Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin môi trường ở Việt Nam
Tác giả: TS. Thái Thị Tuyết Dung
TÓM TẮT
Quyền tiếp cận thông tin nói chung và thông tin về môi trường nói riêng được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và nhiều văn bản khác. Tuy nhiên, quyền này vẫn chưa được bảo đảm thực hiện trong thực tiễn do thiếu một hệ thống các quy định có tính khả thi như: thủ tục cung cấp thông tin, cơ chế phối hợp chia sẻ thông tin, chưa có chế tài áp dụng khi nhiều chủ thể vi phạm các quy định về cung cấp thông tin, tiếp cận thông tin. Bài viết tập trung phân tích các quy định về quyền tiếp cận thông tin môi trường ở Việt Nam, thực tiễn áp dụng và đưa ra một số kiến nghị.
Xem thêm:
- Một số vấn đề về quyền tiếp cận thông tin môi trường – ThS. Nguyễn Hoàng Thùy Trang
- Quyền tiếp cận thông tin của người nộp thuế – ThS. Nguyễn Thị Hoài Thu
- Quyền và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong Luật quốc tế, Luật nước ngoài và Luật Việt Nam – PGS.TS. Phan Huy Hồng
- Quyền tiếp cận thông tin tín dụng của công ty thông tin tín dụng ở Việt Nam – TS. Phan Thị Thành Dương
- Bàn về tên gọi của “Quyền tiếp cận thông tin” trong Hiến pháp 2013 – ThS. Nguyễn Lan Hương
TỪ KHÓA: Quyền tiếp cận thông tin,
1. Pháp luật về quyền tiếp cận thông tin môi trường
Quyền tiếp cận thông tin về môi trường được pháp luật quốc tế ghi nhận trong những văn bản như: Tuyên bố Rio về môi trường và phát triển năm 1992,[1] Nghị quyết 1087 (1996) về hậu quả của thảm họa Chernobyl năm 1996 của Nghị viện của Hội đồng châu Âu có nội dung thừa nhận quyền tiếp cận thông tin môi trường là quyền cơ bản của con người, Công ước về tiếp cận thông tin, tham gia của công chúng vào quá trình ra quyết định và tiếp cận công lý đối với các vấn đề môi trường (hay còn gọi là Công ước Aarhus) 1998, Chỉ thị 2003/4/EC của Nghị viện châu Âu và Hội đồng Liên minh châu Âu năm 2003 về tiếp cận thông tin môi trường của công chúng. Trong các văn kiện này, Công ước Aarhus 1998 là văn bản thừa nhận rõ nhất về quyền tiếp cận thông tin môi trường, trong đó nêu rõ: “Thông tin công khai và bảo đảm quyền tiếp cận công bằng sẽ giảm thiểu sự độc quyền và lũng đoạn thông tin, nâng cao trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo vệ quyền con người”, Điều 4 và Điều 5 của công ước ghi nhận: “Công chúng có quyền được yêu cầu cung cấp thông tin mà các cơ quan có thẩm quyền nắm giữ, khi được yêu cầu, các cơ quan có thẩm quyền phải cung cấp thông tin); các cơ quan có thẩm quyền phải thu thập, sắp xếp, xử lý và chủ động phổ biến thông tin về môi trường”.
Quyền tiếp cận thông tin về môi trường còn đảm bảo cho những quyền cơ bản gắn liền với môi trường như quyền được sống trong môi trường trong sạch[2] được thực hiện trên thực tế, bởi vì, nếu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không cung cấp thường xuyên các số liệu về khu vực ô nhiễm môi trường, mức độ ô nhiễm không khí, sự trong sạch của các nguồn nước thì người dân có thể không biết họ đang sống trong một môi trường bị ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm không khí, hoặc các nguồn nước uống có chứa các chất độc hại…
Ở nước ta, quyền tiếp cận thông tin là một khái niệm gắn liền với đổi mới ở Việt Nam và được xác lập lần đầu tiên trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa được thông qua tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991). Thể chế hóa đường lối của Đảng, đến nay quyền tiếp cận thông tin của công dân và cơ chế bảo đảm quyền này được thể hiện ngày càng cao trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa Hiến pháp năm 1992 công nhận đây là một quyền công dân cơ bản. Tiếp cận thông tin về môi trường được cụ thể hóa trong nhiều văn bản nhưng thể hiện rõ nhất là những quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 về nghĩa vụ công khai thông tin và quyền yêu cầu cung cấp thông tin của các bên liên quan như cơ quan quản lý các cấp, doanh nghiệp, người dân, các tổ chức xã hội.
