc gia, dành ưu tiên cho việc phổ biến các văn kiện quốc tế và quốc gia về QCN bằng ngôn ngữ chính thống cũng như ngôn ngữ địa phương tại quốc gia của mình.
Bên cạnh đó, Nghị quyết số 52/127 còn kêu gọi sự chung tay góp sức của các tổ chức phi chính phủ, các cơ quan, đơn vị ngoài nhà nước trong hoạt động giáo dục QCN. LHQ nhận thức được vai trò vô giá và sáng tạo của các tổ chức phi chính phủ và cộng đồng tham gia phổ biến thông tin công cộng và giáo dục QCN, đặc biệt là ở cấp cơ sở, cộng đồng từ xa và nông thôn. Đồng thời LHQ cũng như các quốc gia thành viên xem xét kêu gọi các tổ chức phi chính phủ cùng nhà nước thành lập một quỹ tự nguyện để hỗ trợ cho việc nâng cấp các công cụ thông tin truyền thông trong chiến lược giáo dục QCN.
Như vậy, nếu Nghị quyết số 48/127 chỉ dừng lại việc gắn kết hoạt động giáo dục QCN với nền giáo dục quốc dân (chủ yếu là giáo dục văn hóa), thì Nghị quyết số 52/127 đa dạng hóa các hình thức, phương pháp giáo dục QCN, nhất là đề cao vai trò của hệ thống thông tin, truyền thông công cộng. Nói cách khác, Nghị quyết số 52/127 thể hiện tính “xã hội hóa” mạnh mẽ trong công cuộc giáo dục QCN; coi hoạt động này không chỉ là nhiệm vụ của chính phủ mà của toàn xã hội.
– Tuyên ngôn LHQ về giáo dục và đào tạo QCN (UN Declaration on Human Rights Education and Training) được Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 9/12/2011. Có thể thấy rằng, Tuyên ngôn đã thể hiện sự quyết tâm cao độ của LHQ và các quốc gia thành viên đối với vấn đề giáo dục QCN; đây là hoạt động không còn nằm trong nội bộ quốc gia mà là vấn đề thời đại của thế giới nên cần có sự đồng thuận cao giữa các quốc gia thành viên. Tuyên ngôn này có ý nghĩa giáo dục nhân văn sâu sắc và sẽ đi vào lịch sử trong tiến trình bảo đảm và thúc đẩy QCN của LHQ – một tiến trình vốn đã thành công nay càng thành công hơn. Tuyên ngôn thiết lập nền tảng, khuôn khổ, nguyên tắc pháp lý chung để từ đó trở thành nguồn luật và được các quốc gia chuyển hóa vào trong các đạo luật cũng như các hoạt động khác gắn liền với QCN, nhất là trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo QCN.
Tuyên ngôn và các văn bản khác của LHQ và của các tổ chức thành viên không phân biệt giữa “giáo dục” và “đào tạo” QCN. Tuy nhiên, khi nghiên cứu kỹ, chúng ta sẽ nhận thức một điều khá thú vị rằng, “giáo dục QCN” là hướng đến chủ thể mang quyền; còn “đào tạo QCN” được đặt ra cho nhóm cán bộ, công chức, hay giáo viên, giảng viên, những người làm công tác giáo dục, bảo vệ QCN. Có lẽ, đối với dân chúng chỉ cần giáo dục để họ hiểu, biết, nhận thức được quyền để thực thi quyền; còn đối với nhóm cán bộ, công chức, hay giáo viên, giảng viên, những người làm công tác giáo dục, bảo vệ QCN phải được đào tạo bài bản hơn vì yêu cầu đối với nhóm này không chỉ dừng lại việc trang bị hiểu biết, kiến thức về QCN; mà quan trọng hơn là họ phải nắm bắt bản chất, nguyên lý hoặc những vấn đề có tính lý luận hay hệ tư tưởng về QCN thì mới có thể thực hiện tốt hơn nhiệm vụ bảo vệ, giáo dục QCN.
