Mục lục
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và vấn đề bảo đảm an ninh môi trường ở Việt Nam
Tác giả: ThS. Nguyễn Tuấn Vũ
TÓM TẮT
Thời gian gần đây, hiện tượng ô nhiễm và suy thoái môi trường đã trở nên ngày càng nghiêm trọng. Một trong những biện pháp hữu hiệu hay còn gọi là giải pháp tự nguyện được nhiều quốc gia trên thế giới vận dụng để khuyến khích doanh nghiệp thực hiện các tiêu chuẩn xã hội và môi trường, đó là trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social Responsibility – CSR). Bài viết trình bày về việc tiếp nhận và phổ biến CSR vào vấn đề bảo đảm an ninh môi trường ở Việt Nam.
Xem thêm:
- Cách tiếp cận khoa học đối với vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp theo pháp luật Liên Bang Nga – TS. Morozov Pavel
- Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Khái niệm, các mô hình và kinh nghiệm đối với các doanh nghiệp – PGS.TS. Trần Hoàng Hải
- Bản chất của doanh nghiệp xã hội và cách phân loại pháp nhân theo Bộ luật Dân sự năm 2015 – ThS. Lê Nhật Bảo
- Tác động của việc xây dựng thủy điện trên sông Mekong đến an ninh môi trường của Việt Nam – Một số vấn đề pháp lý đặt ra – TS. Võ Trung Tín & ThS. Ngô Gia Hoàng
- Đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và việc giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực đối với môi trường của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam – ThS. Nguyễn Thị Bích Ngọc
- Truất hữu tài sản nhà đầu tư trong trường hợp làm ô nhiễm môi trường – TS. Trần Việt Dũng
- Về nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền – Kinh nghiệm nước ngoài và những vấn đề pháp lý đặt ra đối với Việt Nam – TS. Võ Trung Tín
- Một số điểm mới của Luật Bảo vệ môi trường 2014 – TS. Võ Trung Tín
TỪ KHÓA: Bảo vệ môi trường, Doanh nghiệp xã hội
1. Mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp với vấn đề bảo đảm an ninh môi trường
Đối tượng quan tâm chính của doanh nghiệp ngày nay không dừng lại ở kết quả kinh tế, mà các doanh nghiệp, với tư cách là tác nhân chính của hoạt động kinh tế, bắt buộc phải quan tâm cả đến cách thức hành xử lẫn hành vi của mình đối với xã hội loài người và môi trường tự nhiên. Xã hội hiện đại đòi hỏi doanh nghiệp không chỉ chú trọng đến mục đích sinh lợi trong kinh doanh, mà còn phải thể hiện trách nhiệm đối với xã hội và môi trường. Lý do đơn giản là doanh nghiệp không thể tồn tại và phát triển nếu tách rời các nhân tố này. Nhiều công ty lớn trên thế giới xem đây là chìa khóa để phát triển bền vững và khẳng định chỗ đứng của họ trên thương trường.
