Mục lục
Can thiệp nhân đạo và trách nhiệm bảo vệ: Hai khái niệm mới trong Luật Quốc tế hiện đại
TÓM TẮT
Bài viết tìm hiểu những vấn đề lý luận của hai khái niệm can thiệp nhân đạo và trách nhiệm bảo vệ là những chủ đề mới có tính thời sự và được quan tâm và nghiên cứu trong luật quốc tế hiện đại. Theo đó, bài viết phân tích các đặc điểm nhằm làm sáng tỏ sự khác biệt giữa hai khái niệm này, đồng thời làm rõ mối liên hệ giữa chúng, cơ sở pháp lý và việc áp dụng trong thực tiễn. Ngoài ra, bài viết còn cung cấp các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về hai vấn đề này.
Xem thêm:
- 7 Nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế – ThS. LS. Nguyễn Thanh Hiền
- Mối quan hệ giữa Luật Quốc tế và Luật Quốc gia – ThS. LS. Nguyễn Thanh Hiền
- Bảo đảm quyền tự do hiệp hội trong Luật Quốc tế và pháp luật của Đức – TS. Trần Việt Dũng
- Pháp luật quốc tế, châu âu về hòa giải trong lĩnh vực hình sự và kinh nghiệm cho Việt Nam – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
- Sự ảnh hưởng của luật nhân quyền quốc tế đối với BLTTHS Đan Mạch – GS. Peter Vedel Kessing
TỪ KHÓA: Can thiệp nhân đạo, Trách nhiệm bảo vệ, Tạp chí Khoa học pháp lý
Những quan niệm đầu tiên về can thiệp nhân đạo ra từ đời từ thế kỉ 13[1] và hoàn thiện vào những năm cuối thế kỉ 20 với nội dung là “quyền của cộng đồng quốc tế tiến hành hành động can thiệp, kể cả bằng quân sự, vào một quốc gia, không có sự chấp thuận của quốc gia đó để chấm dứt tình trạng vi phạm nhân quyền hàng loạt tại đó”[2]. Các quan điểm ủng hộ quyền can thiệp nhân đạo cho rằng “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, và can thiệp nhân đạo là hành động cần thiết để bảo vệ quyền con người hiệu quả[3]. Ngược lại, các quan điểm không ủng hộ cho rằng hành động can thiệp nhân đạo vi phạm nghiêm trọng chủ quyền và nhân quyền, mặc dù nó được tiến hành với mục đích bảo vệ nhân quyền[4]. Hơn thế, trong bối cảnh thế giới hiện nay đang có nhiều diễn biến phức tạp, các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia có tiềm lực mạnh về quân sự sẵn sàng lợi dụng nhân quyền để can thiệp vào nội bộ quốc gia khác và gia tăng tầm ảnh hưởng của mình.
Ở một khía cạnh khác, sự phát triển lâu dài và có nhiều điểm đặc biệt của can thiệp nhân đạo đã góp phần làm phát sinh một khái niệm mới: trách nhiệm bảo vệ (the responsibility to protect – R2P). Đây là một khái niệm mang tính thời sự sâu sắc, bởi lẽ từ khi ra đời năm 2005, R2P đã được các quốc gia viện dẫn và được áp dụng trong cuộc chiến Libya năm 2011. Bên cạnh đó, R2P thường được đưa ra so sánh, phân tích bởi những điểm giống và khác nhau nhất định với can thiệp nhân đạo và có ý kiến cho rằng “trách nhiệm bảo vệ” là mô hình can thiệp mới thay thế cho “quyền can thiệp” đã lỗi thời[5]. Trong khoa học pháp lý Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu tìm hiểu vấn đề này còn rất mới mẻ. Các công trình, bài viết nghiên cứu về can thiệp nhân đạo và gần đây nhất là trách nhiệm bảo vệ khá hạn chế tại Việt Nam.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn cũng như những đặc điểm và sự khác biệt của hai khái niệm này và mối liên hệ giữa chúng với nhau. Ngoài ra, bài viết còn cung cấp những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về hai vấn đề này.
1. Khái niệm “can thiệp nhân đạo” và “trách nhiệm bảo vệ” trong luật quốc tế
1.1. Khái niệm “can thiệp nhân đạo”
“Can thiệp nhân đạo” (CTNĐ) là thuật ngữ lần đầu tiên được nhắc tới vào thế kỉ 17 trong các tác phẩm của Hugo Grotius (1583-1645)[6]. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa chính thức về can thiệp nhân đạo[7]. Trong khoa học pháp lý, có một số định nghĩa đa dạng về khái niệm can thiệp nhân đạo. Tiêu biểu trong số đó là định nghĩa của Từ điển luật Oxford (The Oxford Dictionary of Law)[8], theo đó “Can thiệp nhân đạo là sự can thiệp của một hoặc nhiều quốc gia vào công việc nội bộ của quốc gia khác bằng các phương tiện vũ trang, với ý định bắt buộc quốc gia đó thực thi một chính sách nhân đạo hơn”. Còn theo sách Thuật ngữ pháp lý quốc tế thì “Can thiệp nhân đạo là hành động sử dụng vũ lực nhằm vào một quốc gia mà không được quốc gia đó đồng ý, dù có hay không có sự cho phép của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc vì mục đích nhân đạo, nhằm ngăn chặn hay đẩy lùi những hành vi vi phạm nghiêm trọng luật nhân đạo hay luật nhân quyền quốc tế”[9]. Ngoài ra, một định nghĩa của Allen Buchanan khác cũng được các học giả phương Tây sử dụng đó là “can thiệp nhân đạo là sự đe dọa hoặc sử dụng vũ lực vượt qua biên giới của một quốc gia nhằm mục đích ngăn ngừa hoặc ngăn chặn sự lan rộng và chấm dứt sự vi phạm các quyền con người cơ bản của những người không phải là công dân của quốc gia này mà không có sự đồng ý của quốc gia nơi hành vi sử dụng vũ lực được tiến hành”.[10]
Chúng tôi cho khái niệm “can thiệp nhân đạo” sẽ nên được hiểu như sau: “Can thiệp nhân đạo là hành động sử dụng vũ lực của một hoặc nhiều quốc gia để can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác, nhằm ngăn chặn hay đẩy lùi những hành vi vi phạm luật nhân quyền quốc tế xảy ra tại quốc gia đó”
Theo chúng tôi, khái niệm can thiệp nhân đạo có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, mục đích nhân đạo là cơ sở cho hoạt động can thiệp nhân đạo. Chỉ khi có “mục đích nhân đạo” thì vấn đề can thiệp nhân đạo mới được xem xét đến. Tuy nhiên, hiện nay các học giả vẫn chưa thống nhất được các tiêu chí để xác định thế nào là mục đích nhân đạo.[11] Theo chúng tôi, “mục đích nhân đạo” nên được hiểu là việc bảo vệ và ngăn chặn sự vi phạm những quyền cơ bản của con người đã được thừa nhận rộng rãi trong luật quốc tế mà trong đó quyền sống, tự do và an toàn thân thể, không bị bắt giữ, giam cầm hay lưu đày một cách độc đoán. quyền được tôn trọng về danh dự, nhân phẩm, quyền bị tra tấn hay bị những hình phạt hoặc những đối xử tàn ác, vô nhân đạo, làm hạ thấp nhân phẩm… là những quyền con người quan trọng nhất.