Nội dung quyền tiếp cận thông tin về môi trường được thể hiện qua các nội dung sau:
– Thông tin về môi trường: Điều 3 và Điều 128 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 xác định thông tin môi trường gồm số liệu, dữ liệu về thành phần môi trường, các tác động đối với môi trường, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường, hoạt động bảo vệ môi trường dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự. Quy định này bao quát nhưng khó xác định loại thông tin môi trường nào được phép tiếp cận, được công khai.
Trong khi đó, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 quy định về việc tiếp cận thông tin nói chung trong đó có thông tin về môi trường, đó là công dân được tiếp cận thông tin của cơ quan nhà nước, trừ thông tin không được tiếp cận quy định tại Điều 6 và thông tin được tiếp cận có điều kiện đối với thông tin quy định tại Điều 7 của Luật. Điều này thể hiện nguyên tắc là không liệt kê các loại thông tin được tiếp cận mà chỉ liệt kê các trường hợp không được tiếp cận và tiếp cận có điều kiện. Nguyên tắc này phù hợp với xu hướng chung của các quốc gia về việc áp dụng quyền này. Tuy nhiên, Điều 16 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 quy định vấn đề áp dụng pháp luật về tiếp cận thông tin thì lại ghi nhận “Luật này áp dụng chung cho việc tiếp cận thông tin của công dân, trường hợp luật khác có quy định về việc tiếp cận thông tin mà không trái với quy định tại Điều 3 của Luật này thì được thực hiện theo quy định của luật đó” nên về nguyên tắc là áp dụng Luật Bảo vệ môi trường. Do vậy các thông tin về môi trường được quyền tiếp cận hay phải công khai không được xác định theo nguyên tắc loại trừ mà lại được liệt kê trong các điều khoản cụ thể.
– Thông tin phải công khai:[3] theo Điều 131 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, có 5 nhóm thông tin môi trường phải được công khai bao gồm: (1) Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường; (2) Thông tin về nguồn thải, chất thải, xử lý chất thải; (3) Khu vực môi trường bị ô nhiễm, suy thoái ở mức nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, khu vực có nguy cơ xảy ra sự cố môi trường; (4) Các báo cáo về môi trường; và (5) Kết quả thanh tra, kiểm tra về bảo vệ môi trường. Tuy nhiên nếu các thông tin quy định trên mà thuộc danh mục bí mật nhà nước thì không được công khai.
