Mục lục
Những bất cập của các quy định pháp luật về ví điện tử
TÓM TẮT
Những năm gần đây, với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, sự phát triển của thương mại điện tử đã góp phần thay đổi phương thức kinh doanh, cách thức thanh toán và đem lại những lợi ích to lớn cho xã hội. Theo đó, hoạt động thanh toán bằng ví điện tử – một trong những phương thức thanh toán trực tuyến, không ngừng lớn mạnh bởi sự thuận tiện và an toàn. Bài viết phân tích và đánh giá các vấn đề pháp lý liên quan đến ví điện tử được quy định tại Thông tư số 39/2014/TT-NHNN hướng dẫn về Dịch vụ trung gian thanh toán, từ đó nêu ra những bất cập của các quy định pháp luật về ví điện tử.
Xem thêm:
- Một số vấn đề pháp lý về bên bảo đảm nghĩa vụ là người thứ ba trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại – ThS. Huỳnh Anh
- Đề thi môn Luật Ngân hàng – TUYỂN TẬP
- Một số vấn đề cần trao đổi về cấu thành tội “Vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng” trong BLHS năm 2015 – ThS. Nguyễn Quyết Thắng & ThS. Bùi Trương Ngọc Quỳnh
- Tư cách pháp lý của chủ thể hợp đồng cho vay trong lĩnh vực ngân hàng – TS.LS. Lương Khải Ân
- Điều chỉnh giao dịch trong nhóm công ty lĩnh vực tài chính – ngân hàng – ThS. Nguyễn Kiên Bích Tuyền
TỪ KHÓA: Ví điện tử;
Dịch vụ ví điện tử ra đời tại Việt Nam từ năm 2008 trong bối cảnh thị trường thương mại điện tử cần gấp những công cụ thanh toán phù hợp.[1] Với những ưu điểm vốn có của ví điện tử như: tính an toàn và bảo mật trong mua bán trực tuyến,[2] tính đơn giản trong thiết bị và thao tác,[3] số lượng người sử dụng dịch vụ ví điện tử gia tăng một cách đáng kể, từ 8% năm 2013 lên 37% năm 2014.[4] Tuy nhiên, cả 09 doanh nghiệp được Ngân hàng Nhà nước cấp phép thực hiện dịch vụ này đều chỉ hoạt động dưới hình thức thí điểm do chưa có hành lang pháp lý cụ thể. Sau hơn 5 năm thực hiện thí điểm, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 39/2014/TT-NHNN hướng dẫn về Dịch vụ trung gian thanh toán (gọi tắt là Thông tư số 39/2014/TT-NHNN). Theo đó, kể từ ngày 01/03/2015, ví điện tử sẽ chính thức được công nhận là một dịch vụ hỗ trợ thanh toán, bên cạnh các loại hình khác như: thu hộ, chi hộ, dịch vụ hỗ trợ chuyển tiền điện tử. Trong bài viết này, chúng tôi tập trung làm rõ các vấn đề pháp lý liên quan đến ví điện tử như: i. nhận diện tính pháp lý của “tiền” trong ví điện tử; gợi mở cơ chế pháp lý để bảo vệ quyền lợi của khách hàng sử dụng dịch vụ ví điện tử và của đơn vị chấp nhận thanh toán bằng ví điện tử.
1. Nhận diện tính pháp lý của “tiền” trong ví điện tử
1.1. “Tiền” trong ví điện tử
Theo khoản 6 Điều 3 Thông tư số 39/2014/TT-NHNN thì dịch vụ ví điện tử là dịch vụ cung cấp cho khách hàng một tài khoản điện tử định danh do các tổ chức cung ứng dịch vụ tạo lập trên vật mang tin (như: chip điện tử, sim điện thoại di động, máy tính…), cho phép lưu giữ một giá trị tiền tệ được đảm bảo bằng giá trị tiền gửi tương đương với số tiền được chuyển từ tài khoản thanh toán của khách hàng tại ngân hàng vào tài khoản đảm bảo thanh toán của tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử theo tỷ lệ 1:1 và được sử dụng làm phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt.