Thứ hai, sự vi phạm nghiêm trọng quyền con người là căn cứ để thực hiện can thiệp nhân đạo. Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người, thì quyền con người là: “những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự cho phép và tự do cơ bản của con người”[12].Việc xác định các quyền con người nào bị vi phạm và thế nào là vi phạm nghiêm trọng quyền con người do các cơ quan thuộc cơ chế thực thi quyền con người của Liên hợp quốc xem xét, dựa trên các văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người[13].
Thứ ba, có sự sử dụng vũ lực khi can thiệp nhân đạo. Đây là đặc điểm chủ yếu của hoạt động can thiệp nhân đạo[14], giúp giới hạn thuật ngữ này với sự can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác thông qua các biện pháp chính trị và kinh tế [15].
Thứ tư, hoạt động can thiệp nhân đạo không nhằm mục đích bảo vệ hay cứu trợ những công dân của quốc gia can thiệp đang bị đe họa hoặc tước bỏ các quyền con người cơ bản.
1.2. Cơ sở pháp lý của can thiệp nhân đạo theo luật quốc tế hiện đại
Hiến chương Liên hợp quốc (HC LHQ) năm 1945 đã nêu ra các nguyên tắc nền tảng như cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác, hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế… tạo ra rào cản pháp lý cho các hoạt động đơn phương can thiệp nhân đạo vì không quy định cơ sở pháp lí cho hoạt động đơn phương can thiệp nhân đạo[16]. Tuy vậy, quyền đơn phương can thiệp nhân đạo vẫn được các quốc gia viện dẫn như một quyền tập quán quốc tế có từ thế kỉ 19[17].
Trong khoa học pháp lý quốc tế, can thiệp nhân đạo thường bao gồm hai hình thức căn cứ vào cơ sở của hành động can thiệp nhân đạo.[18] Thứ nhất, can thiệp nhân đạo trên cơ sở thẩm quyền của HĐBA (được sự cho phép của chính HĐBA hoặc do HĐBA thực hiện). Thứ hai, can thiệp nhân đạo không trên cơ sở quyết định của Hội đồng Bảo an (HĐBA) (do một hoặc nhiều quốc gia, các tổ chức quốc tế khu vực… đơn phương thực hiện)
Đối với trường hợp đầu tiên, can thiệp nhân đạo trên cơ sở sự cho phép/quyết định của HĐBA có cơ sở pháp lý tại chương VII HC LHQ. Cụ thể, HĐBA có quyền hạn lớn để chọn lựa biện pháp cần thiết trong những tình huống có sự đe dọa hòa bình và an ninh thế giới hoặc có sự xâm lược[19]. HĐBA không bị giới hạn trong việc đưa ra những đề xuất và có quyền hành động nhằm “duy trì hoặc phục hồi hoà bình và an ninh quốc tế”[20]. Như vậy, HĐBA có quyền thi hành các biện pháp quân sự khi xét thấy cần thiết, và hành động quân sự này phù hợp với điều 42 HC LHQ. Hành động can thiệp nhân đạo trong trường hợp này nằm trong quyền hạn của HĐBA và là một trong các cách thức để cơ quan này hiện thực hóa chức năng duy trì hòa bình và an ninh quốc tế của mình.[21]
Đối với trường hợp thứ hai, hành động đơn phương can thiệp nhân đạo, hiện nay có 2 luồng ý kiến trái chiều. Các quan điểm cho rằng đơn phương can thiệp nhân đạo là hành động không hợp pháp[22] dựa trên luận điểm việc can thiệp này quy định trong HC LHQ cũng như các văn bản pháp lý liên quan. Đồng thời, căn cứ vào các Nghị quyết 2131 (thông qua ngày 21/12/1965), Nghị quyết 2625 (thông qua ngày 24/10/1970), Nghị quyết 3314 (thông qua ngày 14/12/1974) của Đại hội đồng Liên hợp quốc, luật quốc tế hiện đại đã nghiêm cấm hành vi đơn phương dùng vũ lực can thiệp vào một quốc gia khác, dù với bất kì lý do gì. Bên cạnh đó, đơn phương can thiệp nhân đạo cần bị cấm vì lý do nhân quyền rất dễ bị các quốc gia lạm dụng để tiến hành can thiệp vào quốc gia khác. Ngược lại, các quan điểm cho rằng đơn phương can thiệp nhân đạo là hành động hợp pháp[23] dựa trên cơ sở trước hết đây là một quyền tập quán quốc tế[24], đồng thời nó phù hợp với mục tiêu của Hiến chương[25]. Đồng thời, đây còn là một quyền hợp pháp bởi trong lịch sử HĐBA đã nhiều lần không thực hiện hiệu quả nhiệm vụ của mình và các quốc gia có quyền can thiệp để ngăn chặn các thảm họa nhân đạo xảy ra[26].
Chúng tôi cho rằng, hành vi can thiệp nhân đạo đơn phương không dựa trên sự cho phép của HĐBA là hành vi không hợp pháp. Điều này được lý giải bởi những lập luận sau đây:
Thứ nhất, can thiệp nhân đạo đơn phương không có cơ sở pháp lý. Không có bất kì câu chữ nào trong HC LHQ và các văn bản pháp lý liên quan thừa nhận chính thức và rõ ràng quyền này. Mặt khác, các lập luận cho rằng có tồn tại quyền đơn phương can thiệp nhân đạo chỉ là sự cố gắng phân tích, suy luận từ câu chữ của các học giả.
Thứ hai, HĐBA LHQ là cơ quan duy nhất được Hiến chương ghi nhận có nhiệm vụ duy trì và bảo vệ hòa bình thế giới, cũng như phát triển quyền con người. Mặt khác, nếu HĐBA thực hiện nhiệm vụ của mình không hiệu quả, thì cần có các biện pháp thay thế hoặc cải tổ cơ chế hoạt động của cơ quan này. Tất cả những biện pháp mới này luôn phải dựa trên những cơ sở pháp lý được quy định rõ ràng. Ở đây, các quốc gia thành viên đã đơn phương làm thay nhiệm vụ này của HĐBA mà không dựa trên một cơ sở pháp lý nào. Vì vậy, không thể biện minh quyền can thiệp nhân đạo là hợp pháp trong trường hợp này.