Thuật ngữ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) đã xuất hiện từ lâu và được áp dụng rộng rãi bởi cộng đồng doanh nghiệp ở nhiều nước phát triển. CSR còn được gọi với các thuật ngữ tương đồng khác như “lương tâm của doanh nghiệp” (corporate conscience), “tư cách công dân của doanh nghiệp” (corporate citizenship) hoặc “kinh doanh có trách nhiệm” (responsible business).[1] CSR là một hình thức tự điều chỉnh của doanh nghiệp, được lồng ghép vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, bằng việc doanh nghiệp theo dõi và bảo đảm hoạt động của mình tuân thủ nghiêm ngặt quy định của pháp luật, các tiêu chuẩn đạo đức, các tiêu chuẩn quốc gia hay quốc tế khác.[2] Hiện nay, CSR đang dần trở thành một triết lý mới của doanh nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp thành lập, hoạt động không chỉ vì lợi nhuận, mà còn góp sức vào việc nâng cao chất lượng sống của người dân cũng như bảo vệ môi trường để quốc gia, địa phương nơi doanh nghiệp hoạt động phát triển bền vững.[3]
Vấn đề đặt ra là CSR có phải là một trách nhiệm pháp lý mang tính bắt buộc hay không? Có nghiên cứu cho rằng, CSR không phải là pháp luật hiểu theo nghĩa truyền thống, nhưng những “nghĩa vụ pháp lý” này của doanh nghiệp áp dụng CSR thuộc nội dung của một loại pháp luật khác: “pháp luật mềm” (soft law). Đây là một loại pháp luật không do các cơ quan có thẩm quyền ban hành theo thủ tục nhất định nhưng nó vẫn bao gồm các quy tắc xử sự, được thực hiện theo những phương pháp đa dạng và mềm dẻo.[4] Tuy nhiên, ở các nước châu Âu, CSR không được xem là trách nhiệm tự nguyện của các doanh nghiệp, mà có sự can thiệp từ nhà nước. CSR được quy định mang tính bắt buộc bởi pháp luật quốc gia, thông qua các quy định, các tiêu chuẩn mà các doanh nghiệp phải đáp ứng. Ngược lại ở Mỹ, các nước Mỹ Latin và các nước châu Phi sử dụng tiếng Anh thì CSR lại mang tính tự nguyện.[5] Như vậy, CSR là tự nguyện hay bắt buộc sẽ phụ thuộc vào chính sách và pháp luật mỗi quốc gia.
CSR được thể hiện một cách cụ thể thông qua các yếu tố cơ bản như bảo vệ môi trường, đóng góp cho cộng đồng xã hội, thực hiện tốt trách nhiệm với nhà cung cấp, bảo đảm lợi ích và quyền lợi cho người tiêu dùng, quan hệ tốt với người lao động, bảo đảm lợi ích cho cổ đông và người lao động trong doanh nghiệp. Hiện nay, trên thế giới có khoảng trên 1000 bộ quy tắc ứng xử (Code of Conduct – gọi tắt là CoC) do các tổ chức phi chính phủ và các tập đoàn đa quốc gia xây dựng nhằm quy định các nguyên tắc chính về trách nhiệm xã hội thực hiện ở các cơ quan, doanh nghiệp.[6]
Trách nhiệm đối với môi trường (hay những hoạt động tương tự thể hiện thái độ tích cực đối với môi trường) là một cấu thành căn bản của CSR, đóng vai trò quan trọng trong chiến lược bảo đảm an ninh môi trường, bền vững và thịnh vượng của nhiều quốc gia trên thế giới. Về cơ bản, trách nhiệm đối với môi trường từ khía cạnh CSR được thiết lập bởi những cơ sở sau:
Một là, doanh nghiệp tồn tại phụ thuộc vào môi trường. Lý thuyết về sự phụ thuộc vào nguồn tài nguyên (Resource Dependence Theory) cho rằng tổ chức của các chủ thể phụ thuộc vào môi trường mà nó đang hoạt động.[7] Các hoạt động của doanh nghiệp như sản xuất, phân phối và tiêu thụ cũng diễn ra trên các nền tảng vật chất của môi trường. Nếu như không có nguyên liệu, vật liệu, năng lượng… từ môi trường thì doanh nghiệp không thể sản xuất để phân phối tới người tiêu dùng. Ngoài ra, hoạt động của doanh nghiệp thường tác động tiêu cực tới môi trường hơn là tác động tích cực. Thậm chí sự tác động còn gây ra hiện tượng suy thoái và sự cố môi trường trầm trọng, ảnh hưởng đến sức chịu đựng và khả năng phục hồi của môi trường.[8]