Từ khái niệm trên, có thể thấy hoạt động thanh toán qua ví điện tử đòi hỏi phải có ba loại tài khoản, bao gồm (i) tài khoản thanh toán(do người sử dụng ví điện tử mở tại ngân hàng thương mại), (ii) tài khoản điện tử định danh (do tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử cung cấp cho người sử dụng ví điện tử, tài khoản này được tạo lập trên vật mang tin), và (iii) tài khoản đảm bảo thanh toán(do tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử mở tại các ngân hàng thương mại; tài khoản này là tài khoản thanh toán bằng đồng Việt Nam).
Ví dụ, tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử A có hai khách hàng, là anh B và chị C. Trước khi thực hiện hoạt động thanh toán qua ví điện tử thì anh B và chị C đã chuyển một số tiền (7.000.000 đồng và 8.000.000 đồng tương ứng với mỗi người) từ tài khoản thanh toán của mình tại ngân hàng thương mại D vào tài khoản đảm bảo thanh toán của A (tài khoản này cũng được A mở tại ngân hàng thương mại D). Lúc này, trên tài khoản điện tử định danh của anh B và chị C (do A cung cấp) sẽ ghi nhận một giá trị tiền tệ tương ứng, đó là 7.000.000 đồng cho anh B và 8.000.000 đồng cho chị C. Như vậy, đối với hoạt động thanh toán qua ví điện tử, chúng ta không thấy sự dịch chuyển “hữu hình” của tiền từ tài khoản thanh toánsang tài khoản điện tử định danhcủa khách hàng, mà thay vào đó chỉ là sự ghi nhận về giá trị tiền tệ mà thôi. Do đó, chúng ta sẽ tự hỏi là liệu rằng trong ví điện tử (cụ thể là trong tài khoản điện tử định danh) của khách hàng có tiền hay không? Nếu có, thì tiền đó là tiền gì khi mà hoàn toàn không có sự dịch chuyển “hữu hình” của tiền?
Để trả lời câu hỏi trên, chúng ta thấy rằng, về bản chất, việc thanh toán thông qua ví điện tử cũng tương tự như các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt khác, như séc, thư tín dụng hoặc thẻ ngân hàng. Các phương thức thanh toán này đều không có sự hiện hữu của tiền mặt do ngân hàng trung ương phát hành, mà chỉ thông qua nghiệp vụ ghi “nợ” và ghi “có” vào tài khoản của khách hàng. Ví dụ, nếu trên tài khoản khách hàng ghi “có” (+), tức là lượng tiền của khách hàng trên tài khoản tăng lên. Ngược lại, nếu tài khoản của khách hàng ghi “nợ” (–) thì đồng nghĩa với việc lượng tiền của khách hàng trên tài khoản giảm xuống. Như vậy, đối tượng của các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt nói chung và của phương thức thanh toán bằng ví điện tử nói riêng đều là loại “tiền” không tồn tại hữu hình dưới dạng vật chất (như: giấy hoặc kim loại), mà được thể hiện bằng cách ghi nhận giá trị tiền tệ trong một “vật”, ví dụ như: sổ sách kế toán ngân hàng,[5] vật mang tin (như: chip điện tử, sim điện thoại di động, máy tính…). Chính sự ghi nhận giá trị tiền tệ đã cho thấy trong ví điện tử (cụ thể là trong tài khoản điện tử định danh) của khách hàng có tiền. Trong trường hợp này, chúng ta vẫn chưa có một tên gọi chính thức cho loại tiền này. Do đó, chúng tôi tạm gọi nó là “tiền điện tử” (electronic currencies).