Thứ ba, can thiệp nhân đạo đơn phương không phù hợp với mục tiêu của HC LHQ. Để một hành vi được cho là hành động phù hợp với mục đích của Hiến chương phải đáp ứng cả 2 điều kiện: (1) phù hợp với mục tiêu của HC LHQ; (2) cơ chế thực hiện mục tiêu này được quy định rõ ràng và công khai. Hình thức can thiệp nhân đạo sẽ do HĐBA LHQ hành động hoặc ủy quyền cho các quốc gia khác. HĐBA chính là cơ quan có thẩm quyền chính thức thực hiện can thiệp nhân đạo.[27].
1.3. Trách nhiệm bảo vệ – khái niệm mới xuất hiện trong luật quốc tế hiện đại
Vào đầu thế kỉ 20, các thảm họa nhân đạo diễn ra sâu sắc bởi nạn diệt chủng, tội ác chiến tranh, thanh trừng sắc tộc và tội ác chống nhân loại[28]. Ngay cả khi khi LHQ ra đời, cộng đồng quốc tế vẫn ngăn chặn được sự tiếp diễn của các hành động này vì sự bất đồng quan điểm giữa các nước thành viên của LHQ về việc liệu có can thiệp hay không để ngăn chặn các thảm họa. Để giải quyết hài hòa những bất đồng này và tìm ra một giải pháp nhằm ngăn chặn các thảm họa nhân đạo hiệu quả, cộng đồng quốc tế đã có nhiều nỗ lực[29]. Năm 2001, báo cáo “Trách nhiệm bảo vệ (The responsibility to protect)” ra đời, được xem là nguồn gốc của nguyên tắc trách nhiệm bảo vệ. Năm 2005, tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới, Văn kiện Kết quả của Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới 2005 đã ghi nhận trách nhiệm bảo vệ (R2P) và đưa nó trở thành một nguyên tắc và công cụ mới trong quan hệ quốc tế.
Như vậy, trách nhiệm bảo vệ là một nguyên tắc trong quan hệ quốc tế hiện đại nhằm ngăn chặn hành động diệt chủng, tội ác chiến tranh, thanh trừng sắc tộc và tội ác chống nhân loại[30]. Theo nguyên tắc này mỗi quốc gia có trách nhiệm bảo vệ người dân của mình trước bốn loại tội ác này. Nó cũng chỉ ra rằng cộng đồng quốc tế phải có trách nhiệm giúp các quốc gia thực thi trách nhiệm bảo vệ. Nếu vì bất kỳ lý do nào đó, một quốc gia không có khả năng hoặc không sẵn sàng bảo vệ người dân của mình, thì cộng đồng quốc tế có trách nhiệm can thiệp để cứu người dân khỏi nạn diệt chủng và các hành động thảm sát khác.[31]
Theo các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước[32], R2P gồm 2 nguyên tắc cơ bản. Thứ nhất, chủ quyền quốc gia bao hàm cả trách nhiệm, và nhà nước có trách nhiệm chính trong việc bảo vệ người dân của mình. Thứ hai, khi một nhóm dân cư trong hoàn cảnh rất nguy hiểm và nhà nước sở tại không sẵn sàng hay mất khả năng chấm dứt hay ngăn chặn điều đó xảy ra, nguyên tắc không can thiệp sẽ chuyển sang trách nhiệm bảo vệ của quốc tế.
Cũng theo các nhà nghiên cứu thì R2P sẽ bao gồm 3 loại trách nhiệm.[33] Thứ nhất, các quốc gia có trách nhiệm bảo vệ người dân của mình trước hành động diệt chủng, tội ác chiến tranh, thanh trừng sắc tộc, và tội ác chống nhân loại; Thứ hai, cộng đồng quốc tế có trách nhiệm, thông qua LHQ, sử dụng các biện pháp ngoại giao, nhân đạo và các biện pháp hòa bình khác thích hợp, theo các Chương VI và VIII của HC LHQ, để giúp bảo vệ người dân ở các nước trước các tội ác trên; Thứ ba, cộng đồng quốc tế có trách nhiệm hành động tập thể kịp thời và quyết liệt khi nhà nước có liên quan không sẵn sàng hoặc không có khả năng, thông qua HĐBA LHQ, để bảo vệ người dân trước các tội ác trên.
Về cơ sở pháp lý, trách nhiệm bảo vệ được áp dụng cho bốn loại tội ác: hành động diệt chủng, tội ác chiến tranh, tội ác chống nhân loại và thanh trừng sắc tộc[34]. Một điểm đáng lưu ý là trách nhiệm bảo vệ không phải là một quy định pháp lý quốc tế, mà chỉ là một công cụ có tính nguyên tắc, nên cơ sở pháp lý của R2P nằm trong hệ thống pháp luật quốc tế hiện hành.
Đối với tội diệt chủng, cơ sở pháp lý quy định trách nhiệm của các quốc gia nằm trong Công ước về ngăn chặn và trừng trị tội diệt chủng 1948, theo đó các quốc gia có trách nhiệm ngăn chặn và trừng trị tội diệt chủng (Điều 1,4,5,6,8 Công ước về ngăn chặn và trừng trị tội diệt chủng 1948). Trong khi đó, trách nhiệm đối với tội ác chống nhân loại được quy định trong luật nhân đạo quốc tế, cụ thể là trong các Công ước Geneva 1949 và các Nghị định thư Bổ sung liên quan, Quy chế Roma về Tòa án hình sự quốc tế. Bên cạnh đó, một số thành tố cấu thành tội ác chống nhân loại như tra tấn, bắt làm nô lệ, cưỡng bức mất tích, v.v… lại được quy định cụ thể trong các công ước riêng. Đối với tội ác chiến tranh, cơ sở pháp lý quy định trách nhiệm của các quốc gia có thể tìm thấy trong Quy chế của Tòa án quân sự quốc tế Nuremberg 1945 và các nghị quyết liên quan. Đối với vấn đề “thanh trừng sắc tộc”, mặc dù được liệt kê như một tội ác riêng, nhưng “thanh trừng sắc tộc” lại không được quy định trong luật quốc tế, mà chỉ có thể hiểu nó như một quy phạm tập quán quốc tế, và bởi vì bản chất và tác động của “thanh trừng sắc tộc” có thể cấu thành tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại.