Ngoài Điều 131, trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 còn có một số quy định công khai thông tin môi trường như: công khai thông tin về môi trường nước và trầm tích của lưu vực sông cho các tổ chức quản lý, khai thác và sử dụng nước sông (khoản 7 Điều 53), công khai thông tin chất lượng môi trường đất đối với tổ chức, cá nhân có liên quan (Điều 60), công khai thông tin chất lượng môi trường không khí xung quanh (Điều 63). [4]
– Thông tin và chủ thể phải cung cấp thông tin môi trường theo quy định hoặc theo yêu cầu: Tổ chức, cá nhân quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thuộc đối tượng phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường có trách nhiệm báo cáo thông tin môi trường trong phạm vi quản lý của mình với cơ quan quản lý về môi trường thuộc Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh; Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ còn lại có trách nhiệm cung cấp thông tin môi trường liên quan đến hoạt động của mình cho Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã; Bộ, ngành hằng năm có trách nhiệm cung cấp thông tin môi trường liên quan đến ngành, lĩnh vực quản lý cho Bộ Tài nguyên và Môi trường. Các chủ dự án, chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ sau khi kế hoạch bảo vệ môi trường được xác nhận thì phải hợp tác và cung cấp mọi thông tin có liên quan cho cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường kiểm tra, thanh tra (khoản 3 Điều 33)
– Chủ thể có quyền yêu cầu cung cấp thông tin: cơ quan chuyên môn về quản lý môi trường, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp. Hơn nữa, để khuyến khích người dân tham gia nhiều hơn trong công tác bảo vệ môi trường, đại diện của cộng đồng dân cư cũng có quyền yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước có liên quan cung cấp kết quả thanh tra, kiểm tra, xử lý đối với cơ sở đóng trên địa bàn mình. Cơ chế tham vấn trong quá trình thực hiện báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường ngày càng hoàn thiện cũng là cơ sở pháp lý cho sự tham gia và tiếp cận thông tin môi trường của cộng đồng và các tổ chức liên quan ở Việt Nam. Riêng cộng đồng dân cư có quyền được cung cấp và yêu cầu cung cấp thông tin về biến đổi khí hậu, trừ các thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước.
Với quy định trên, các cá nhân không được yêu cầu cung cấp thông tin môi trường, tuy nhiên, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 đã nêu rõ các chủ thể có quyền yêu cầu cung cấp thông tin bao gồm: công dân, người nước ngoài cư trú tại VN sẽ chỉ được cung cấp những thông tin có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của họ, các tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp trong trường hợp nhiều người của tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp đó cùng có yêu cầu cung cấp thông tin giống nhau. Vì vậy, khi luật tiếp cận thông tin có hiệu lực cần làm rõ những điểm mâu thuẫn này.
– Hình thức cung cấp thông tin môi trường: thông qua tài liệu, ấn phẩm, xuất bản phẩm phát hành trên các phương tiện thông tin đại chúng; trang thông tin điện tử chính thức của cơ quan quản lý, chủ đầu tư, chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; niêm yết công khai tại cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, trụ sở UBND cấp xã; họp báo công bố công khai; họp phổ biến cho cộng đồng dân cư; các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
– Trình tự thủ tục: việc cung cấp mỗi loại thông tin môi trường khác nhau có trình tự thủ tục khác nhau, cụ thể mỗi địa phương (cấp tỉnh), hoặc từng lĩnh vực quản lý quy định riêng trình tự cung cấp thông tin về tài nguyên môi trường có liên quan.[5]
– Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm đến quyền tiếp cận thông tin môi trường: theo quy định tại Nghị định 155/2016/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đã dành 1 điều luật riêng quy định vi phạm các quy định về thu thập, quản lý, khai khác, sử dụng dữ liệu, thông tin về môi trường (Điều 36).[6]
Ngoài ra, còn có các quy định riêng về xử phạt hành vi không công khai thông tin và không cung cấp thông tin, cụ thể: (1) xử phạt hành vi không công khai thông tin về danh sách các điểm thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ theo quy định; dữ liệu về môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ theo quy định; không công khai thông tin về mức độ rủi ro và biện pháp quản lý rủi ro đối với môi trường và đa dạng sinh học khi nghiên cứu tạo ra, phát triển công nghệ sinh vật biến đổi gen, mẫu vật di truyền của sinh vật biến đổi gen; không công khai thông tin về danh sách các điểm thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ theo quy định. (2) xử phạt hành vi không cung cấp thông tin đối với trường hợp nhà phân phối không cung cấp thông tin cho nhà sản xuất theo quy định, cung cấp thông tin sai lệch trong hồ sơ đăng ký cấp phép khảo nghiệm sinh vật biến đổi gen, hồ sơ cấp Giấy chứng nhận an toàn sinh học đối với sinh vật biến đổi gen, hồ sơ cấp Giấy xác nhận; hành vi cung cấp sai thông tin, số liệu về dự án trong báo cáo đánh giá tác động môi trường; không thực hiện kê khai chứng từ chất thải nguy hại trực tuyến trên hệ thống thông tin của Tổng cục Môi trường hoặc thông qua thư điện tử khi có yêu cầu bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền.