1.2. Phân biệt “tiền” trong ví điện tử với “tiền ảo” và “tiền số hóa”
Hiện nay, trên thế giới, tiền kỹ thuật số (digital currencies) bao gồm tiền ảo (virtual currencies), tiền điện tử (electronic currencies), và tiền số hóa (cryptocurrencies). Sự khác biệt chính giữa ba loại tiền kỹ thuật số này, đó là tính chuyển đổi giữa chúng với tiền mặt. Theo Vivian Shum thì “tiền ảo” là loại “tiền” thường được sử dụng trong các trò chơi điện tử trực tuyến, do một công ty trò chơi điện tử nào đó phát hành mà không có bất cứ một tài sản cơ sở nào, chỉ công ty đó kiểm soát và chỉ sử dụng cho các giao dịch trong nội bộ hệ thống. Trong khi đó, “tiền” trong ví điện tử là “tiền điện tử” – loại tiền có thể dùng để mua các hàng hóa/ dịch vụ “thật” mà việc thanh toán sẽ được thực hiện thông qua bên trung gian (bên thứ ba), ví dụ như Paypal. Cuối cùng, “tiền số hóa” như Bitcoin, không được phát hành bởi chính phủ hay một tổ chức tài chính, mà được tạo ra và vận hành dựa trên hệ thống các máy tính kết nối mạng internet ngang hàng.[6]
Hiện nay, pháp luật các nước trên thế giới đang có hai xu hướng liên quan đến vấn đề “tiền số hóa”. Xu hướng thứ nhất thịnh hành ở các quốc gia như Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Nga xác định các hoạt động liên quan đến tiền số hóa là bất hợp pháp và bị cấm.[7] Cụ thể, tại Việt Nam, Thông tư số 39/2014/TT-NHNN nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung không công nhận sự tồn tại của “tiền số hóa”. Thứ nhất, Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng chỉ coi tiền là một trong các loại tài sản, bên cạnh các loại tài sản khác, như: vật, quyền tài sản và giấy tờ có giá,[8] mà không có một định nghĩa cụ thể như thế nào là tiền, hoặc không quy định các loại hình của tiền.[9] Thứ hai, Luật Ngân hàng nhà nước năm 2010 và Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 cũng không đưa ra định nghĩa như thế nào là tiền mà chỉ xác định các hình thức của tiền theo pháp luật Việt Nam, đó là (a) tiền giấy, (b) tiền kim loại.[10] Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước đã có Thông cáo báo chí về Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác vào ngày 27/02/2014. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước đã khẳng định Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác không phải là tiền tệ và không phải là phương tiện thanh toán hợp pháp tại Việt Nam. Do vậy, việc sử dụng Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác làm phương tiện thanh toán không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Theo xu hướng thứ hai, thịnh hành các quốc gia như Thụy Điển, Đức, Đan Mạch, Pháp, Hồng Kông, Hoa Kỳ lại đang cân nhắc đến việc sẽ tiến hành cấp giấy phép cho các dịch vụ liên quan đến “tiền số hóa”. Ví dụ, tại Thụy Điển, pháp luật cho phép sử dụng Bitcoin như là một phương tiện thanh toán và Sàn giao dịch tiền số hóa phải đăng ký với cơ quan giám sát tài chính kể từ năm 2012. Ở Pháp, cơ quan quản lý độc lập chuyên giám sát hoạt động của các ngân hàng và công ty bảo hiểm (tên tiếng Anh là “French Prudential Supervisory Authority”và tên tiếng Pháp là “Autorité de contrôle prudentiel et de resolution” – ACPR) cho rằng việc nhận tiền từ người mua Bitcoin và chuyển giao tiền này sang cho người bán Bitcoin được coi là một loại hình dịch vụ thanh toán và hoạt động này chỉ được phép thực hiện bởi tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Sở dĩ các quốc gia này cân nhắc việc công nhận Bitcoin là bởi các lợi ích mà Bitcoin mang lại. Cụ thể, thứ nhất, chi phí thực hiện giao dịch bằng Bitcoin sẽ thấp hơn so với các phương thức thanh toán hiện nay như thẻ ngân hàng, bởi lẽ các giao dịch bằng Bitcoin không có sự tham gia của bên thứ ba – tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Thứ hai, tính riêng tư trong các giao dịch bằng Bitcoin cũng là điều hấp dẫn người sử dụng bởi lẽ các giao dịch này thường là những giao dịch ẩn danh nên tránh được nguy cơ thông tin cá nhân của các bên giao dịch bị đánh cắp.[11]