Như vậy, giáo dục QCN có thể hiểu là quá trình được tổ chức có ý thức nhằm hướng tới mục đích khơi gợi suy nghĩ, năng lực nhận thức tính “chủ thể quyền” trong mỗi người, góp phần hoàn thiện năng lực, tình cảm, thái độ, phẩm chất và hành vi của mỗi người trong việc thực hiện, hưởng quyền của mình và tôn trọng quyền của chủ thể khác. Trong khi đó, đào tạo QCN được hiểu là dạy các kỹ năng thực hành, nghề nghiệp hay kiến thức liên quan đến nhân quyền, qua đó giúp người học lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kĩ năng nghề nghiệp một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho họ thích nghi với cuộc sống và khả năng đảm nhận việc bảo vệ, ngăn ngừa, thúc đẩy và giáo dục QCN cho toàn xã hội.Một số điểm nổi bật của Tuyên ngôn:
* Nguyên tắc của giáo dục và đào tạo về QCN. Nguyên tắc của giáo dục và đào tạo về QCN được hiểu là những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt, chi phối toàn bộ hệ thống pháp lý cũng như cách thức tiến hành hoạt động giáo dục và đào tạo về QCN. Theo Tuyên ngôn, trong hoạt động giáo dục và đào tạo về QCN cần quán triệt các nguyên tắc sau:
– Thứ nhất, nguyên tắc bình đẳng đối với đối tượng giáo dục và đào tạo về QCN. Ngay tại Điều 1 của Tuyên ngôn đã xác quyết rằng, mọi người đều có quyền biết, tìm kiếm và tiếp nhận thông tin về tất cả các QCN và tự do căn bản, tiếp cận được với giáo dục và đào tạo về QCN. Như vậy, tất cả mọi người không chỉ có quyền bình đẳng tiếp cận nội dung mà còn sử dụng các công nghệ, công cụ khác nhau trong quá trình được giáo dục, đào tạo QCN. Bởi lẽ QCN gắn liền với mỗi cá nhân kể từ khi cá nhân được sinh ra và là một phần tất yếu trong quá trình tồn tại và phát triển của mỗi người. QCN là những chuẩn mực, phẩm giá mang tính bình đẳng nên họ cũng được tiếp cận một cách bình đẳng các chuẩn mực, phẩm giá đó thông qua hoạt động giáo dục, đào tạo QCN. Nhấn mạnh nguyên tắc bình đẳng để tránh tình trạng kỳ thị, phân biệt đối xử giữa các đối tượng được giáo dục, đào tạo QCN. Do vậy khoản 1 Điều 5 và điểm e Điều 4 của Tuyên ngôn khuyến nghị các quốc gia thành viên rằng, cần phải đảm bảo các cơ hội công bằng cho tất cả mọi người thông qua tiếp cận với giáo dục và đào tạo về QCN có chất lượng, mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào; nhất là phân biệt giữa trẻ nam và nữ, giữa phụ nữ và nam giới; giữa cư dân đô thị và nông thôn…
– Thứ hai, giáo dục và đào tạo về QCN bảo đảm tính đặc thù của các nhóm đối tượng. Quá trình giáo dục và đào tạo về QCN cần phải tính đến các yếu tố đặc thù của từng đối tượng. Khoản 3 Điều 3 và khoản 4 Điều 5 của Tuyên ngôn đều cho rằng, giáo dục và đào tạo về QCN cần phải tính đến điều kiện cụ thể của từng nhóm đối tượng về ngôn ngữ, hoàn cảnh kinh tế, xã hội và văn hóa… Việc xác định, đánh giá đúng các yếu tố đặc thù không chỉ giúp xác lập các hình thức, phương pháp đúng đắn mà còn khuyến khích phát huy tính sáng tạo, linh hoạt, các sáng kiến phù hợp với từng đối tượng trong hoạt động giáo dục và đào tạo về QCN để đạt hiệu quả cao nhất. Chẳng hạn các hình thức và phương pháp giáo dục QCN cho công nhân sẽ không giống như giáo dục cho nông dân; cho cư dân đô thị khác với cư dân nông thôn; cho học sinh các cấp học cũng phải khác nhau về nội dung cũng như hình thức.
Bên cạnh đó, một yếu tố quan trọng khác trong tính đặc thù của đối tượng giáo dục và đào tạo QCN là nghề nghiệp. Gắn giáo dục và đào tạo về QCN với ngành nghề, lĩnh vực lao động của từng đối tượng để xác định chính xác các nhu cầu, nguyện vọng, ưu tiên về nội dung QCN cần được phổ biến, tuyên truyền trước. Chính điều này làm cho hoạt động giáo dục và đào tạo về QCN trở nên gần gũi, thực chất hơn.
– Thứ ba, giáo dục và đào tạo về QCN phải bảo đảm nguyên tắc phổ quát, không thể tách rời và phụ thuộc lẫn nhau của các QCN (khoản 2 Điều 1). Nguyên tắc này xuất phát từ thuộc tính phổ quát (hay phổ biến) và tính không thể chia cắt của QCN. Bởi QCN là những giá trị, chuẩn mực bình đẳng cho tất cả mọi người. Điều 1 Tuyên ngôn Thế giới về QCN khẳng định rằng, mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và các quyền. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, mọi người trong khi thực hiện các quyền tự do của mình cũng phải chịu những hạn chế nhất định do luật định. Qua đó nhằm bảo đảm việc thừa nhận và tôn trọng các quyền tự do của người khác, cũng như đáp ứng những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ. Có thể hiểu rằng, tự do về QCN của chủ thể này phải được đặt bên cạnh tự do về QCN của chủ thể khác, cũng như của trật tự công cộng phù hợp với các chuẩn mực của xã hội dân chủ. Do vậy QCN có sự phụ thuộc, chi phối, tương tác lẫn nhau.
Với nguyên tắc phổ quát, không thể tách rời và phụ thuộc lẫn nhau của các QCN, hoạt động giáo dục và đào tạo về QCN sẽ bảo đảm nâng cao năng lực nhận thức cho mọi người; qua đó để mỗi chủ thể quyền có thể tự thụ hưởng và thực thi các quyền của chính mình, đồng thời biết cách tôn trọng, khoan dung và phát huy các quyền của người khác. Từ đó, sẽ đóng góp vào việc xây dựng và thúc đẩy một văn hóa toàn cầu về QCN.