Hai là, môi trường mang tính hữu hạn. Hệ thống môi trường bao gồm các thành phần có chức năng cơ bản là nguồn cung cấp tài nguyên cho con người, là nơi chứa đựng phế thải, là không gian sống cho con người. Các khả năng này của hệ thống môi trường là hữu hạn.[9] Đặc biệt, việc khai thác và sử dụng các loại tài nguyên quá mức có thể làm cho chúng rơi vào tình trạng cạn kiệt, khan hiếm hoặc khủng hoảng.[10]
Ba là, bảo vệ môi trường là nghĩa vụ của “mọi người”.[11] Trước đây, Chính phủ các nước thường đảm nhận trách nhiệm chính trong việc quản lý và bảo vệ môi trường. Chính phủ yêu cầu khu vực tư nhân phải ứng xử lành mạnh với môi trường dựa trên quyền lực của mình. Khi các sự cố môi trường phát sinh, Chính phủ là chủ thể chính gánh vác trách nhiệm khắc phục và cải tạo. Tuy nhiên, hiện nay tư duy này đã thay đổi, khu vực tư nhân mới là đối tượng tích cực và quan trọng trong hoạt động bảo vệ môi trường.[12] Nguyên tắc 1 trong Tuyên bố của Hội nghị Liên hợp quốc về môi trường con người ở Stockholm năm 1972 nêu rõ: “con người có quyền cơ bản được tự do, bình đẳng và đầy đủ các điều kiện sống, trong một môi trường chất lượng cho phép cuộc sống có phẩm giá và phúc lợi mà con người có trách nhiệm trong bảo vệ và cải thiện cho các thế hệ hôm nay và mai sau”. Hiến pháp năm 2013 cũng thể hiện rõ ràng tinh thần này: “mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”.
2. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong lĩnh vực môi trường ở Việt Nam
2.1. Các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với môi trường
Ở Việt Nam, CSR còn khá xa lạ với văn hóa quản trị doanh nghiệp, cũng như chưa được nhận thức một cách chính xác cả về nội hàm lẫn giá trị tích cực của nó. Để góp phần phổ cập rộng rãi trách nhiệm xã hội, Bộ Khoa học và Công nghệ đã công bố Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 26000:2013 Hướng dẫn về trách nhiệm xã hội (ISO 26000:2013) theo đề nghị của Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng.[13] ISO 26000:2013 cung cấp hướng dẫn về các nguyên tắc cơ bản của trách nhiệm xã hội, thừa nhận trách nhiệm xã hội và sự gắn kết với các bên liên quan, các chủ đề cốt lõi và các vấn đề gắn với trách nhiệm xã hội cũng như cách thức tích hợp hành vi trách nhiệm xã hội vào doanh nghiệp. Tiêu chuẩn này được khuyến khích thực hiện để doanh nghiệp trở nên có trách nhiệm xã hội hơn.
Đối tượng được khuyến nghị áp dụng là mọi loại hình tổ chức ở các khu vực tư nhân, khu vực công và phi lợi nhuận, quy mô lớn hay nhỏ, hoạt động ở các quốc gia phát triển hay đang phát triển (chủ yếu là doanh nghiệp). Tuy nhiên, lưu ý rằng, không phải tất cả các nội dung của tiêu chuẩn được sử dụng như nhau cho mọi doanh nghiệp. Theo đó, mỗi doanh nghiệp sẽ tự xác định nội dung nào có liên quan trong các vấn đề cốt lỗi của tiêu chuẩn, thực sự có ý nghĩa đối với doanh nghiệp đó để áp dụng.
Theo ISO 26000:2013, trách nhiệm về môi trường của doanh nghiệp là ngoài việc phải tuân thủ luật và quy định của Nhà nước, doanh nghiệp cần thừa nhận trách nhiệm đối với các tác động môi trường do các hoạt động của doanh nghiệp gây ra cho các khu vực thành thị hoặc nông thôn và môi trường rộng hơn. Thừa nhận những giới hạn về sinh thái, tổ chức cần có hành động nhằm cải thiện hoạt động của mình cũng như của các doanh nghiệp khác trong phạm vi ảnh hưởng của doanh nghiệp. Đây là điều kiện tiên quyết đối với sự sống còn và thịnh vượng của loài người.