Ở khía cạnh khoa học pháp lý, chúng tôi cho rằng dù là “tiền điện tử”, “tiền ảo” hay “tiền số hóa” thì đều không phải là một loại hình tiền tệ mà chỉ là quyền của chủ tài khoản đối với giá trị tiền tệ được ghi nhận trên “vật”. Điều này hoàn toàn phù hợp với khái niệm “vật quyền” của các nước theo văn hóa pháp lý La mã – Đức. Theo đó, “vật quyền” được hiểu là quyền của một chủ thể đối với một tài sản, cho phép chủ thể trực tiếp thực hiện các quyền năng được pháp luật thừa nhận đối với một tài sản.[12] Trong trường hợp của ví điện tử, vật mang tin được coi là “vật phụ” và vật quyền sẽ bao gồm các quyền có đối tượng là giá trị tiền tệ của một hoặc nhiều tài sản cụ thể. Gọi là “phụ” bởi nó không cho phép người có quyền khai thác lợi ích từ việc tác động lên tình trạng vật chất của tài sản (vật mang tin), mà chỉ được phép khai thác giá trị tiền tệ của tài sản để thỏa mãn yêu cầu thực hiện một nghĩa vụ cũng mang tính chất tiền tệ, theo nguyên tắc bảo đảm tương đương. Các quyền này được gắn với một quyền chủ nợ nhằm tăng cường hiệu lực của quyền chủ nợ đó.[13]
2.Vấn đề pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của khách hàng sử dụng ví điện tử và của đơn vị chấp nhận thanh toán bằng ví điện tử
Hoạt động cung ứng dịch vụ ví điện tử là một quan hệ pháp luật có sự tham gia của nhiều bên, bao gồm: (i) tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử, (ii) ngân hàng thương mại nơi người sử dụng ví điện tử mở tài khoản thanh toán, (iii) người sử dụng dịch vụ ví điện tử, (iv) đơn vị chấp nhận thanh toán bằng ví điện tử. Trong đó, người sử dụng dịch vụ ví điện tử và đơn vị chấp nhận thanh toán bằng ví điện tử bao giờ cũng là những bên yếu thế hơn so với các chủ thể còn lại.
2.1. Đối với khách hàng sử dụng ví điện tử
Thông tư số 39/2014/TT-NHNN đã thiết lập “hàng rào pháp lý” nhằm bảo vệ cho các khách hàng sử dụng ví điện tử. Cụ thể, tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử (và/ hoặc phối hợp với ngân hàng) phải thỏa thuận với khách hàng các vấn đề mấu chốt như: hình thức thanh toán, các loại phí và lệ phí, trình báo những tổn thất, mất mát, cách thức xử lý khiếu nại, chính sách hoàn trả tiền và đặc biệt là quyền và nghĩa vụ của khách hàng.[14] Trên thực tế, để sử dụng dịch vụ ví điện tử, khách hàng phải tiến hành các thủ tục đăng ký với tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử, bằng cách soạn tin nhắn theo cú pháp và gửi về tổng đài, hoặc truy cập vào website chính thức của tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử.
Việc xác lập quan hệ pháp luật giữa khách hàng và tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử sẽ được thực hiện khá đơn giản, thông qua việc khách hàng chấp nhận/ đồng ý với các điều khoản và điều kiện về việc sử dụng dịch vụ ví điện tử. Thông thường, các điều khoản và điều kiện về việc sử dụng dịch vụ ví điện tử là những hợp đồng mẫu do tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử soạn sẵn. Do đó, không loại trừ khả năng, các tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử đã “thiết kế” những điều khoản và điều kiện có lợi cho mình. Bên cạnh đó, khách hàng rất ít khi dành thời gian để đọc kỹ từng điều khoản này, mà tâm lý chung của khách hàng đó là nhanh chóng nhấn nút “chấp thuận/ đồng ý” để được sử dụng dịch vụ ví điện tử.
Dưới góc độ pháp lý, việc khách hàng nhấn nút “chấp thuận/ đồng ý” cũng coi như khách hàng đã chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng[15] với tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử. Do đó, hợp đồng này có giá trị pháp lý tương tự như hợp đồng bằng văn bản, dù rằng hợp đồng này là hợp đồng điện tử, được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu.[16] Như vậy, khách hàng (người sử dụng dịch vụ ví điện tử) vẫn có thể phải đối mặt với những rủi ro pháp lý liên quan đến việc sử dụng ví điện tử.
Rủi ro pháp lý liên quan đến việc sử dụng ví điện tử có thể xảy ra đối khách hàng bao gồm hai dạng, đó là (i) rủi ro về đạo đức và (ii) rủi ro do kỹ thuật.
Thứ nhất, rủi ro về đạo đức như trường hợp nhân viên của tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử câu kết với nhân viên của ngân hàng thương mại nơi khách hàng mở tài khoản thanh toán, dùng các số liệu giả hoặc các thủ thuật trên mạng điện tử để rút/ chiếm dụng tiền trong ví điện tử của khách hàng. Trường hợp này rõ ràng là các nhà làm luật cũng như các bên trong quan hệ pháp luật về dịch vụ ví điện tử chưa đề cập. Do đó, thiết nghĩ, cần phải có quy định điều chỉnh về vấn đề này nhằm hạn chế tối đa rủi ro cho khách hàng.