* Mục tiêu của giáo dục và đào tạo QCN là những kết quả cuối cùng cần phải đạt được trong hoạt động giáo dục và đào tạo về QCN. Theo Điều 4 của Tuyên ngôn, mục tiêu cơ bản của giáo dục và đào tạo về QCN bao gồm:
– Nâng cao nhận thức, hiểu biết và sự chấp thuận các tiêu chuẩn và nguyên tắc QCN phổ quát, cũng như đảm bảo việc bảo vệ các QCN và tự do căn bản ở cấp quốc tế, khu vực và quốc gia;
– Xây dựng một văn hóa toàn cầu về QCN, trong đó mọi người nhận thức về các quyền và trách nhiệm của bản thân trong việc tôn trọng các quyền của người khác, và thúc đẩy sự phát triển của cá nhân trở thành một thành viên có trách nhiệm của một xã hội hòa bình, đa nguyên và hòa nhập;
– Theo đuổi việc hiện thực hóa hiệu quả tất cả các QCN và thúc đẩy sự khoan dung, không phân biệt đối xử và bình đẳng;
– Đóng góp vào việc ngăn chặn các vi phạm và lạm dụng QCN để đấu tranh và xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử, phân biệt chủng tộc, kỳ thị và kích động hận thù, những thái độ có hại và những thành kiến là nền tảng của chúng.
* Chủ thể giáo dục và đào tạo về QCN. Chủ thể giáo dục và đào tạo về QCN là những cá nhân, tổ chức tiến hành các hoạt động giáo dục cho người khác về các giá trị, chuẩn mực cũng như pháp luật về QCN nhằm đạt được những mục tiêu nêu trên. Tùy thuộc vào vị trí pháp lý của mình, mỗi chủ thể sẽ thể hiện những vai trò khác nhau trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo về QCN. Từ Điều 7 đến Điều 11 của Tuyên ngôn cho rằng, giáo dục và đào tạo về QCN được tiến hành bởi các chủ thể phổ biến sau:
– Nhà nước: bao gồm các cơ quan nhà nước và đơn vị hành chính sự nghiệp (thông qua cán bộ có thẩm quyền trong các cơ quan, đơn vị này) chịu trách nhiệm xây dựng, hoặc thúc đẩy việc xây dựng các chiến lược, chính sách, kế hoạch hành động và chương trình để thực thi giáo dục và đào tạo về QCN; thúc đẩy việc thành lập, phát triển và kiện toàn các cơ quan nhân quyền quốc gia; cung cấp các dịch vụ thiết yếu để phục vụ hoạt động giáo dục, đào tạo QCN; đồng thời tạo ra một môi trường an toàn và khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân trong giáo dục và đào tạo về QCN. Bên cạnh đó còn phải tiến hành các bước nhằm tự mình hoặc thông qua hỗ trợ hợp tác quốc tế để đảm bảo tối đa nguồn lực phục vụ việc thực thi giáo dục và đào tạo về QCN thông qua các hình thức thích hợp. Ngoài ra, các cơ sở giáo dục (công lập hay dân lập) chịu trách nhiệm giáo dục, đào tạo QCN cho các đối tượng đang theo học phù hợp với chương trình do các cơ quan hữu quan ban hành.
– Các chủ thể khu vực phi nhà nước (bao gồm các cá nhân, tổ chức xã hội dân sự, tổ chức phi chính phủ…) trước hết chịu trách nhiệm giáo dục QCN cho các thành viên trong tổ chức mình theo các kế hoạch chương trình hành động phù hợp với kế hoạch chung của quốc gia cũng như trong khuôn khổ pháp luật. Bên cạnh đó, còn tham gia tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong cộng đồng (bên ngoài phạm vi tổ chức mình) các chuẩn mực QCN được ghi nhận trong pháp luật quốc gia và các điều ước quốc tế. Có thể cho rằng, các chủ thể thuộc khu vực phi nhà nước là cánh tay nối dài của nhà nước trong quá trình thực thi nhiệm vụ phổ biến, giáo dục QCN. Đây là biểu hiện của xu hướng xã hội hóa hoạt động giáo dục QCN.
– LHQ và các tổ chức thành viên là chủ thể quan trọng của hoạt động giáo dục và đào tạo về QCN. Điều này thể hiện trước hết ở chỗ nhóm chủ thể này hoạch định ở tầm vĩ mô các chiến lược toàn cầu về giáo dục và đào tạo QCN; trực tiếp giáo dục và đào tạo về QCN cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của các quốc gia và cho các nhân viên dân sự, quân sự và cảnh sát làm việc cho LHQ và các tổ chức trực thuộc; hỗ trợ những điều kiện thiết yếu trong phạm vi của mình cho các quốc gia để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục và đào tạo về QCN; đưa ra các khuyến nghị, khuyến cáo và giám sát các quốc gia thành viên đối với hoạt động giáo dục và đào tạo QCN,…;
* Đối tượng được giáo dục và đào tạo về QCN. Xuất phát từ mục tiêu xây dựng một nền văn hóa toàn cầu về QCN, trong đó mọi người nhận thức về các quyền và trách nhiệm của bản thân trong việc tôn trọng các quyền của người khác, Điều 1 Tuyên ngôn khẳng định “Mọi người đều có quyền biết, tìm kiếm và tiếp nhận thông tin về tất cả các QCN và tự do căn bản, tiếp cận được với giáo dục và đào tạo về QCN”. Như vậy, giáo dục và đào tạo về QCN không loại trừ bất kỳ một cá nhân nào, trong điều kiện, hoàn cảnh nào.