Ngoài hình thức xử phạt tiền, các tổ chức cá nhân vi phạm sẽ bị áp dụng biện pháp công khai thông tin trên trang thông tin điện tử hoặc báo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND cấp tỉnh nơi xảy ra vi phạm hành chính hoặc cơ quan chủ quản của người có thẩm quyền đã xử phạt vi phạm hành chính trong các trường hợp sau: bị tước quyền sử dụng Giấy phép môi trường; bị đình chỉ hoạt động gây ô nhiễm môi trường hoặc bị đình chỉ hoạt động của cơ sở gây ô nhiễm môi trường; bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm buộc di dời địa điểm đến vị trí phù hợp với quy hoạch và sức chịu tải của môi trường; vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường gây hậu quả lớn hoặc gây ảnh hưởng xấu về dư luận xã hội.
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 có quy định, cơ quan của người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính có trách nhiệm công bố công khai trên trang thông tin điện tử hoặc báo của cơ quan quản lý cấp Bộ, cấp Sở hoặc của UBND cấp tỉnh nơi xảy ra vi phạm hành chính về việc xử phạt vi phạm hành chính bảo vệ môi trường mà gây hậu quả lớn hoặc gây ảnh hưởng xấu về dư luận xã hội. Nội dung công bố công khai bao gồm cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính, hành vi vi phạm, hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả.
– Xử lý hình sự: Bộ luật Hình sự năm 2015 không có điều khoản nào quy định trực tiếp về hành vi vi phạm quyền tiếp cận thông tin về môi trường, nhưng có Điều 167 quy định Tội xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân, trong đó có nội dung “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác cản trở công dân thực hiện quyền tiếp cận thông tin đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm…”. Đây là tội phạm mới được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015, có hiệu lực ngày 01/01/2018. Với quy định này, có thể xác định hành vi cản trở công dân thực hiện quyền tiếp cận thông tin môi trường (do dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác) cũng sẽ bị xử lý hình sự.
Ngoài ra, còn có các quy định khác liên quan như: (1) Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 quy định trong quá trình kiểm tra chất lượng sản phẩm trong sản xuất, mà kết quả thử nghiệm khẳng định sản phẩm không phù hợp với tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng đe dọa đến sự an toàn của người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường thì cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng, tạm đình chỉ sản xuất sản phẩm không phù hợp và kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật. (2) Luật Đa dạng sinh học năm 2008 quy định Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ, cơ quan ngang Bộ có liên quan có trách nhiệm công bố quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước trên trang thông tin điện tử; UBND cấp tỉnh công bố quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước trên trang thông tin điện tử của UBND cấp tỉnh và tại trụ sở.
Riêng Điều 10 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 xác định công dân có quyền tiếp cận thông tin thông qua hai hình thức: (i) tự do tiếp cận thông tin được cơ quan nhà nước công khai; (ii) yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin. Đối với lĩnh vực môi trường quy định các thông tin sau đây phải được công khai rộng rãi: thông tin về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có tác động tiêu cực đến sức khỏe, môi trường; kết luận kiểm tra, thanh tra, giám sát liên quan đến việc bảo vệ môi trường, sức khỏe của cộng đồng, an toàn thực phẩm, an toàn lao động.[7]
2. Vai trò của quyền tiếp cận thông tin môi trường
Cùng với quá trình phát triển kinh tế, tình trạng ô nhiễm môi trường và sự cố môi trường ngày càng gia tăng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế nước ta. Dự báo, giai đoạn 2016-2020, thiên tai và ô nhiễm môi trường có thể làm giảm GDP khoảng 0,6%/năm. Thực tế này đang đặt ra những yêu cầu cấp bách cần phải có những chính sách phù hợp nhằm thích ứng, giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường để phát triển bền vững. Đánh giá của Ngân hàng Thế giới cho thấy, ô nhiễm môi trường, ô nhiễm không khí tại Việt Nam đã gây thiệt hại đến 5% GDP hàng năm [8].