Thứ hai, rủi ro do kỹ thuật như trường hợp, tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử phải bồi thường thiệt hại cho khách hàng do lỗi kỹ thuật của hệ thống, lỗi để lộ thông tin khách hàng và các lỗi khác của tổ chức cung ứng dịch vụ. Tuy nhiên, làm sao để xác định được các lỗi này của tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử cũng là một vấn đề, bởi lẽ các tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử hoàn toàn có thể sử dụng các thủ thuật trên mạng điện tử để “che lấp” các lỗi này trước khách hàng và Ngân hàng Nhà nước.
Theo chúng tôi, rủi ro để lộ thông tin khách hàng là rủi ro nghiêm trọng nhất, bởi lẽ, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật hiện nay, các “tin tặc” hoàn toàn có thể sử dụng các thông tin này để “trộm cắp tiền” trong ví điện tử của khách hàng. Nguy hiểm hơn, các “tin tặc” cũng có thể sử dụng các thông tin trên ví điện tử của khách hàng để “tiếp cận” với thông tin tài khoản thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại. Lúc này, khách hàng không chỉ đối mặt với nguy cơ mất “tiền” trong ví điện tử mà còn là mất “tiền” trong tài khoản thanh toán tại ngân hàng.
Bên cạnh đó, rủi ro liên quan đến lỗi kỹ thuật của hệ thống cũng là vấn đề mà khách hàng sử dụng dịch vụ ví điện tử cần phải cân nhắc. Khi hệ thống có sự cố, nó không chỉ ảnh hưởng đến riêng một khách hàng, đến riêng một ngân hàng hay tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử, mà nó còn ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của đơn vị chấp nhận thanh toán bằng ví điện tử và các khách hàng khác cũng sử dụng dịch vụ ví điện tử. Do đó, tổn thất xảy ra sẽ rất lớn và khó có khả năng kiểm soát. Chính vì vậy, đảm bảo cho hệ thống vận hành một cách chính xác, liên tục là yêu cầu cấp thiết đối với tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử.
2.2. Đối với đơn vị chấp nhận thanh toán bằng ví điện tử
Đơn vị chấp nhận thanh toán là tổ chức, cá nhân cung cấp hàng hóa, dịch vụ và chấp nhận thanh toán thông qua dịch vụ ví điện tử.[17] Xuyên suốt nội dung của Thông tư số 39/2014/TT-NHNN, chúng ta thấy gần như không có quy định nào để bảo vệ quyền lợi cho họ. Không những vậy, các đơn vị chấp nhận thanh toán khi tham gia vào quan hệ pháp luật liên quan đến hoạt động thanh toán bằng ví điện tử còn bị ràng buộc với tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử bằng cam kết. Theo đó, đơn vị chấp nhận thanh toán không được thu thêm các loại phí đối với khách hàng khi thanh toán bằng ví điện tử dưới bất kỳ hình thức nào. Trường hợp đơn vị chấp nhận thanh toán không tuân thủ cam kết, tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử có trách nhiệm chấm dứt hợp đồng và yêu cầu đơn vị chấp nhận thanh toán bồi thường thiệt hại cho khách hàng hoặc áp dụng các biện pháp thích hợp khác theo các điều khoản cam kết giữa các bên.[18]
Nhìn ở chiều ngược lại, lợi ích mà đơn vị chấp nhận thanh toán bằng ví điện tử có được là họ bán được hàng hóa/ dịch vụ trên mạng điện tử với phương thức thanh toán thuận tiện. Tuy nhiên, vai trò của đơn vị chấp nhận thanh toán bằng ví điện tử (người bán) trong quan hệ pháp luật liên quan đến dịch vụ ví điện tử khá “bị động”. Họ chỉ là bên cung ứng hàng hóa/ dịch vụ, còn các thông tin về khách hàng và ví điện tử của khách hàng thì hầu như chủ yếu chịu sự quản lý của tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử. Do đó, đơn vị chấp nhận thanh toán bằng ví điện tử có nguy cơ phải đối mặt với các rủi ro như: rủi ro do kỹ thuật, rủi ro từ chủ sở hữu ví điện tử, rủi ro thanh toán.