Tuy nhiên nhu cầu, mục đích hiểu biết và tiếp nhận các thông tin, kiến thức về QCN là rất đa dạng. Đối với dân chúng, sự hiểu biết này là nền tảng để xác lập, thực hiện quyền của mình. Theo Tuyên ngôn thì đây là đối tượng phổ biến nhất, quan trọng nhất và các mục tiêu giáo dục và đào tạo về QCN nêu trên tập trung hướng đến mọi tầng lớp dân cư, vốn là chủ thể của QCN. Tuy nhiên, cần phải tính đến các yếu tố đặc thù của mỗi nhóm dân cư khác nhau để xác định nội dung, hình thức, phương pháp, ngôn ngữ giáo dục và đào tạo về QCN cho phù hợp. Khoản 3, Điều 3 và khoản 2 Điều 5 đều xác quyết rằng, giáo dục và đào tạo về QCN phải tính đến những thách thức và rào cản cụ thể cũng như những nhu cầu và nguyện vọng của những người ở trong những hoàn cảnh của từng nhóm người khác nhau, đặc biệt là các nhóm dễ bị thương tổn. Có rất nhiều rào cản khác nhau ảnh hưởng đến hoạt động giáo dục và đào tạo về QCN, trong đó có thể kể đến rào cản lớn nhất là ngôn ngữ (đối với các quốc gia có quá nhiều thành phần dân tộc thiểu số nhưng họ chưa tiếp cận được ngôn ngữ chính thống của quốc gia).
Bên cạnh đó, sự tồn tại phần lớn các nhóm dễ bị tổn thương (phụ nữ, người khuyết tật, trẻ em, người nghèo khổ, dân tộc thiểu số,…) cũng là những thách thức cho hoạt động giáo dục và đào tạo về QCN. Theo Tuyên ngôn, đối với nhóm dễ bị tổn thương, khi giáo dục và đào tạo về QCN phải tính đến yếu tố nhu cầu của họ. Bởi đối với nhóm này việc giáo dục và đào tạo về QCN không mang tính dàn trải trên mọi lĩnh vực mà trước hết phải xác định nhu cầu của họ về các thông tin thiết yếu, chuẩn mực liên quan đến các quyền gắn liền trực tiếp với đời sống hàng ngày của họ. Chẳng hạn, đối với nhóm người khuyết tật thì cần giáo dục trước hết là các quyền pháp lý dành riêng cho họ như: quyền được giảm, miễn phí, giúp đỡ hay các biện pháp hỗ trợ khác trong quá trình học tập, học nghề, sử dụng các dịch vụ công cộng; các chính sách của nhà nước dành cho người khuyết tật trong lao động, kinh tế,… để giúp họ xóa mặc cảm, hòa nhập cộng đồng tốt hơn. Hoặc đối với nhóm trẻ em thì cung cấp các kiến thức về các quyền và lợi ích dành riêng cho trẻ trong học tập, chăm sóc y tế, văn hóa xã hội,… Đối với nhóm người thuộc diện nghèo cần cung cấp cho họ các thông tin về các QCN nhằm hỗ trợ hoặc giúp họ thoát nghèo như: quyền tiếp cận các nguồn vốn vay chính sách, các ưu đãi vật chất hay miễn trừ chi phí trong học nghề, lao động sản xuất,… Do vậy, đối với người thuộc diện nghèo, nếu không tập trung cung cấp, phổ biến thông tin các quyền để hỗ trợ họ thoát nghèo mà nhấn mạnh việc giáo dục, tuyên truyền các quyền trong lĩnh vực chính trị thì có lẽ khó hấp thu đối với họ, thậm chí không hoặc chưa cần thiết. Tương tư như vậy có thể suy rộng ra đối với những nhóm dễ bị tổn thương khác như người già, dân tộc thiểu số, phụ nữ,…
Ngoài ra, Tuyên ngôn cũng quan tâm đến việc giáo dục và đào tạo QCN cho hai đối tượng đặc thù: cán bộ, công chức thực thi pháp luật và những người làm công tác giáo dục và đào tạo về QCN. Đối với cán bộ, công chức thực thi pháp luật, sự hiểu biết, kiến thức về QCN là bắt buộc phải được trang bị để hình thành kỹ năng, cách thức bảo vệ quyền của dân chúng; ngăn chặn các vi phạm và lạm dụng QCN cũng như xây dựng thái độ và cách thức hành xử, để trao cho họ khả năng đóng góp vào việc thúc đẩy một văn hóa toàn cầu về nhân quyền. Nói cách khác, cán bộ, công chức thực thi pháp luật cần phải được đào tạo QCN đầy đủ nhằm bảo đảm việc họ sẽ tôn trọng và bảo vệ nhân phẩm và các quyền của tất cả mọi người trong khi thực hiện các công việc được giao[8]. Trong nhóm đối tượng là cán bộ, công chức, Tuyên ngôn nhấn mạnh và yêu cầu các nhà nước phải đảm bảo việc đào tạo thích đáng về QCN cho các thẩm phán, nhân sự trong quân đội, cảnh sát (khoản 4 Điều 7). Vì không giống như những cán bộ, công chức khác, các chức danh này có trách nhiệm chính là trực tiếp bảo vệ, ngăn ngừa, khôi phục và xử lý hậu quả hành vi xâm phạm QCN; đồng thời những chức danh này cũng rất dễ lạm quyền, xâm hại QCN trong quá trình nhân danh “người có trách nhiệm, thẩm quyền bảo vệ QCN”.