Về trách nhiệm thực thi R2P, hiện nay theo Tuyên bố tại Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới 2005 thì trách nhiệm thực thi trách nhiệm bảo vệ thuộc về mỗi quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế thông qua LHQ và chỉ đối với 4 tội ác nghiệm trọng là hành động diệt chủng, tội ác chiến tranh, thanh trừng sắc tộc và tội ác chống nhân loại. Cụ thể, mọi quốc gia trước hết có nghĩa vụ bảo vệ người dân của mình trước những hành động thảm sát (diệt chủng, tội ác chiến tranh, tội ác chống nhân loại và thanh trừng sắc tộc). Bên cạnh đó, cộng đồng quốc tế có nghĩa vụ hỗ trợ các quốc gia khác thực hiện trách nhiệm bảo vệ của mình. Nếu một quốc gia không bảo vệ được người dân của mình, thì khi đó cộng đồng quốc tế có nghĩa vụ can thiệp vào quốc gia đó, trước tiên thông qua LHQ bằng các biện pháp hòa bình. Nếu các biện pháp hòa bình này không thành công, thì sẽ áp dụng hành động quân sự (theo Chương VII của HC LHQ quy định về khả năng sử dụng vũ lực quân sự của LHQ).
Hiện nay cơ chế thực thi R2P được đề cập trong một số văn kiện quốc tế đáng chú ý là báo cáo Thực thi trách nhiệm bảo vệ do được Tổng thư kí Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon công bố trong tháng 1/2009 cũng như các nhà nghiên cứu quan tâm[35]. Cụ thể, trách nhiệm bảo vệ được chia thành ba “trụ cột” (pillar) hay 3 nhóm, bao gồm (1) Trách nhiệm bảo vệ của quốc gia nhấn mạnh việc các quốc gia có trách nhiệm chính bảo vệ người dân của mình trước họa diệt chủng, tội ác chiến tranh, tội ác chống nhân loại và thanh trừng sắc tộc, (2) Sự trợ giúp của quốc tế và nâng cao năng lực đề cập đến cam kết của cộng đồng quốc tế là trợ giúp các quốc gia trong việc nâng cao năng lực để bảo vệ người dân của họ trước họa diệt chủng, tội ác chiến tranh, tội ác chống nhân loại và thanh trừng sát tộc. Trụ cột thứ hai cũng nhấn mạnh trách nhiệm của cộng đồng quốc tế giúp các quốc gia “đang trải qua giai đoạn khó khăn trước khi khủng hoảng và xung đột nảy ra”, và nhắc lại một lần nữa rằng phòng ngừa là cách tốt nhất để chặn đứng những hành động thảm sát và (3) ứng phó kịp thời và quyết liệt với các cuộc khủng hoảng nhân đạo, tập trung vào trách nhiệm của cộng đồng quốc tế có hành động kịp thời và quyết liệt nhằm ngăn chặn hành động diệt chủng, thanh trừng sắc tộc, tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại khi một quốc gia không bảo vệ được người dân của mình[36].
Mỗi “trụ cột” đều có tầm quan trọng như nhau. Trọng tâm của cả ba trụ cột này là ngăn chặn những tội ác này trước khi chúng trở thành những hành động thảm sát trên diện rộng. Tại mỗi trụ cột, báo cáo đưa ra các khuyến nghị để giúp các quốc gia thực hiện. Bên cạnh ba trụ cột này, báo cáo cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết phải nâng cao năng lực cảnh báo sớm, bởi mục đích của R2P là nhằm ngăn chặn các hành động thảm sát trước khi chúng xảy ra.[37]
2. Mối quan hệ giữa trách nhiệm bảo vệ với can thiệp nhân đạo
R2P và can thiệp nhân đạo là hai khái niệm thường cũng được nhắc đến trong các cuộc tranh luận, vì R2P ra đời với mong muốn của cộng đồng quốc tế là giải quyết hài hòa xung đột giữa một bên là nhu cầu nhân đạo và một bên là chủ quyền quốc gia và nguyên tắc không can thiệp[38]. R2P cũng thường được xem là đồng nghĩa với khái niệm can thiệp nhân đạo hoặc là một khái niệm phái sinh từ can thiệp nhân đạo, bởi hai khái niệm này có những nét tương đồng nhất định. Cả hai khái niệm này đều hàm chứa khả năng sử dụng hành động quân sự từ một hay một nhóm quốc gia vào quốc gia khác vì mục đích nhân đạo để ngăn chặn các hành vi tội ác. Tuy nhiên, có thể thấy can thiệp nhân đạo và trách nhiệm bảo vệ là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau bởi một số đặc điểm sau[39]:
Thứ nhất, trách nhiệm bảo vệ được phát triển trên khái niệm “chủ quyền là trách nhiệm”[40]. “Chủ quyền là trách nhiệm” có nghĩa là chính quyền quốc gia chịu trách nhiệm trước chính công dân của mình cũng như cộng đồng quốc tế về việc bảo vệ sự an toàn và tính mạng, tăng cường phúc lợi cho công dân. Khi quốc gia đảm bảo được trách nhiệm này, thì quốc gia không phải lo lắng về sự can thiệp từ bên ngoài. Trong khi đó, can thiệp nhân đạo được phát triển dựa trên các lý thuyết về luật tự nhiên, chiến tranh chính nghĩa, và trước khi LHQ ra đời, nó được các quốc gia thừa nhận như một quyền tập quán quốc tế.
Thứ hai, R2P chỉ cho phép sử dụng vũ lực như là giải pháp cuối cùng khi một quốc gia không sẵn sàng hoặc không có khả năng bảo vệ người dân của mình[41]. Trách nhiệm bảo vệ được xác định rõ là hành động tập thể thực hiện thông qua LHQ và tuân thủ các quy định của HC LHQ và luật pháp quốc tế[42]. Trong khi đó, can thiệp nhân đạo không loại trừ khả năng hành động ngoài khuôn khổ LHQ, tức là hành động đơn phương can thiệp nhân đạo không có sự ủy quyền của HĐBA LHQ và cũng không phải do chính cơ quan này thực hiện.
Thứ ba, đối với trách nhiệm bảo vệ, cộng đồng quốc tế sẽ phải vận dụng hết mọi biện pháp hòa bình, bao gồm cả các hoạt động nhân đạo, phái đoàn giám sát và áp lực ngoại giao[43] trước khi quyết định can thiệp bằng các hành động quân sự phù hợp với chương VII HC LHQ. Đối với can thiệp nhân đạo, các quốc gia can thiệp không cần phải trải qua việc thực hiện các biện pháp hòa bình mà có thể can thiệp quân sự ngay lập tức để ngăn chặn các hành động thảm sát xảy ra.
Thứ tư, khác với can thiệp nhân đạo, R2P chỉ áp dụng đối với bốn loại tội ác (hành động diệt chủng, chống lại loài người, thanh trừng sắc tộc và tội ác chiến tranh) và không áp dụng đối với những tình huống khẩn cấp nhân đạo hay thảm họa.