ISO 26000:2013 quy định bốn vấn đề cốt lõi về trách nhiệm môi trường là: (i) phòng ngừa ô nhiễm; (ii) sử dụng nguồn lực bền vững; (iii) giảm nhẹ và thích nghi với biến đổi khí hậu; và iv. bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học và khôi phục môi trường sống tự nhiên. Mỗi vấn đề đều có mô tả hiện trạng cơ bản và có đưa ra các khuyến nghị mong đợi ở doanh nghiệp, mặc dù không chi tiết hóa nhưng vẫn thể hiện được những đòi hỏi mang tính chuẩn mực thuộc về trách nhiệm của doanh nghiệp. Điều đặc biệt là ISO 26000:2013 thiết kế các tiêu chuẩn môi trường trên cơ sở kế thừa, dẫn chiếu hoặc hài hòa từ các tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế và điều ước quốc tế về môi trường.[14] Do đó, ISO 26000:2013 chính là một dạng “luật mềm”, áp dụng nó sẽ giúp doanh nghiệp có thể vừa tuân thủ một cách tương đối các quy định của pháp luật môi trường, vừa thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp đối với xã hội.
2.2. Đánh giá thực trạng trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với môi trường
Nhìn chung, các tiêu chuẩn CSR về môi trường khá tiệm cận với các nguyên tắc, mục đích và phạm vi điều chỉnh của pháp luật môi trường hiện hành. Thực chất, bản thân pháp luật về môi trường cũng đã phát triển cả về nội dung lẫn hình thức, điều chỉnh đầy đủ các yếu tố tạo nên thành phần môi trường. Hệ thống các tiêu chuẩn môi trường, quy chuẩn kỹ thuật môi trường cũng được ban hành, làm cơ sở pháp lý cho việc xác định trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ thể trong việc bảo vệ môi trường.[15] Các nội dung về tiêu chuẩn môi trường theo ISO 26000:2013 đều là các vấn đề pháp lý của pháp luật môi trường hiện hành. Điều này cũng cho thấy rằng, nếu doanh nghiệp tuân thủ một cách nghiêm túc các quy định của pháp luật môi trường thì cũng chính là thể hiện trách nhiệm của mình đối với môi trường.
Ở Việt Nam, CSR thường được các doanh nghiệp nhận thức theo nghĩa “truyền thống”, như một hoạt động tham gia giải quyết các vấn đề mang tính nhân đạo và từ thiện.[16] Trong chính sách CSR, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) được Chính phủ giao trách nhiệm làm đầu mối triển khai các hoạt động phát triển bền vững đối với doanh nghiệp, trong đó chú trọng đến việc hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện tốt CSR. Vì vậy, từ năm 2005, VCCI đã cùng với một số bộ, ngành như Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Công thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức “Giải thưởng trách nhiệm xã hội doanh nghiệp” nhằm tôn vinh các doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (lần trao giải gần đây nhất là vào năm 2012).[17] Như vậy, xu hướng áp dụng mô hình CSR đã chính thức được các doanh nghiệp Việt Nam tiếp nhận hơn 10 năm trở lại đây.
Trong thời gian gần đây, hiện tượng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường liên tiếp xảy ra, cho thấy nhiều doanh nghiệp vẫn chưa nhận thức được trách nhiệm của mình đối với môi trường. Đặc biệt, trong năm 2016 xảy ra 07 sự cố môi trường nghiêm trọng như sự cố môi trường biển miền Trung do nước thải công nghiệp của Công ty Formosa (Hà Tĩnh); ô nhiễm nước sông Bưởi (Thanh Hóa) do nước thải sản xuất chưa qua xử lý xả ra môi trường; ô nhiễm nước sông Cẩm Đàn (Bắc Giang) do nước thải khai thác khoáng sản chưa qua xử lý xả thải vào sông; cá chết trên diện rộng tại Hồ Tây (Hà Nội); ô nhiễm môi trường do vỡ hồ chứa nước và bùn thải khai thác Titan tại Bình Thuận.[18] Ngoài ra, các báo cáo về hiện trạng môi trường quốc gia hàng năm do Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố đều cho thấy tình trạng môi trường trong cả nước đang ngày càng xấu đi và phần lớn đều nảy sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.[19] Như vậy, trên thực tế, mức độ nhận thức cũng như ứng xử đối với môi trường của nhiều doanh nghiệp chưa phù hợp với các yêu cầu của pháp luật môi trường và CSR.