Bên cạnh đó, Tuyên ngôn nhấn mạnh đến vai trò của giáo viên, giảng viên, những người làm công tác giáo dục khác trong việc truyền đạt kiến thức, giáo dục QCN cho cộng đồng. Đối với nhóm này, họ vừa là chủ thể, vừa là đối tượng trong hoạt động giáo dục và đào tạo QCN. Nói cách khác, để giúp họ thực hiện tốt vai trò chủ thể giáo dục nhân quyền thì trước hết bản thân họ cũng phải được trang bị, đào tạo những kiến thức, tri thức sâu sắc về QCN. Điều này được nhắc lại nhiều lần trong Tuyên ngôn rằng các quốc gia cần đặc biệt đào tạo hay thúc đẩy việc đào tạo phù hợp về QCN cho giáo viên, giảng viên, những người làm công tác giáo dục (khoản 2 Điều 3 và khoản 4 Điều 7).
3. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tuyên truyền, giáo dục QCN
Vì nhiều nguyên nhân khác nhau, vấn đề nhân quyền – QCN ở nước ta trong một thời gian dài (hàng chục năm trước thời kỳ đổi mới) trở thành một đề tài rất nhạy cảm nên ít nhận được sự quan tâm của các tầng lớp nhân dân; hoạt động thông tin tuyên truyền, phổ biến, giáo dục QCN chưa được chú trọng đúng mức. Hơn nữa, công tác bảo vệ và đấu tranh QCN còn nhiều hạn chế, yếu kém, có lúc, có nơi còn bị động, lúng túng nên tạo cớ cho các thế lực thù địch bên ngoài lợi dụng chiêu bài nhân quyền xuyên tạc, chống phá Nhà nước ta. Vì lẽ đó, từ những năm đầu tiến hành công cuộc và sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã sớm chú trọng về công tác nhân quyền nói chung, hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nhân quyền nói riêng.
Cụ thể là ngày 12/7/1992, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Chỉ thị số 12-CT/TW về vấn đề “QCN và quan điểm, chủ trương của Đảng ta”. Sau khi trình bày những thành tựu ban đầu cũng như những khó khăn, thách thức về công tác QCN, Chỉ thị 12 nhấn mạnh đến tầm quan trọng cũng như mục tiêu của công tác tuyên truyền giáo dục QCN và coi hoạt động này là tâm điểm trong thời gian tới. Chỉ thị nêu rõ “Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục trong nhân dân ta để mọi người hiểu rõ quan điểm, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về QCN, quyền và nghĩa vụ của công dân… Cần có nội dung và những hình thức tuyên truyền giáo dục thích hợp đối với từng loại đối tượng khác nhau. Các phương tiện thông tin đại chúng cần tích cực tham gia đấu tranh chống các hoạt động phá hoại tư tưởng trên lĩnh vực QCN. Khắc phục tình trạng bị động trong hoạt động tuyên truyền đối ngoại. Tổ chức nghiên cứu đề tài khoa học về QCN,…”.
Như vậy, hơn hai mươi năm trước, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến vấn đề giáo dục QCN và Chỉ thị số 12 nêu trên là một minh chứng cụ thể. Quan điểm của Việt Nam về giáo dục QCN không chỉ nâng cao năng lực nhận thức của cán bộ, quần chúng nhân dân về QCN mà còn là công cụ về mặt tư tưởng để đấu tranh, chống lại các luận điểm xuyên tạc, lợi dụng nhân quyền gây bất ổn định chính trị, xã hội ở nước ta. Đặc biệt, Chỉ thị rất quan tâm đến công tác đối ngoại về giáo dục, tuyên truyền pháp luật về QCN, nhất là cộng đồng Việt kiều ở hải ngoại. Qua đó, giúp các cá nhân, tổ chức và bạn bè thế giới có đầy đủ thông tin hơn, tranh thủ sự đồng tình và ngày có thiện cảm hơn về tình hình nhân quyền Việt Nam.
Tuy nhiên, Chỉ thị số 12-CT/TW được ban hành trong khi Việt Nam đã và đang gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề của chiến tranh để lại, tình trạng bao vây, cấm vận triệt để từ bên ngoài, sự sụp đổ của khối XHCN ở Đông Âu cũng như sự trì trệ của nền kinh tế bao cấp,… nên vấn đề QCN và các điều kiện bảo đảm QCN ở nước ta còn nhiều hạn chế. Lợi dụng điều này, các thế lực thù địch bên trong và nhất là lực lượng phản động bên ngoài mượn chiêu bài đấu tranh bảo vệ QCN nhằm chống phá Nhà nước ta một cách ráo riết. Vì vậy, hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục QCN trong Chỉ thị số 12-CT/TW chủ yếu gắn liền với công tác tuyên truyền đối nội, đối ngoại nhằm đề cao tinh thần cảnh giác trước các âm mưu phá hoại cách mạng và tăng cường sức chiến đấu của toàn Đảng và toàn dân trên mặt trận tư tưởng về QCN. Theo Chỉ thị số 12-CT/TW, những nhóm đối tượng dễ bị tác động, lệch lạc tư tưởng về QCN thường diễn ra phổ biến ở vùng dân tộc thiểu số, thanh niên, người dân ở nông thôn, giới văn nghệ sỹ,… nên cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục QCN cho những nhóm này.