Trong khi đó, theo nghiên cứu của Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế – xã hội quốc gia (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), nền kinh tế Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển đổi quan trọng với kỳ vọng đột phá của tiến trình tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Tuy nhiên, những thành tựu về tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có khả năng bị đe dọa do chịu tác động ngày càng tăng của biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường[9].
Theo kết quả công bố thanh tra, kiểm tra của Bộ Tài nguyên và Môi trường, hiện có đến 40% khu công nghiệp, khu chế xuất trên cả nước vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường. Bình quân mỗi ngày, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu, cụm, điểm công nghiệp, làng nghề thải ra khoảng 30.000 tấn chất thải rắn, lỏng, khí, chất thải độc hại khác, hàng chục vạn m3 nước thải, hầu hết là chất thải nguy hại, ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp đến môi trường, không khí, sức khỏe lâu dài của con người, 100% môi trường làng nghề truyền thống của nước ta đang bị ô nhiễm nghiêm trọng; chưa được đầu tư hệ thống xử lý môi trường. Hoạt động sản xuất kinh doanh chưa quan tâm đến việc bảo vệ môi trường, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống cộng đồng dân cư. Theo tính toán, nếu hoạt động sản xuất kinh doanh lãi được 10 đồng nhưng không quan tâm vấn đề bảo vệ môi trường thì sau đó chi phí khắc phục ô nhiễm môi trường phải tiêu tốn gấp 10 lần hiệu quả kinh tế thu được[10].
Nếu như những thông tin về môi trường không được công khai, nhà đầu tư sẽ không có được những định hướng tốt để hoạch định kế hoạch kinh doanh của mình. Nếu không có thông tin đầy đủ, người dân cũng bị ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày như sống trong khu vực bị ô nhiễm nặng do các nhà máy xả thải, không biết được tác động môi trường đối với các dự án như thủy điện, nhiệt điện, than, khai thác khoáng sản, chất thải khu công nghiệp, hoặc đơn giản hơn là việc sử dụng các thực phẩm độc hại như hoa quả được tẩm hóa chất để bảo quản lâu ngày, các loại rau quả bị nhiễm thuốc trừ sâu, các loại thịt có nguy cơ được đưa đến từ một vùng đang có bệnh dịch. Nếu không có thông tin, các tổ chức, cá nhân không biết được hiện trạng môi trường và dự liệu những rủi ro có thể xảy ra cho môi trường của các dự án, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội; các vấn đề môi trường bức xúc và nguyên nhân chính cũng như các giải pháp để giảm thiểu những tác động xấu đến môi trường.
Về phía các cơ quan nhà nước, nếu không có những thông tin này thì khó mà giúp họ nhận ra cần phải có chính sách phù hợp nhằm thích ứng, giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường cho phát triển bền vững trong dài hạn. Nếu không có đầy đủ thông tin, các cơ quan nhà nước cũng không thể quản lý được tình hình thực hiện pháp luật về môi trường.