Thứ năm, R2P còn tập trung vào hoạt nâng cao năng lực của quốc gia nhằm bảo vệ người dân trước bốn tội ác trên, trong khi can thiệp nhân đạo thì không triển khai những hoạt động này.
Thứ sáu, trách nhiệm bảo vệ được các quốc gia thành viên LHQ chấp thuận ở cấp cao nhất. Tại Hội nghị thượng đỉnh 2005, trách nhiệm bảo vệ đã được các quốc gia tham gia nhất trí thông qua. Trong khi đó, có thể thấy can thiệp nhân đạo là một thuật ngữ chưa từng được đưa ra chính thức. Quyền can thiệp nhân đạo chỉ được xem là hợp pháp khi nó là sự can thiệp của chính HĐBA LHQ hoặc khi các quốc gia can thiệp được HĐBA ủy quyền, và cơ sở pháp lý của hành động này là chương VII HC LHQ. Mặt khác, quyền đơn phương can thiệp được cho là không hợp pháp trong luật quốc tế.
Do vậy, R2P là một nguyên tắc được đưa ra nhằm nâng cao vai trò của các quốc gia trong việc ngăn chặn và bảo vệ thường dân của mình trước các tội ác diệt chủng, tội ác chống nhân loại, tội ác chiến tranh, và thanh trừng sắc tộc. Nguyên tắc này cũng đặt ra nghĩa vụ cho cộng đồng quốc tế trong việc phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau để thực hiện trách nhiệm bảo vệ.
Tóm lại, từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng can thiệp nhân đạo và trách nhiệm bảo vệ tuy có những nét tương đồng nhất định nhưng thực chất là 2 khái niệm hoàn toàn độc lập. Trách nhiệm bảo vệ không phải là một khái niệm phái sinh hay một tên gọi khác của can thiệp nhân đạo, đó là một khái niệm mới ra đời từ 2005 và được sử dụng ngày càng phổ biến trong luật quốc tế hiện đại.Trách nhiệm bào vệ ra đời như một nguyên tắc kết hợp hài hòa giữa nhu cầu nhân đạo và chủ quyền quốc gia và nguyên tắc không can thiệp. Nội dung của nguyên tắc này nhằm ngăn chặn hiệu quả hành động diệt chủng, tội ác chiến tranh, thanh trừng sắc tộc và tội ác chống nhân loại.
Khác với can thiệp nhân đạo, trách nhiệm bảo vệ được xác định rõ ràng về điều kiện áp dụng, trách nhiệm thực thi, cơ chế, phạm vi áp dụng và hơn hết là được quy định một cách rõ ràng chính thức trong các văn kiện pháp lý quốc tế. Điều này một mặt khẳng định tính “chính danh” của học thuyết mới này, một mặt góp phần hạn chế sự lạm dụng học thuyết can thiệp nhân đạo trong thời kì trước. Trách nhiệm bảo vệ ra đời góp phần tạo nên một cơ chế cho cộng đồng quốc tế ngăn chặn các hành động tội ác thuộc phạm vi điều chỉnh của nó, khi quốc gia không thể bảo vệ người dân nước mình trước các hành động này một cách hiệu quả.
Từ khi khái niệm này ra đời năm 2005, không thể phủ nhận những đóng góp quan trọng của trách nhiệm bảo vệ trong việc đẩy lùi các tội ác thuộc phạm vi điều chỉnh của nó. Trong các trường hợp Dafur, Sudan hay trường hợp cơn bão Nargis tại Myanmar, thông qua các cơ chế thực thi R2P, LHQ đã thể hiện trách nhiệm đi đầu của mình, đẩy lùi các thảm họa nhân đạo, chấm dứt bạo lực tại các nơi này. Song song với điều đó, trách nhiệm bảo vệ cũng có nguy cơ bị lạm dụng bởi các cường quốc lớn để phục vụ cho mục đích riêng tư của quốc gia mình, mà cuộc chiến Libya năm 2011 là một ví dụ. Chính vì điều đó, thiết nghĩ cần có những giới hạn rõ ràng hơn nữa cho trách nhiệm bảo vệ để việc vận dụng và thực thi nó trở nên hiệu quả và hạn chế tối đa nguy cơ lạm dụng trong tương lai.
3. Quan điểm của Việt Nam về can thiệp nhân đạo và trách nhiệm bảo vệ
Hiện tại, chưa có một văn bản chính thức nào thể hiện rõ ràng quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam phản đối hay ủng hộ vấn đề đơn phương can thiệp nhân đạo và trách nhiệm bảo vệ. Mặc dù vậy, các tuyên bố của Nhà nước có thể cho thấy quan điểm của Việt Nam về hai vấn đề này. Đối với vấn đề nhân quyền, Việt Nam cho rằng quyền dân tộc và chủ quyền quốc gia là tối cao và bất khả xâm phạm, quyền con người muốn được hiện thực hóa thì trước hết phải tôn trọng quyền dân tộc và chủ quyền quốc gia[44]. Mặt khác, quan điểm của Việt Nam là việc bảo đảm quyền con người thuộc trách nhiệm của mỗi quốc gia. Điều này đã được quy định rõ trong các văn bản pháp lý quốc tế. Các cơ chế hợp tác để bảo vệ quyền này dù có nhưng cũng không thể nào thay thế được các cơ chế của chính quốc gia đó[45]. Trong thực tế, trước các báo cáo về nhân quyền tại Việt Nam hàng năm của chính phủ Anh, Mĩ, Việt Nam cùng với một số nước (Cuba, Trung Quốc) tích cực lên tiếng phản đối. Bên cạnh đó, trước các xung đột quốc tế diễn ra trong thời gian gần đây, các cơ quan ngôn luận của Đảng và Chính phủ Việt Nam đã lên tiếng phản đối, đồng thời một số bài viết cũng thể hiện mối lo ngại về nguy cơ lạm dụng R2P trong tương lai[46]. Đối với tình hình diễn biến tại Libya, chính phủ Việt Nam cho rằng đó là một hành động “khoác áo bảo vệ nhân quyền” và nhận định rằng “Dù với bất cứ lý do nào, việc dùng sức mạnh quân sự tiến công Li-bi là sự xâm phạm một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Ðây là điều không thể chấp nhận được vì tạo tiền lệ xấu trong quan hệ quốc tế. Ðiều đó không phù hợp với HC LHQ và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập, chủ quyền của các quốc gia”[47].
Như vậy, các dẫn chứng trên có thể thấy phần nào thái độ cùa Nhà nước ta trước các vấn đề này cũng như thực tiễn áp dụng chúng vào thực tiễn. Có thể thấy, Việt Nam không chấp nhận hành động can thiệp vào công việc nội bộ quốc gia khác dưới lý do nhân quyền và tỏ ra lo ngại rằng nhân quyền sẽ là một cái cớ để các quốc gia mưu đồ xâm lược quốc gia khác.