Có thể nói việc ban hành Chỉ thị số 12-CT/TW rất kịp thời, cấp thiết; không chỉ thể hiện sự quan tâm mà còn thể hiện sự lo lắng, trăn trở của Đảng nếu công tác nhân quyền không gắn liền với hoạt động tuyên truyền, phổ biến về QCN. Chỉ thị 12-CT/TW đưa hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục QCN thuộc nhóm sáu công tác đầu tiên về nhân quyền cần ưu tiên triển khai ngay. Chỉ thị số 12-CT/TW trở thành chủ trương chính trị lớn, là nền tảng để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như các hoạt động cụ thể trong việc giáo dục, đào tạo QCN.
Sau mười tám năm thực hiện Chỉ thị số 12-CT/TW, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục QCN có nhiều chuyển biến mạnh mẽ, tích cực, thu được nhiều kết quả quan. Cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân ngày càng hiểu rõ hơn các chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước ta về QCN; người dân chủ động thực hiện quyền ngày càng hiệu quả hơn góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho toàn xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế về mặt nhận thức các giá trị QCN giữa Việt Nam và cộng đồng quốc tế. Chúng ta vẫn đang đứng trước nguy cơ các thế lực thù địch sử dụng chiêu bài nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ nước ta, kích động quần chúng nhiều nơi chống đối Nhà nước. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó hoạt động tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục QCN còn nhiều thiếu sót, chưa sâu sát và có lúc có nơi còn nặng tính hình thức. Trước tình hình đó, ngày 20/7/2010 Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 44-CT/TW về “Công tác nhân quyền trong tình hình mới”; trong đó, hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục QCN vẫn là ưu tiên hàng đầu trong công tác nhân quyền.Bên cạnh việc tiếp tục ghi nhận và theo đuổi các mục tiêu trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục QCN theo tinh thần Chỉ thị số 12-CT/TW, Chỉ thị số 44-CT/TW có một số nội dung mới trong lĩnh vực này như sau:
Thứ nhất, xác định rõ hơn nội dung của hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục QCN gồm: (1) các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về vấn đề QCN; (2) tuyên truyền những thành quả về QCN mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được sau hơn 20 năm tiến hành đổi mới; (3) tuyên truyền, phổ biến các điều ước quốc tế về QCN mà Việt Nam đã tham gia hoặc ký kết. Như vậy, so với Chỉ thị số 12-CT/TW, Chỉ thị số 44-CT/TW xác định rõ trọng tâm trọng điểm hơn trong hoạt động giáo dục QCN.
Thứ hai, giáo dục, tuyên truyền QCN bên cạnh mục tiêu bảo đảm sự ổn định, lập trường tư tưởng, nhận thức vững vàng, đúng đắn về QCN trước các thế lực thù địch, Chỉ thị số 44-CT/TW còn nêu lên mục tiêu mới trong công tác này là nâng cao ý thức về QCN để bảo đảm và thực hiện tốt hơn các quyền cơ bản của nhân dân, xây dựng một nước Việt Nam XHCN.
Thứ ba, đa dạng hóa các hình thức, phương pháp và cơ chế giáo dục QCN. Về vấn đề này, Chỉ thị số 44-CT/TW nêu lên một số chỉ đạo, gồm: tuyên truyền thông qua các diễn đàn quốc tế, các hội nghị, hội thảo, đối thoại; nâng cao chất lượng giáo dục QCN thông qua hệ thống thông tin, truyền thông đại chúng bằng cách mở các chuyên mục về QCN, tăng cường phát hành sách báo, ấn phẩm văn hóa về QCN; tăng cường công tác nghiên cứu khoa học cũng như đưa nội dung về QCN vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Bên cạnh đó, Chỉ thị số 44-CT/TW yêu cầu một số cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội,… hoàn thiện cơ chế phối hợp liên ngành cũng như xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể để triển khai và hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc tuyên truyền, giáo dục QCN. Điểm đáng lưu ý nữa là Chỉ thị yêu cầu nghiên cứu sắp xếp tổ chức lại cơ quan chỉ đạo về nhân quyền ở Trung ương để thực hiện công tác về QCN và trực tiếp hay tổ chức tuyên truyền, giáo dục QCN. Trước mắt, kiện toàn Ban chỉ đạo về Nhân quyền của Chính phủ, Văn phòng Thường trực và ban chỉ đạo về nhân quyền của các địa phương bảo đảm có bộ máy lãnh đạo chuyên trách, có cơ chế phối hợp với các cơ quan hữu quan ở Trung ương và địa phương nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong lĩnh vực bảo vệ, đấu tranh, tuyên truyền giáo dục về QCN; đồng thời giao Ban chỉ đạo về Nhân quyền của Chính phủ báo cáo định kỳ kết quả công tác QCN nói chung, hoạt động tuyên truyền, giáo dục QCN nói riêng với Ban Bí thư.