3. Một số vấn đề đặt ra và giải pháp hoàn thiện
Thứ nhất, mục tiêu kinh tế tạo ra nhiều trở ngại đối với việc tiếp nhận CSR
Hiện nay, phát triển bền vững, trong đó thịnh vượng về kinh tế cần phải đi đôi với phát triển bền vững về môi trường, là một xu thế tất yếu mà hầu hết các quốc gia trong đó có Việt Nam đang theo đuổi.[20] Tuy nhiên, phát triển kinh tế và bảo đảm an ninh môi trường liệu rằng có thể tồn tại song song với nhau hay không?
Ở Việt Nam, sau thời kỳ đổi mới, các nguồn lực quan trọng được tập trung vào mục tiêu phát triển kinh tế đất nước, trong đó chú trọng thu hút các nguồn vốn đầu tư từ trong và ngoài nước. Quyền tự do kinh doanh cũng được ghi nhận, mở rộng và bảo đảm thực thi, tạo nên một môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, thuận lợi. Vì lẽ đó, kinh tế Việt Nam có nhiều khởi sắc, duy trì được tốc độ tăng trưởng tương đối cao. Thành quả này một phần xuất phát từ việc đa dạng hóa về chính sách và biện pháp thu hút đầu tư, đặc biệt là thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Tuy nhiên, chính vì quá đặt nặng mục tiêu kinh tế, Việt Nam đang phải gánh chịu nhiều hậu quả tiêu cực từ hiện tượng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường từ khu vực doanh nghiệp. Tình trạng các doanh nghiệp liên tục gây ra nhiều sự cố môi trường nghiêm trọng trong thời gian gần đây đã đặt ra những lo ngại rằng chính sách và pháp luật của nước ra chưa tương thích với vấn đề bảo đảm an toàn và an ninh cho hệ thống môi trường quốc gia. Nghiêm trọng hơn là có nguy cơ đe dọa tới cả sự ổn định lâu dài về kinh tế, xã hội, chính trị, an ninh quốc gia và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Như vậy, trên thực tế, bản thân vấn đề phát triển kinh tế và bảo đảm an ninh môi trường đã phát sinh những xung đột thật sự. Theo lẽ thường, các doanh nghiệp ra đời đã đặt nặng vấn đề lợi nhuận. Các doanh nghiệp sẵn sàng sử dụng mọi cách thức để đạt được mục đích này. Tuy vậy, nếu như Nhà nước tăng cường sức ép lên các doanh nghiệp bằng các biện pháp về chính sách và pháp lý quá khắt khe thì có thể phải gánh chịu những phản ứng tiêu cực từ phía doanh nghiệp. Hậu quả là nhiều vấn đề tiêu cực phát sinh như hiện tượng thoái vốn, gánh nặng giải quyết công ăn việc làm, thực hiện chính sách phúc lợi xã hội, an ninh trật tự. Do đó, có thể nhận định rằng, việc truyền tải tinh thần tự nguyện trong thực hiện trách nhiệm xã hội đối với lĩnh vực môi trường ở Việt Nam sẽ là một công việc vô cùng khó khăn và phức tạp. Chính vì lẽ đó, nhiệm vụ mấu chốt đặt ra cho Nhà nước và các nhà hoạch định chính sách trong thời điểm hiện tại là phải nhanh chóng tìm ra giải pháp khả thi để cân bằng, hài hòa giữa việc phát triển kinh tế đất nước với vấn đề bảo đảm an ninh môi trường. Theo chúng tôi, đây cũng là nền tảng cho việc thiết kế và xây dựng mô hình CSR hướng đến môi trường ở Việt Nam trong tương lai, góp phần bảo đảm sự thịnh vượng và bền vững cả về kinh tế lẫn môi trường quốc gia.[21]
Thứ hai, cần nhìn nhận CSR là một giải pháp tích cực trong mục tiêu bảo đảm an ninh môi trường quốc gia