Tóm lại, can thiệp nhân đạo và trách nhiệm bảo vệ là những khái niệm không mới trong luật quốc tế hiện đại. Từ những tiền đề tư tưởng từ thời cổ đại được hoàn thiện dần, can thiệp nhân đạo đã trải qua thực tiễn rất sôi động và gây ra nhiều tranh cãi. Tuy ra đời sau nhưng so với can thiệp nhân đạo, trách nhiệm bảo vệ mang tính chính danh hơn, và mang nhiều đặc điểm khác biệt. Trách nhiệm bảo vệ ngày nay được xem như một công cụ pháp lý để giải quyết các xung đột nhân quyền mang tính quốc tế. Tuy nhiên, cũng như can thiệp nhân đạo, trách nhiệm bảo vệ đang đặt ra các câu hỏi về tính hiệu quả và đặc biệt là nguy cơ lạm dụng nguyên tắc này vào giải quyết xung đột quốc tế. Nghiên cứu về can thiệp nhân đạo và trách nhiệm bảo vệ sẽ góp phần làm rõ những vấn đề lý luận mà nó mang lại, nhất là trong bối cảnh thế giới ngày càng gia tăng bất ổn như hiện nay.
CHÚ THÍCH
* TS Luật học, Giảng viên Khoa Luật Quốc tế, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
** CN Luật, Khóa 33, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
[1] Những quan niệm đầu tiên về can thiệp nhân đạo được thể hiện trong các tác phẩm của Thomas Aquinas (1225-1274) và dần được hoàn thiện vào các thế kỉ sau. Các tác phẩm và tác giả tiêu biểu như Hugo Grotius (De Jure Belliac Pacis,1625), Emer de Vattel (Le droit des gens,1758), Samuel Pufendorf (De Jure naturae et gentium,1694) . Đây có thể coi là những quan niệm cổ điển về can thiệp nhân đạo. Xem Trần Thị Vân Trà, “Luật quốc tế và học thuyết can thiệp nhân đạo”, Đại học Luật Hà Nội, 2010, tr. 20, http://tainguyenso.vnu.edu.vn/xmlui/handle/123456789/38814 (truy cập 07/5/2012); Hans Kochler, “The concept of humanitarian intervention in the context of modern power politicsand its historical background”, IPO, Vienna, 2001, tr. 7.
[2] Xem http://en.wikipedia.org/wiki/Humanitarian_intervention.
[3] John Rawls (1993), “The law of people”; Reisman (1995), “Humanitarian intervention and fledgling democracies”; D’Amato (1990), “The Invasion of Panama Was a lawful Response to Tyranny”; Eric Adjei, “The Legality of humanitarian intervention”, , University of Georgia School of Law, 2005, tr. 26, [http://digitalconmons.law.uga.edu/stu_llm].
[4] Xem I. Brownlie, “Humanitarian Intervention”; Fairley (1980), “State actors, Humanitarian Intervention and international Law: Reopening pandora’s box”; Tom Farer (1974), “The Regulation of Foreign Intervention in civil armed conflict”; Franck & Rodley (1973), “After Bangladesh: The Law of Humanitarian Intervention by military force”; Verwey (1985), “Humanitarian intervention under international law”; Eric Adjei (2005), chú thích số 6, tr. 26.
[5] Thùy Dương, “Từ quyền can thiệp đến trách nhiệm bảo vệ”, Tạp chí cộng sản, 19/9/2011, http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Binh-luan/2011/12945/Tu-quyen-can-thiep-den-trach-nhiem-bao-ve.aspx, Nguyễn Thị Thanh Hà, “Khác nhau giữa trách nhiệm bảo vệ và can thiệp nhân đạo”, Báo Thế Giới & Việt Nam, 12/9/2009, http://www.tgvn.com.vn/printContent.aspx?ID=7476.
[6] Hugo Grotius (1583-1645) là người đầu tiên chính thức nêu lên nguyên tắc can thiệp nhân đạo. Xem [http://en.wikipedia.org/wiki/Hugo_Grotius] (truy cập 05/05/2012); Eric Adjei, “The Legality of humanitarian intervention”, (Tính hợp pháp của can thiệp nhân đạo), University of Geogia School of Law, 2005, [http://digitalconmons.law.uga.edu/stu_llm] (truy cập 05/05/2012); Can thiệp nhân đạo có một quá trình phát triển lâu dài bắt nguồn từ những tiền đề tư tưởng có từ triết học Hy Lạp xa xưa về luật của tự nhiên, cho đến thuyết chiến tranh chính nghĩa, chủ quyền quốc gia… Đến thế kỉ 16 – 17, khi can thiệp nhân đạo được các học giả thừa nhận thì các hoạt động can thiệp mang danh nghĩa nhân đạo được tiến hành rộng rãi và tính hợp pháp của hoạt đồng được chấp nhận dựa trên cơ sở tập quán quốc tế. Xem Trần Thị Vân Trà (2010), chú thích số 3, tr.20. Năm 1820, cuộc xâm lược Hy Lạp của các cường quốc phương Tây để bảo vệ người Hy lạp theo đạo Cơ Đốc khỏi sự khủng bố, đàn áp của người Thổ Nhĩ Kì. Năm 1860, cuộc xâm lược của Pháp vào Syria, lấy lí do quốc gia này đàn áp những người theo đạo Cơ đốc. Tương tự, Nga can thiệp vào Bosnia, Herzegovina và Bulgaria năm 1877 cũng với lý do các quốc gia này đã đàn áp người theo đạo Cơ đốc. Năm 1898, Mỹ can thiệp vào Cuba vì lý do “muốn chấm dứt những hành động dã man, những cuộc đổ máu, sự chết đói và cảnh nghèo khổ tồi tệ tồn tại ở nơi đây”. Xem Eric Adjei (2005), chú thích số 6, tr. 13-14.
[7] Eric Adjei (2005), chú thích số 6; Kyrre Grimstad, “Humanitarian Intervention : Historical, Legal and Moral perspectives”,(Can thiệp nhân đạo: Các khía cạnh lịch sử, pháp lý và đạo đức), University of Cape Town, 2001, [http://www.publiclaw.uct.ac.za/usr/public…/grimstad.pdf] (truy cập ngày 05/05/2012); http://en.wikipedia.org/wiki/Humanitarian_intervention (truy cập ngày 05/05/2012)
[8] The Oxford Dictionary of Law 4th ed. (1997) ; Kyrre Grimstad, chú thích số 12, tr. 3.
[9] Đỗ Hòa Bình (chủ biên), Phạm Thị Thu Hương, Lê Đức Hạnh , “Thuật ngữ pháp lý quốc tế”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (2009), tr. 76-77.