Bên cạnh việc hoàn thiện cơ chế truyên truyền, giáo dục QCN trong nước, Chỉ thị còn yêu cầu các cơ quan hữu quan trong nước chủ động thường xuyên quan hệ với các cơ quan đại diện, các tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ nước ngoài ở trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam để cung cấp tình hình, tranh thủ sự ủng hộ của họ trong việc giải quyết các vấn đề phức tạp liên quan đến QCN ở nước ta.
Ngoài các nội dung cơ bản nêu trên, để hoạt động truyên truyền, giáo dục QCN đem lại hiệu quả cao hơn, Chỉ thị còn đưa ra một số công tác cần thực hiện như: từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về QCN, đẩy mạnh cải cách tư pháp, giải quyết dứt điểm các “điểm nóng” phức tạp, kéo dài liên quan đến QCN, đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội tạo điều kiện cho người dân nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và năng lực nhận thức về QCN.
Nhìn chung, việc ban hành Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư tập trung chỉ đạo công tác truyên truyền, giáo dục QCN là rất kịp thời, thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước trong công tác QCN. Những nội dung chỉ đạo và yêu cầu trong Chỉ thị số 44-CT/TW rất sâu sát, cụ thể là hoàn toàn phù hợp điều kiện Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới cũng như phù hợp với các yêu cầu của quốc tế trong lĩnh vực QCN.
4. Một số gợi ý trong công tác giáo dục, đào tạo QCN ở nước ta hiện nay
Trong thời gian qua ở nước ta, công tác tuyên truyền, giáo dục và đào tạo về QCN có nhiều chuyển biến tích cực; người dân ngày càng ý thức hơn về quyền của mình và biết cách học hỏi, tôn trọng quyền của chủ thể khác. Các viện nghiên cứu, cơ sở đào tạo luật và các chuyên ngành chính trị cũng đã đưa vấn đề QCN vào chương trình đào tạo. Tuy nhiên, so với yêu cầu của Đảng và Nhà nước về công tác nhân quyền, nhất là trong tuyên truyền, giáo dục về QCN thì hoạt động này trên thực tiễn vẫn còn nhiều bất cập. Ý thức pháp luật về QCN còn chênh lệch giữa các tầng lớp nhân dân. Trên cơ sở các chủ trương của LHQ và của Việt Nam về công tác giáo dục, đào tạo QCN, cũng như liên hệ với thực tiễn ở nước ta hiện nay trong lĩnh vực này, chúng tôi có một số gợi ý sau để hoàn thiện và nâng cao hoạt động tuyên truyền, giáo dục và đào tạo QCN ở Việt Nam hiện nay:
Một là, hoàn thiện cơ sở pháp lý về công tác tuyên truyền, giáo dục và đào tạo về QCN. Quan điểm, chủ trương của Đảng ta khá rõ ràng trong công tác này nhưng cho đến nay thiếu cơ sở pháp lý và các chương trình, kế hoạch hành động quốc gia dành riêng cho hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật về QCN. Điều này làm cho công tác giáo dục, đào tạo, tuyên truyền QCN còn tản mãn, thiếu tính thống nhất, tự phát. Sự lồng ghép các quy định tuyên truyền pháp luật về QCN vào trong các chương trình, văn bản pháp luật về tuyên truyền pháp luật nói chung chưa tạo được điểm nhấn cũng như tầm quan trọng và chưa đáp ứng chủ trương của Đảng trong việc giáo dục, đào tạo về QCN.
Bên cạnh đó, cũng vì thiếu chương trình, kế hoạch hành động trên phạm vi quốc gia, nên việc giảng dạy QCN trong các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật, chính trị, hành chính công,… rất phân tán, chưa có khung chương trình chung mang tính bắt buộc, thiếu hệ thống giáo trình, tài liệu chính thức. Đặc biệt đội ngũ giảng viên chuyên về đào tạo, giảng dạy QCN hầu hết là kiêm nhiệm và bản thân đội ngũ này cũng chưa được đào tạo bài bản, nghiêm túc. Như vậy, để bảo đảm sự lãnh đạo và chủ trương của Đảng về giáo dục, đào tạo, tuyên truyền QCN cũng như khắc phục các hạn chế vừa nêu nên trước hết là phải hoàn thiện cơ sở pháp lý về công tác tuyên truyền, giáo dục và đào tạo về QCN.