Khi tiếp cận thông tin về môi trường được thực hiện trong thực tế, điều này sẽ tác động trở lại với xã hội, vì việc tăng cường và mở rộng thông tin môi trường cũng có nghĩa là tăng cường và nâng cao tri thức, đem đến những biến chuyển cơ bản cho người dân, giúp các chủ thể kinh doanh có dữ liệu trong việc sản xuất sản phẩm và dịch vụ, lên kế hoạch phát triển của mình để bảo vệ môi trường, hoặc tránh những lĩnh vực gây hại cho môi trường.[11]
Thông tin về môi trường được công khai, minh bạch còn giúp cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước xây dựng cho mình các kế hoạch đầu tư dài hạn.[12] Người kinh doanh được bình đẳng trong việc khai thác những thông tin về môi trường gồm môi trường tự nhiên và môi trường nhân tạo như đất đai, khoáng sản, tài nguyên rừng, biển, chỉ số môi trường không gian sống của con người và các loài sinh vật, các chính sách hỗ trợ đầu tư liên quan đến môi trường, các chính sách thuế, phí về môi trường… để lập kế hoạch đầu tư dài hạn, giảm thiểu chi phí kinh doanh và các rủi ro khi đầu tư, từ đó thu hút đầu tư và tạo công ăn việc làm nhiều hơn, đồng thời giảm cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp.[13] Cần không chỉ thông tin về môi trường trong nước, mà còn thông tin về môi trường của các quốc gia, để việc đầu tư, hợp tác kinh tế có hiệu quả, phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại[14]
Trong môi trường kinh doanh toàn cầu hiện nay, việc thiếu thông tin về môi trường sẽ làm giảm giá trị cạnh tranh, vì đã có nhiều công ty vì liên lụy đến môi trường mà phải bị phá sản[15] hoặc bị tẩy chay sản phẩm.[16] Việc hoàn thiện pháp luật về tiếp cận thông tin về môi trường là một trong những nội dung quan trọng để đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam tăng lên vì các hoạt động đầu tư chủ yếu dựa vào tính ổn định, sự minh bạch và thông tin thị trường, nhờ đó, kinh tế tăng trưởng nhanh hơn.
3. Thực tiễn thực hiện quyền tiếp cận thông tin môi trường
Thực tiễn thực hiện quyền tiếp cận thông tin về môi trường thể hiện qua việc thực hiện quyền yêu cầu cung cấp thông tin và quyền tự do tiếp nhận thông tin về môi trường được các cơ quan nhà nước công khai.
3.1 Thực tiễn thực hiện quyền yêu cầu cung cấp thông tin về môi trường
Hiện nay, các cơ quan có thẩm quyền về cung cấp thông tin môi trường đã công khai quy trình thủ tục để người dân yêu cầu cung cấp thông tin trên các trang thông tin điện tử, nhất là trang thông tin điện tử của các Sở Tài nguyên và môi trường,[17] hoặc trang thông tin của các cơ quan quản lý chuyên ngành thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường[18]. Thủ tục thực hiện tương đối rõ ràng. Tuy nhiên, hầu hết đều quy định phải ghi rõ mục đích sử dụng thông tin, thông tin phải được sử dụng đúng mục đích, và cơ quan nhà nước có quyền từ chối cung cấp thông tin do thông tin thuộc bí mật nhà nước, hoặc cho rằng thông tin mà nếu để tiếp cận sẽ gây nguy hại đến lợi ích của nhà nước, trật tự an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng; gây nguy hại đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác… Trong trường hợp từ chối cung cấp thông tin thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Quy định trên tồn tại 2 bất cập:
(1) Yêu cầu sử dụng đúng mục đích sử dụng thông tin, nhưng chưa có quy định nào để kiểm soát việc thực hiện đúng mục đích nên các cơ quan có thẩm quyền rất khó yêu cầu các chủ thể tuân thủ quy định này.
(2) Không có cơ sở rõ ràng để xác định nếu cung cấp thông tin sẽ gây nguy hại đến lợi ích của nhà nước, điều này sẽ tạo điều kiện cho các chủ thể lợi dụng để từ chối cung cấp thông tin.
Khi tiến hành yêu cầu cung cấp thông tin, người yêu cầu đã thực hiện bằng cách yêu cầu trực tiếp tại cơ quan và gửi thư điện tử trên trang thông tin điện tử. Tuy nhiên, số lượng lượt người yêu cầu không nhiều. Ngoài ra, nhiều đơn vị còn tổ chức thực hiện giao lưu trực tuyến với người dân và doanh nghiệp đồng thời cung cấp thông tin tại cơ quan khi có yêu cầu. Tuy nhiên, việc cung cấp thông tin chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu tìm hiểu thông tin của cá nhân, nhiều thông tin được yêu cầu nhưng cơ quan chưa có thông tin để cung cấp hay không được phép cung cấp, trong khi nhiều thông tin cần thiết lại chưa được cá nhân, tổ chức quan tâm tìm hiểu.