[10] Định nghĩa của Allen Buchanan trích trong J L Holzgrefe, ‘The Humanitarian Intervention Debate’ trong J L Holzgrefe và Roberto O Keohane, Humanitarian Intervention: Ethical, Legal and Political Dilemmas (Cambridge, 2003) 18.
[11] Trần Thị Vân Trà, chú thích số 3, tr. 17.
[12] Định nghĩa của Văn phòng Cao ủy LHQ http://nhanquyen.vn/modules.php?name=News&op=detailsnews&mid=22&mcid=6 (truy cập 05/05/2012).
[13] Wolfgang Benedek,”Tìm hiểu về quyền con người”, Nxb Tư pháp Hà Hội, Hà Nội (2008),tr. 12-13, http://www.etc-graz.at/typo3/fileadmin/…/Quyen_con_nguoi_-_P1.pdf.
[14] Xem http://en.wikipedia.org/wiki/Humanitarian_intervention (truy cập ngày 05/05/2012).
[15] Như trên.
[16] Trần Thị Vân Trà (2010), chú thích số 3, tr. 17.
[17] Kyrre Grimstad (2001), chú thích số 12, tr. 16-17.
[18]http://en.wikipedia.org/wiki/Humanitarian_intervention (truy cập ngày 05/05/2012).
[19] Điều 39 HC LHQ.
[20] Điều 42 HC LHQ.
[21] Cơ chế an ninh tập thể này có thể xem là một quyền, thậm chí là một nghĩa vụ của Hội đồng bảo an. Xem Nguyễn Thị Xuân Sơn, “Can thiệp nhân đạo trong luật quốc tế hiện đại”, ĐH Luật Hà Nội, 2012, tr. 17, [http://tainguyenso.vnu.edu.vn/xmlui/handle/123456789/38349].
[22] Xem Eric Adjei (2005), chú thích số 6, tr.26Brownlie, “Humanitarian Intervention”; Fairley (1980), “State actors, Humanitarian Intervention and international Law: Reopening pandora’s box”; Tom Farer (1974), “The Regulation of Foreign Intervention in civil armed conflict”; Franck & Rodley (1973), “After Bangladesh: The Law of Humanitarian Intervention by military force”; Verwey (1985), “Humanitarian Intervention under International Law”; Xem Eric Adjei (2005), chú thích số 6, tr. 26.
[23] Như trên, tr.26; John Rawls (1993), “The law of people”; Reisman (1995), “Humanitarian intervention and fledgling democracies”; D’Amato (1990), “The Invasion of Panama Was a lawful Response to Tyranny”.
[24] Xem Trần Thị Vân Trà, chú thích số 3, tr. 18.
[25] Khoản 3 Điều 1 của Hiến chương khẳng định một trong những mục đích của LHQ là “Thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hóa và nhân đạo, trong việc khuyến khích phát triển và sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam, nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”.
[26] Trong lịch sử, các quyết định của HĐBA về việc can thiệp giải quyết các thảm họa nhân đạo bị các quốc gia thường trực phủ quyết, dẫn đến HĐBA không thể gửi quân đến can thiệp kịp thời. Ví dụ: khi các vụ việc vi phạm nhân quyền xảy ra tại Pakistan, Uganda, Cambodia, HĐBA đã không thể gửi quân tới can thiệp. Xem Eric Adjei (2005), chú thích số 6, tr. 48.
[27] Có thể thấy các hoạt động can thiệp nhân đạo của Hội đồng bảo an dù không phải tất cả nhưng trong nhiều trường hợp đã hoạt động hiệu quả, đẩy lùi được các thảm họa nhân đạo, được cộng đồng quốc tế hoan nghênh. Ví dụ, sự can thiệp của lực lượng gìn giữ hòa bình của LHQ vào Somalia 1992, Haiti 1994, Đông Timor 1999 góp phần ổn định những mâu thuẫn sắc tộc và vi phạm nhân quyền các khu vực này, đem đến cho người dân đời sống tốt đẹp hơn. Xem http://www.baomoi.com/Luc-luong-gin-giu-hoa-binh-Lien-hop-quoc-se-dan-rut-khoi-Haiti/119/7023258.epi (truy cập 04/6/2012)
[28] Ví dụ, nạn diệt chủng người Armenia trong chiến tranh thế giới thứ 1; nạn diệt chủng ở Campuchia và những vụ giết hàng loạt dân thường, chẳng hạn như ở Guatemala và Bangladesh. Xem “Trách nhiệm bảo vệ – vài nét về nguyên tắc và các bước thực hiện” , Trung tâm về trách nhiệm bảo vệ khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, 2011, tr.2, [www.r2pasiapacific.org/documents/R2P_primer_Vietnamese.pd]; “The Responsibility to Protect (R2P) – Moving the campain forward”, Human Rights Center, University of California, Berkeley October 2007, tr. 2
[29] Trong các năm 1998 và 1999, Tổng Thư ký LHQ Kofi Annan đã nêu ra câu hỏi về liệu “cộng đồng quốc tế .. có các hành động quân sự tập thể ngay cả trong trường hợp H ĐBA LHQ không thống nhất được quyết định cho phép ngăn chặn các vụ thảm sát đó”. Năm 1996, Francis M.Deng và các cộng sự ở Viện Brooking đưa ra khái niệm “chủ quyền là trách nhiệm”. Theo đó, khái niệm chủ quyền đặt ra những nghĩa vụ có tính ràng buộc đối với người dân trong phạm vi một quốc gia, cũng như một số những đặc quyền ở phạm vi quốc tế. Năm 2000, Ủy ban Quốc tế về Can thiệp và Chủ quyền Quốc gia (ICISS) được thành lập quy tụ nhiều học giả hàng đầu về quan hệ quốc tế và pháp luật quốc tế. Năm 2001, ICISS đã cho công bố báo cáo cuối cùng có tiêu đề “Trách nhiệm bảo vệ (The Responsibility to Protect)” (gọi tắt là R2P). Xem Nguyễn Hồng Hải (2011), “Trách nhiệm bảo vệ (R2P) – Khái niệm và công cụ mới trong quan hệ quốc tế”, tr. 2, [www.r2pasiapacific.org/…/R2P%20Vietnamese%20Article.pdf].
[30] Xem ICISS, the International Development Research Center, “Report of the International Commision on Intervention and State Sovereignty”(2001); “Trách nhiệm bảo vệ – vài nét về nguyên tắc và các bước thực hiện”, Trung tâm về trách nhiệm bảo vệ khu vực Châu Á – Thái Bình Dương; Nguyễn Hồng Hải (2011), “trách nhiệm bảo vệ (R2P) – Khái niệm và công cụ mới trong quan hệ quốc tế.