Hai là, nghiên cứu xem xét thành lập cơ quan quốc gia chuyên trách về vấn đề nhân quyền. Hiện nay, chức năng của nhiều cơ quan trong bộ máy nhà nước ta có liên quan trực tiếp đến lĩnh vực QCN nhưng còn tản mác, chưa tạo thành một chỉnh thể thống nhất nên việc phối hợp hành động trong công tác tuyên truyền, giáo dục QCN mang tính tự phát, rời rạc. Chỉ thị 41/2004/CT-TTg, của Thủ tướng ngày 02/12/2004 “Về tăng cường công tác bảo vệ, đấu tranh về QCN trong tình hình mới” giao cho một số cơ quan nhà nước ở Trung ương tham gia QCN trong phạm vi và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Tuy nhiên, quy định như trong Chỉ thị 41/2004/CT-TTg còn thiếu tính cụ thể, chưa tạo nên cơ chế phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan đó; thậm chí quy định như vậy còn vô hình trung dẫn đến tư tưởng cục bộ ngành trong công tác bảo vệ, đấu tranh về QCN. Do vậy, công tác bảo vệ, đấu tranh về QCN thiếu một chủ thể giữ vai trò “nhạc trưởng” điều phối chung các hoạt động liên quan đến bảo đảm và thúc đẩy QCN, trong đó có hoạt động tuyên truyền, giáo dục QCN.
Chỉ thị 41/2004/CT-TTg coi công tác tuyên truyền, giáo dục QCN là một trong những biểu hiện cụ thể và quan trọng trong hoạt động bảo vệ, đấu tranh về QCN. Do đó đã đến lúc, (nếu không muốn nói là đã chậm) cần nghiên cứu xem xét thành lập mô hình cơ quan quốc gia chuyên trách về vấn đề nhân quyền. Chúng ta có thể tham khảo mô hình cơ cơ quan nhân quyền quốc gia (National Human Rights Institutions – NHRIs) ở một số nước trên thế giới như: Uỷ ban Tư vấn Quốc gia về QCN (Pháp), Viện Nhân quyền (Đức), Ủy ban Nhân quyền quốc gia (Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc,…). Cơ quan này chịu trách nhiệm điều phối chung các hoạt động liên quan đến QCN như giám sát việc thực thi QCN; khuyến cáo, khuyến nghị hoặc tham gia vào việc xây dựng các chính sách pháp luật về QCN; hướng dẫn cho các tổ chức xã hội tham gia vào việc bảo đảm và thúc đẩy QCN; trực tiếp hoặc tổ chức xây dựng kế hoạch, chương trình hành động tuyên truyền, giáo dục QCN,…
Ba là, cần tách biệt hai hoạt động “giáo dục” với “đào tạo” QCN. Mỗi hoạt động có đối tượng, hình thức, phương pháp, nội dung khác nhau trong quá trình đưa vấn đề QCN và pháp luật về QCN đến với mọi người. Đối với hoạt động giáo dục QCN cần thu hút, cộng tác mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông truyền thống với hiện đại, nhất là các công cụ báo chí. Luật Báo chí cần bổ sung thêm quy định những hoạt động này là nhiệm vụ, chức năng của các cơ quan báo chí; kêu gọi sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự giáo dục QCN đầy đủ trước hết cho các thành viên trong tổ chức mình và mở rộng ra các đối tượng bên ngoài. Đối với lĩnh vực đào tạo QCN, trước hết Bộ giáo dục và Đào tạo kết hợp với Bộ Tư pháp cùng với các cơ sở đào chuyên ngành luật, chính trị, hành chính công, an ninh,… biên soạn chương trình giảng dạy về QCN phù hợp với từng ngành. Đồng thời hoàn thiện hệ thống tài liệu, giáo trình; xây dựng lực lượng giảng viên giỏi, đủ trình độ, năng lực chuyên môn giảng dạy về QCN. Có những hỗ trợ cụ thể, thiết thực cho công tác nghiên cứu khoa học về QCN; tạo điều kiện để giảng viên trao đổi kiến thức, chuyên môn giảng dạy về QCN với các chuyên gia trong nước và quốc tế,…
CHÚ THÍCH
* GVC. Th.S Luật học, Phó trưởng Khoa Luật Hành chính – Nhà nước, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
** Th.S Luật học, giảng viên Khoa Luật Hành chính – Nhà nước, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
[1]Viện Thông tin Khoa học xã hội: QCN – các văn kiện quan trọng – Hà Nội, 1998, tr. 26.
[2] “Tuyên bố thiên niên kỷ” (Được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua theo Nghị quyết số 55/2 ngày 8/9/2000).
[3] Wolfgang Benedek, Tìm hiểu về QCN, (ấn hành tại thành phố Graz, Áo), năm 2006, bản dịch tiếng Việt của Viện nghiên cứu QCN, tr. 4.
[4] Nghị quyết số 217A được Ðại Hội Ðồng LHQ thông qua ngày 10/12/1948.
[5] Tuyên bố Vienna được thông qua tại Hội nghị thế giới về QCN lần thứ hai, họp tại Vienna ngày 25/6/1993.
[6] Nghị quyết số 48/127 (A/RES/48/127) được Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 20/12/1993.
[7] Nghị quyết số 52/127 United Nations Decade for Human Rights Education, 1995-2004, and public information activities in the field of human rights (A/RES/52/127) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 26/2/1998.
[8] Đại học Quốc gia Hà Nội, khoa Luật: QCN– tập hợp những bình luận/ khuyến nghị chung của Ủy ban công ước LHQ, NXB Công an nhân dân, năm 2010, tr. 401.
- Tác giả: TS. Vũ Thị Bích Hường – ThS. Trần Quang Trung
- Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 04/2013 (77)/2013 – 2013, Trang 70-80
- Nguồn: Fanpage Tạp chí Khoa học pháp lý