Đầu tiên, lỗi kỹ thuật của hệ thống thanh toán bằng ví điện tử khá đa dạng như đường truyền của sóng điện thoại hoặc internet bị ngắt quãng dẫn đến việc khách hàng không thanh toán được tiền hàng hóa/ dịch vụ. Sau khi khắc phục sự cố kỹ thuật này thì khách hàng cũng đã không còn “mặn mà” việc mua hàng hóa/ dịch vụ đó nữa. Điều này cũng có nghĩa là đơn vị chấp nhận thanh toán đã mất đi cơ hội kinh doanh của mình. Việc ai là người phải chịu trách nhiệm đối với “chi phí cơ hội” này thì Thông tư số 39/2014/TT-NHNN hoàn toàn “im lặng”. Thiết nghĩ, các nhà làm luật nên có quy định trách nhiệm bồi thường của tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử đối với đơn vị chấp nhận thanh toán trong trường hợp này.
Tiếp theo, rủi ro từ chủ sở hữu ví điện tử mà chúng ta dễ nhận thấy nhất đó là trường hợp khách hàng (chủ sở hữu ví điện tử) bị “trộm” ví điện tử và tội phạm đã sử dụng ví điện tử để mua hàng hóa/ dịch vụ. Dựa trên lệnh mua hàng hóa/ dịch vụ, đơn vị chấp nhận thanh toán bằng ví điện tử thực hiện việc giao hàng hóa/ dịch vụ, đồng thời, nhận tiền từ ví điện tử. Tuy nhiên, nếu như chủ sở hữu ví điện tử cho rằng mình bị “trộm”, họ không hề muốn mua hàng hóa/ dịch vụ đó của đơn vị chấp nhận thanh toán bằng ví điện tử và yêu cầu đòi lại số tiền đã thanh toán. Như vậy, lúc này, đơn vị chấp nhận thanh toán bằng ví điện tử liệu có phải hoàn trả số tiền đã thanh toán hay không? Chúng tôi cho rằng, để tránh rủi ro này, đơn vị chấp nhận thanh toán bằng ví điện tử phải áp dụng quy trình quản lý rủi ro để xác thực người mua hàng hóa/ dịch vụ (là chủ sở hữu ví điện tử hay là một bên thứ ba) một cách chặt chẽ nhằm giảm thiểu tỷ lệ chấp nhận các giao dịch “bị nghi ngờ”.
Cuối cùng, rủi ro thanh toán là trường hợp khách hàng đã nhận và sử dụng hàng hóa/ dịch vụ, nhưng khách hàng lại không thanh toán tiền, hoặc khách hàng có thanh toán nhưng thanh toán không đủ tiền. Trong những trường hợp như vậy, các nhà làm luật dường như là để cho các bên tự thỏa thuận với nhau. Điều này có thể xuất phát từ lý do là các nhà làm luật khi xây dựng dự thảo Thông tư số 39/2014/TT-NHNN chủ yếu tập trung vào mối quan hệ giữa tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (bao gồm luôn cả ví điện tử), ngân hàng thương mại và người sử dụng ví điện tử. Chính điều này vô hình trung lại làm cho quyền lợi của đơn vị chấp nhận thanh toán bằng ví điện tử không được bảo vệ. Do đó, chúng tôi đề xuất nên có quy định về vấn đề các trách nhiệm của khách hàng khi sử dụng ví điện tử. Theo đó, một trong các trách nhiệm này là trách nhiệm thanh toán đầy đủ và kịp thời các khoản tiền đối với đơn vị chấp nhận thanh toán bằng ví điện tử.
CHÚ THÍCH
* ThS Luật học, Giảng viên Khoa Luật Thương mại, Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh.