Một là, ở khía cạnh lập pháp, ở Việt Nam, CSR không “chính danh” là một dạng trách nhiệm pháp lý. Tuy nhiên, về bản chất, trách nhiệm pháp lý là một bộ phận không thể thiếu của CSR. Trách nhiệm tuân thủ các quy định của pháp luật chính là một phần của bản “cam kết” giữa doanh nghiệp và xã hội. Nhà nước có trách nhiệm tích hợp các quy tắc xã hội, đạo đức vào văn bản luật, để doanh nghiệp theo đuổi mục tiêu kinh tế trong khuôn khổ của pháp luật một cách công bằng, đáp ứng được các chuẩn mực và giá trị cơ bản mà xã hội mong đợi.[22] Chính vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật môi trường cũng là cách thức phổ biến CSR vào cộng đồng doanh nghiệp.
Hai là, ở khía cạnh minh bạch hóa thông tin, thực tế cho thấy, hiện trạng môi trường đang ngày càng xấu đi. Tuy nhiên, các báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia hàng năm được Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố lại phản ánh các thông tin, số liệu cũng như đưa ra những đánh giá khá chung chung, sơ sài. Theo chúng tôi, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần phải chỉ đạo xây dựng các chuẩn mực cho bản báo cáo, nhằm phản ánh khách quan và chính xác về tình hình môi trường, đặc biệt là các thông tin về danh sách các doanh nghiệp gây ảnh hưởng xấu đến môi trường, mức độ ảnh hưởng, nguyên nhân từ đâu, cơ quan/ cá nhân quản lý nào chịu trách nhiệm…[23] Có như vậy, Nhà nước và người dân mới đủ cơ sở để đánh giá được mức độ hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ môi trường và mức độ thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Ba là, ở khía cạnh hỗ trợ doanh nghiệp, hiện nay, VCCI là cơ quan đầu mối thúc đẩy và bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của cộng đồng doanh nghiệp. VCCI có nhiệm vụ tổ chức các hoạt động tuyên truyền, vận động các doanh nghiệp thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật, nâng cao trách nhiệm xã hội, đạo đức và văn hóa kinh doanh, bảo vệ môi trường và tham gia các hoạt động xã hội khác phù hợp với mục tiêu của VCCI.[24] Do đó, cơ quan này có vai trò rất lớn trong việc xây dựng mô hình CSR thân thiện với môi trường tại Việt Nam.
Theo chúng tôi, công tác hỗ trợ doanh nghiệp cần được chú trọng các vấn đề quan trọng sau đây: (i) tuyên truyền và phổ biến cho doanh nghiệp về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với môi trường, đặc biệt là các tiêu chuẩn về môi trường của ISO 26000:2013 và các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường; (ii) xem xét xây dựng và thiết lập một hệ thống đánh giá về mức độ thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong cả nước, trong đó không thể thiếu các tiêu chí về bảo vệ, bảo tồn và cải tạo môi trường; (iii) phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xây dựng một cơ chế đối thoại trực tiếp giữa người dân với doanh nghiệp đối với các dự án có nguy cơ đe dọa đến môi trường sống của người dân, đặc biệt là các dự án phải thực hiện đánh giá môi trường chiến lược hoặc đánh giá tác động môi trường. Cơ chế đối thoại này có thể thu thập được những phản hồi quan trọng từ phía người dân, giúp cho cơ quan quản lý nhà nước lẫn doanh nghiệp có thể đánh giá toàn diện và hiệu quả hơn về hiện trạng môi trường nơi thực hiện dự án.