Nguyên nhân là do các quy định pháp luật về cung cấp thông tin chưa cụ thể, chưa quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn của người cung cấp thông tin và người được yêu cầu cung cấp thông tin; thông tin để cung cấp không đủ để đáp ứng nhu cầu; cơ sở vật chất và trang thiết bị làm việc của cơ quan quản lý và cung cấp thông tin không đầy đủ. Hơn nữa, các Sở có trung tâm công nghệ thông tin thực hiện lưu giữ các tài liệu giấy, cơ sở dữ liệu số, cung cấp khi có yêu cầu nhưng khả năng tiếp cận thông tin môi trường của cá nhân, tổ chức còn hạn chế, chưa đầy đủ, không thường xuyên. Số lượng người yêu cầu không nhiều là do không biết, hoặc chưa có thói quen yêu cầu cung cấp thông tin hoặc điều kiện kinh tế không cho phép cá nhân tìm hiểu thông tin. Đối với thông tin được yêu cầu đơn giản, cơ quan luôn tiếp nhận và cố gắng đáp ứng nhu cầu tiếp cận thông tin của cá nhân, tổ chức.
3.2. Thực tiễn tổ chức thực hiện quyền tiếp nhận thông tin về môi trường
Thực tiễn tổ chức thực hiện quyền tiếp nhận thông tin trong lĩnh vực môi trường thể hiện qua các nội dung sau:
Thứ nhất, các cơ quan nhà nước đã bước đầu chủ động công khai thông tin môi trường, được thể hiện qua việc các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương tạo ra ngày càng nhiều hình thức để nhân dân có thể tiếp nhận thông tin và tham gia ý kiến như công bố dự thảo các vấn đề liên quan tại trụ sở UBND cấp huyện và cấp xã, trụ sở của các cơ quan quản lý hành chính, trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên các trang thông tin điện tử của Bộ và Sở Tài nguyên và Môi trường. Thông tin được yêu cầu cung cấp chủ yếu là: thông tin về môi trường của các nhà máy sản xuất gần khu vực dân cư, gần đây thông tin liên quan đến sự cố ô nhiễm môi trường Formosa được yêu cầu rất nhiều, do hậu quả ảnh hưởng đến nhiều tỉnh thành nên các cơ quan có liên quan phải tổ chức họp báo nhiều lần[19]. Thủ tục thực hiện việc cung cấp thông tin không giống nhau, một số cơ quan hành chính nhà nước có bộ phận hướng dẫn nhưng những bộ phận này thường kiêm nhiệm, nên việc cung cấp thông tin không thường xuyên, đầy đủ. Phần lớn cơ quan nhà nước chưa có đơn vị và cán bộ chuyên trách, theo dõi, giải quyết và tổng hợp chung tình hình tiếp cận thông tin.
Gần đây thông qua phương tiện truyền thông, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã công khai các báo cáo tổng kết công tác cuối năm và phương hướng nhiệm vụ năm sau của mình, như Bộ Tài nguyên và Môi trường tuyên bố công khai báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia, báo cáo tổng kết cuối năm của các cơ quan, đơn vị… ở một số địa phương. Tuy nhiên, việc công khai thông tin được nhiều cơ quan nhà nước tuyên bố nhưng trên thực tế lại không thực hiện tốt như: báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia được tuyên bố là công khai nhưng thực tế chỉ công khai tiêu đề còn nội dung cụ thể thì không ai tiếp cận được, hơn nữa, nhiều cơ quan quản lý có trách nhiệm công bố nhưng thực tế thì không thể thực hiện theo yêu cầu vì không có dữ liệu để công bố.
Thứ hai, việc tiếp nhận những thông tin về môi trường đang ngày càng được quan tâm thông qua nhiều phương thức khác nhau[20] như thông qua đài báo của trung ương, địa phương, các báo ngành, trang thông tin điện tử riêng về thông tin và tư liệu môi trường của Tổng cục môi trường[21] để bất kỳ ai cũng có thể xem Báo cáo tổng quan môi trường Việt Nam.[22] Bộ Tài nguyên và Môi trường công khai báo cáo về tình hình thực hiện công tác bảo vệ môi trường, các đơn vị gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, gây ô nhiễm môi trường, vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường và có nỗ lực thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường đều được công khai thông tin trên trang thông tin điện tử của Bộ[23] và Báo Tài nguyên và Môi trường.