[31] Như trên. Xem “trách nhiệm bảo vệ – vài nét về nguyên tắc và các bước thực hiện”, chú thích số 33, tr. 1; Nguyễn Hồng Hải (2011), chú thích số 34, tr. 2.
[32] Xem ICISS, (2001) chú thích số 35; “Trách nhiệm bảo vệ – vài nét về nguyên tắc và các bước thực hiện”, chú thích số 33 Nguyễn Hồng Hải (2011), chú thích số 34.
[33] Như trên.
[34] Nguyễn Hồng Hải (2011), chú thích số 34, tr. 4-5.
[35] Xem ICISS, (2001) chú thích số 35; “Trách nhiệm bảo vệ – vài nét về nguyên tắc và các bước thực hiện”, chú thích số 33; Nguyễn Hồng Hải (2011), chú thích số 34.
[36] UN General Assembly, Implementing the responsibility to protect : report of the Secretary-General, 12 January 2009, A/63/677, available at: http://www.unhcr.org/refworld/docid/4989924d2.html [accessed 23 November 2012].
[37] “Trách nhiệm bảo vệ – vài nét về nguyên tắc và các bước thực hiện”, chú thích số 33 tr. 8.
[38] Nguyễn Hồng Hải (2011), chú thích số 34, tr. 6.
[39] Tổng Thư ký LHQ Ban Ki-moon trong bài phát biểu về “Trách nhiệm bảo vệ” ngày 15/7/2009 tại Berlin (Đức) cũng nhấn mạnh: “Trách nhiệm bảo vệ” không phải là tên mới của “Can thiệp nhân đạo”. Xem Nguyễn Thị Thanh Hà, “Khác nhau giữa trách nhiệm bảo vệ và can thiệp nhân đạo”, 12/9/2009, http://www.tgvn.com.vn/printContent.aspx?ID=7476.
[40] Khái niệm này do ông Francis Deng, cùng các cộng sự tại Viện Brookings khởi xướng. Xem Nguyễn Hồng Hải(2011), chú thích số 34, tr. 6.
[41] Như trên, tr. 6.
[42] Xem, “Trách nhiệm bảo vệ – vài nét về nguyên tắc và các bước thực hiện”, chú thích số 33, phần 3-4.
[43] Nguyễn Thị Thanh Hà, chú thích số 44.
[44] Chẳng hạn, tác giả Đặng Dũng Chí đã cho rằng “Ở Việt Nam quyền con người gắn với quyền dân tộc và chủ quyền quốc gia. Muốn hiện thực hóa được các quyền con người phải có các tiền đề, điều kiện nhất định. Ðiều kiện trước hết là đất nước phải được độc lập, chủ quyền quốc gia phải được tôn trọng. …quyền dân tộc tự quyết đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của nhân quyền. Nói cách khác, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con người. Không có độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, không thể nói đến các quyền con người”. Xem TS Đặng Dũng Chí (2011), “Đảng, Nhà nước luôn đảm bảo quyền con người”, báo điện tử Nhân dân, 10/12/2011,[http://www.nhandan.com.vn/cmlink/nhandandientu/thoisu/daihoixi/l-lu-n-va-th-c-ti-n/ng-nha-n-c-luon-ch-m-lo-b-o-m-va-b-o-v-quy-n-con-ng-i-1.324842]
[45] Tác giả Đặng Dũng Chí cũng cho rằng, “Bảo đảm quyền con người trước hết và chủ yếu thuộc trách nhiệm của mỗi quốc gia. Trách nhiệm pháp lý này đã được Liên hợp quốc quy định trong các văn kiện nhân quyền quốc tế. Mặt khác, chính Hiến chương Liên hợp quốc cũng nhấn mạnh “Không quốc gia nào, kể cả Liên hợp quốc, có quyền can thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền quốc gia”. …Tuy nhiên, các cơ chế nhân quyền quốc tế chỉ nhằm bổ sung chứ không thể thay thế các cơ chế đang vận hành tại các quốc gia. Ðối với việc bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, trách nhiệm của quốc gia càng rõ – không có bất cứ một quốc gia hay tổ chức quốc tế nào có thể đảm đương được việc bảo đảm các quyền này thay cho các nhà nước”.
[46] “Phía sau những hành động quân sự khoác áo “bảo vệ nhân quyền”, Báo Nhân Dân, 21/03/2011, [http://www.nhandan.com.vn/cmlink/nhandandientu/thoisu/quocte/tinchung/phia-sau-nh-ng-hanh-ng-quan-s-khoac-ao-b-o-v-nhan-quy-n-1.289248 (truy cập ngày 05/7/2012)]; “Về cái gọi là “Can thiệp nhân đạo”, Tạp chí Cộng sản, 30/8/2008, [http://tuyengiao.vn/Home/Quocte/sukienvabinhluanqt/2008/8/1410.aspx] (truy cập ngày 05/7/2012); “Lạm dụng trách nhiệm bảo vệ-lợi bất cập hại”, Báo điện tử Cộng sản Việt Nam, 22/6/2011,[http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30671&cn_id=465218] (truy cập ngày 06/7/2012) Trong bài viết “Lạm dụng R2P- lợi bất cập hại”, tác giả Nguyễn Nhâm viết rằng “ “trách nhiệm bảo vệ” chỉ được thực thi khi một chính phủ hợp hiến đề nghị, nếu không sẽ đi ngược Hiến chương LHQ, vi phạm Luật pháp quốc tế và thực chất là hành động can thiệp vũ lực vào công việc nội bộ của nước khác.” Đồng thời, tác giả bày tỏ sự lo ngại về nguy cơ lạm dụng học thuyết này trong thực tế: “…rất có thể “trách nhiệm bảo vệ” sẽ trở thành xu thế chính cho các hoạt động hỗ trợ dưới danh nghĩa LHQ trong thời gian tới và đã tạo ra một khung pháp lý có thể bị một số nước lợi dụng để can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền. Điều đáng lo ngại là khi vận dụng luận điểm trên cùng với công cụ “can thiệp nóng” được sử dụng tuỳ tiện sẽ kích hoạt nhu cầu đầu tư vào nguồn lực quốc phòng của các nước, trong bối cảnh cạnh tranh lợi ích quốc tế và khu vực ngày càng gia tăng.”Xem “Lạm dụng trách nhiệm bảo vệ-lợi bất cập hại”, Báo điện tử Cộng sản Việt Nam, 22/6/2011, http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30671&cn_id=465218 (truycập ngày 07/07/2012);
[47] Báo Nhân dân số ra ngày 31/3/2011.
- Tác giả: TS. Trần Thăng Long – TS. Lê Thị Minh Phương
- Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 02/2013 (75)/2013 – 2013, Trang 38-46
- Nguồn: Fanpage Tạp chí Khoa học pháp lý