Như vậy, nghiên cứu và phổ biến rộng rãi trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với môi trường không dừng lại ở việc kêu gọi sự tự nguyện của doanh nghiệp theo cách làm truyền thống mà phải là sự kết hợp hài hòa nhiều biện pháp tích cực khác nhau. Mỗi biện pháp được sử dụng phải có đóng góp tích cực vào mục tiêu bảo đảm an ninh môi trường quốc gia.
Thứ ba, doanh nghiệp cần thiết đưa CSR vào văn hóa quản trị doanh nghiệp
CSR là phạm trù nằm trong đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp kinh doanh không có trách nhiệm với xã hội và môi trường thì trong nhiều trường hợp, họ phải đối mặt với khó khăn trong khâu phân phối và tiêu thụ sản phẩm.
Hiện nay, người tiêu dùng tại các nước châu Âu, Mỹ và các quốc gia phát triển khác không chỉ dành sự quan tâm của mình về chất lượng sản phẩm, mà còn coi trọng cả cách thức các công ty làm ra sản phẩm đó, có thân thiện với môi trường sinh thái, cộng đồng, nhân đạo và lành mạnh hay không.[25] Ở Việt Nam, Công ty Vedan đã có hành vi xả chất thải ra sông Thị Vải (tỉnh Đồng Nai) trong nhiều năm liền. Sau khi hành vi xả thải bị phát hiện, công ty này phải gánh chịu các trách nhiệm pháp lý đối với Nhà nước, đồng thời còn phải đối mặt với hiệu ứng tẩy chay sản phẩm từ phía người tiêu dùng trong một thời gian dài.[26]
Ở phương diện lợi ích, nếu doanh nghiệp xem CSR là cơ hội, mục đích tự thân thì nó sẽ là một công cụ để hỗ trợ hiệu quả cho doanh nghiệp, chứ không phải là một gánh nặng về chi phí hay là áp lực từ phía Nhà nước và xã hội. Các lợi ích này khá đa dạng như: giảm thiểu chi phí và đạt hiệu quả cao trong sản xuất, nâng cao giá trị thương hiệu và uy tín trên thị trường, thu hút được nhân tài, tăng khả năng cạnh tranh… Mặt khác, xu thế tất yếu của xã hội hiện đại thường đòi hỏi doanh nghiệp phải tự nhận thức và áp dụng CSR vào chiến lược sản xuất, kinh doanh của mình, nhằm phổ biến tinh thần trách nhiệm xã hội vào cộng đồng.
Nhiệm vụ bảo đảm an ninh môi trường sẽ là một vấn đề nan giải đối với Nhà nước nếu như không được sự đồng thuận từ phía cộng đồng doanh nghiệp. Trách nhiệm xã hội nói chung và trách nhiệm môi trường nói riêng rất cần được các doanh nghiệp Việt Nam tiếp nhận với tư cách là triết lý kinh doanh và quản trị bền vững.
CHÚ THÍCH
[1] Michael Fontaine, “Corporate Social Responsibility and Sustainability: The New Bottom Line?”, International Journal of Business and Social Science, Vol. 04, 2013, tr. 110.
[2] Andreas Rasche – Mette Morsing – Jeremy Moon, Corporate Social Responsibility: Strategy, Communication, Governance, Cambridge University Press, 2017, tr. 6.
[3] Trần Hoàng Hải, “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Khái niệm, các mô hình và kinh nghiệm đối với các doanh nghiệp”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 7/2016, tr. 5.
[4] Nguyễn Như Phát, “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Một số vấn đề lý luận”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7/2013, tr. 34.
[5] Trần Hoàng Hải, tlđd, tr. 6.
[6] Lê Thanh Hà, Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, 2009, tr. 23.
[7] Michel Capron – Françoise Lanoizelée Quairel, La responsabilité sociale d’entreprise, Éditeur: La Découverte, 2007, dịch bởi Lê Minh Tiến – Phạm Như Hồ, Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, Nxb. Tri thức, 2009, tr. 66.