[1] Quyết định số 689/QĐ-TTg phê duyệt chương trình phát triển thương mại điện tử quốc gia giai đoạn 2014 – 2020, được Thủ tướng Chính phủ ban hành vào ngày 11/5/2014, với mục tiêu đưa thương mại điện tử trở thành hoạt động phổ biến, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh quốc gia, từ đó thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
[2] Hình thức thanh toán bằng Ví điện tử sẽ đảm bảo an toàn cho khách hàng nhờ phương thức bảo mật thông tin và tính xác thực của giao dịch, bằng mã xác thực OTP (One Time Password – Mật khẩu dùng một lần). Cơ chế này giúp đảm bảo việc hỗ trợ xử lý khiếu nại và các hỗ trợ khác cho người dùng thông qua kết nối với ví điện tử. Hơn nữa, thanh toán bằng ví điện tử an toàn hơn so với thanh toán bằng thẻ ngân hàng vì việc sử dụng thẻ thanh toán có thể bị hacker xâm nhập và ăn cắp mật khẩu, từ đó dẫn đến việc người dùng có thể bị mất toàn bộ số tiền trong thẻ. Trong khi đó, nếu bị hacker xâm nhập và ăn cắp mật khẩu thì người sử dụng ví điện tử chỉ bị mất số tiền đã chuyển vào ví điện tử, còn tài khoản ngân hàng của khách hàng sẽ không bị ảnh hưởng.
[3] Với một tài khoản đảm bảo thanh toán ví điện tử, người dùng chỉ cần một chiếc điện thoại thông minh (smartphone)/ máy tính và mạng internet là đã có thể thực hiện giao dịch. Xem thêm Hướng dẫn sử dụng ví điện tử MoMo,[https://www.vietinbank.vn/web/export/sites/default/vn/product/ebank/leftblock/download/MOMO/HDSD_Vi_dien_tu_Momo_cho_khach_hang_V2.pdf] (truy cập ngày 02 tháng 08 năm 2015).
[4] Xem thêm Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin (2014), “Báo cáo thương mại điện tử Việt Nam năm 2014”, [http://www.moit.gov.vn/Images/editor/files/Bao%20cao%20TMDT%202014_final.pdf] (truy cập vào ngày 27 tháng 07 năm 2015).
[5] Tiền không tồn tại hữu hình, chỉ thể hiện bằng cách ghi chép trong sổ sách kế toán ngân hàng, được gọi là “tiền ghi sổ”, “bút tệ”, “tiền trên tài khoản”, hoặc “tiền ngân hàng”. Xem thêm Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật Ngân hàng, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, 2013, tr. 392.
[6] Vivian Shum, “Regulating Digital Currencies: A Study on Bitcoin”, Research Project for Emerging Issues/Advanced Topics Course, Diploma in Investigative and Forensic Accounting Program, University of Toronto, 2014, tr. 6 – 16.
[7] European Central Bank, Virtual currency schemes – a further analysis, 2015, tr. 31 – 32.
[8] Điều 163 Bộ luật Dân sự năm 2005.
[9] Ngô Huy Cương, “Những bất cập về khái niệm tài sản, phân loại tài sản của Bộ luật Dân sự năm 2005 và định hướng cải cách”,Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử (truy cập ngày 11 tháng 05 năm 2015).
[10] Khoản 2 Điều 17 Luật Ngân hàng nhà nước năm 2010.
[11] Craig K. Elwell, M. Maureen Murphy, và Michael V. Seitzinger, “Bitcoin: Questions, Answers, and Analysis of Legal Issues”, Congressional Research Service Report(7-5700), 2015, tr. 5 – 6; Vivian Shum, “Regulating Digital Currencies: A Study on Bitcoin”, Research Project for Emerging Issues/ Advanced Topics Course, Diploma in Investigative and Forensic Accounting Program, University of Toronto, 2015, tr. 21 – 24.
[12] Nguyễn Ngọc Điện, “Góp ý sửa đổi Bộ luật Dân sự – Vận dụng lý thuyết vật quyền vào việc hoàn thiện pháp luật về tài sản”, [http://moj.gov.vn/dtblds/Pages/tin-tuc.aspx?ItemID=36] (truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2015).
[13] Tlđd.
[14] Điều 13 Thông tư số 39/2014/TT-NHNN.
[15] Điều 396 Bộ luật Dân sự năm 2005.
[16] Điều 33 và 34 Luật Giao dịch điện tử năm 2005.
[17] Khoản 8 Điều 3 Thông tư số 39/2014/TT-NHNN.
[18] Khoản 13 Điều 13 Thông tư số 39/2014/TT-NHNN.
Tác giả: ThS. Trần Thanh Bình* – Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 03(97)/2016 – 2016, Trang 67-72
Nguồn: Fanpage Luật sư Online – iluatsu.com