[8] Trung tâm Quan trắc môi trường, “Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia”, http://quantracmoitruong.gov.vn/VN/BAOCAO_Content/tabid/356/Cat/101/nfriend/1020001/language/vi-VN/Default.aspx, truy cập ngày 01/03/2018.
[9] Trường Đại học Kinh tế quốc dân, (Nguyễn Thế Chinh, chủ biên), Giáo trình Kinh tế và Quản lý môi trường, Nxb. Thống kê, 2003, tr. 26.
[10] Peter Barnes, Capitalism 3.0: A Guide to Reclaiming the Commons, Berrett-Koehler Publishers, 2006, tr. 3.
[11] Theo nghĩa này, doanh nghiệp là mô hình sản xuất, kinh doanh do con người tạo ra và cũng vận hành dựa vào những con người cụ thể.
[12] Piotr Mazurkiewicz, Corporate environmental responsibility: Is a common CSR framework possible?,Washington, DC: World Bank, 2004, tr. 2-3.
[13] ISO 26000:2013 được ban kèm Quyết định số 2699/QĐ-BKHCN ngày 30/8/2013 của Bộ Khoa học và Công nghệ.
[14] Thư mục tài liệu tham khảo của ISO 26000:2013.
[15] Võ Trung Tín, “Một số đánh giá về pháp luật môi trường Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 08/2017, tr. 19.
[16] Phạm Thị Tuyết, “Ô nhiễm môi trường – Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, số 5/2012.
[17] Xem: http://vbli.com.vn/detail.asp?id=108, truy cập ngày 2/1/2018.
[18] Báo cáo sự cố môi trường nổi cộm trong năm 2016 và một số bài học kinh nghiệm, http://nilp.vn/Portals/0/VT_Articles/2014/Baocao_tacdongMT_2016_Phu.pdf, truy cập ngày 3/3/2018.
[19] Phổ biến như hiện tượng đất đai bị xói mòn, thoái hóa. Chất lượng các nguồn nước suy giảm mạnh, không khí ở nhiều đô thị, khu dân cư bị ô nhiễm nặng. Khối lượng phát sinh và mức độ độc hại của chất thải ngày càng tăng. Tài nguyên thiên nhiên trong nhiều trường hợp bị khai thác quá mức, không có quy hoạch. Đa dạng sinh học bị đe dọa nghiêm trọng. Điều kiện vệ sinh môi trường, cung cấp nước sạch ở nhiều nơi không bảo đảm…
[20] Nguyễn Thanh Tú – Lê Thị Ngọc Hà – Nguyễn Thị Nhung, “Bảo vệ môi trường từ góc độ giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và Nhà nước: Kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 3/2017, tr. 3.
[21] Ở nhiều nước phát triển như Mỹ, Anh và một số nước châu Âu, Chính phủ và các doanh nghiệp của họ thường tìm cách hội nhập ba mục tiêu lớn là kinh tế, xã hội và môi trường lại với nhau và coi đây là chiến lược phát triển bền vững và lâu dài.
[22] Nguyễn Ngọc Thắng, Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015, tr. 20.
[23] Theo Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong phạm vi cả nước, còn Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường.
[24] Điều lệ của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam ban kèm Quyết định số 123/2003/QĐ-TTg ngày 12/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê chuẩn Điều lệ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
[25] Nguyễn Ngọc Thắng, “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Một số vấn đề lý thuyết và gợi ý chiến lược cho doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 2/2014, tr. 23.
[26] Tiểu Phương, “Người tiêu dùng quay lưng với các sản phẩm của Vedan”, Báo điện tử VTC New, truy cập ngày 4/3/2018.
- Tác giả: ThS. Nguyễn Tuấn Vũ
- Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 06(118)/2018 – 2018, Trang 42-49
- Nguồn: Fanpage Tạp chí Khoa học pháp lý
Trả lời