Mặc dù các cơ quan chức năng có những nỗ lực trong việc bảo đảm quyền tiếp nhận thông tin của công dân như trên, nhưng nhìn chung hiệu quả vẫn còn nhiều hạn chế. Nhiều trường hợp với những thông tin về tác động môi trường do các công trình thủy điện, khai thác khoáng sản gây ra, pháp luật quy định phải được công khai trên các phương tiện truyền thông và niêm yết ở UBND cấp xã nhưng các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường vẫn chưa tuân thủ. Ví dụ, như trường hợp thông tin về những tác động, ảnh hưởng môi trường từ Thủy điện Sông Tranh 2 không được công khai nên người dân sống quanh khu vực trên đã đầu tư những công trình xây dựng không có khả năng chống lại các trận động đất do ảnh hưởng từ công trình thủy điện gây ra. Vì thế khi động đất xảy ra, cuộc sống của nhiều người dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Trong khi đó, tháng 10/2010 một tòa án ở Italia đã truy tố cả Ủy ban quốc gia về dự báo và phòng chống những nguy cơ lớn với lời buộc tội các nhà khoa học trong Ủy ban đã cung cấp thông tin không đầy đủ, thiếu chính xác, và mâu thuẫn cho công chúng trong một trận động đất mạnh 6,3 độ Richter xảy ra tại thành phố l’Aquila.[24]
Thứ ba, một số cơ quan nhà nước cung cấp thông tin chậm, hoặc chủ động không cung cấp thông tin cho phóng viên[25] khiến các cơ quan truyền thông không đưa tin kịp thời như trường hợp ô nhiễm môi trường ở Bình Thuận, ô nhiễm môi trường ở Formosa (Hà Tĩnh). Trong những sự kiện này, báo chí hầu như tiếp cận nhiều nguồn thông tin do cơ quan có thẩm quyền cung cấp nhưng không thống nhất thậm chí mâu thuẫn nhau dẫn đến việc người dân vẫn hoài nghi về tính chính xác của thông tin.[26]
Thứ tư, hiện nay việc công khai thông tin nằm rải rác ở nhiều cơ quan quản lý và được quản lý, công bố trên nhiều trang thông tin điện tử, niêm yết công khai tại trụ sở…, gây khó khăn trong việc thu thập và quản lý thông tin. Mặc dù Cục Công nghệ thông tin – Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện Dự án Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về tài nguyên và môi trường (http://nredb.ciren.vn/) từ 2010 – 2014 nhưng đến nay cơ sở dữ liệu vẫn chưa hoàn thiện, rất khó tiếp cận thông tin. Đến nay, ngành tài nguyên và môi trường chưa có bất kỳ một bộ cơ sở dữ liệu thống nhất tích hợp đầy đủ các thông tin, dữ liệu phục vụ công tác nghiên cứu, xây dựng chiến lược, chính sách quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Ngay cả các thông tin do Cục Công nghệ thông tin, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang quản lý cũng mới chỉ dừng lại việc quản lý các thông tin, số liệu điều tra cơ bản, hiện trạng tài nguyên và môi trường.[27]
Do đó, cần tiếp tục hoàn thiện cơ sở dữ liệu này để xây dựng cơ sở hạ tầng thống nhất thông tin về ngành tài nguyên môi trường ở cấp trung ương và địa phương nhằm vừa đảm bảo việc thống nhất quản lý, vừa tạo điều kiện cho người dân tiếp cận các thông tin môi trường một cách có hệ thống và dễ dàng.
Những bất cập trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin về môi trường có thể dẫn đến một số hệ lụy như, cán bộ, công chức có thể lợi dụng vị trí đặc quyền để trục lợi trong việc cung cấp thông tin, gây nên sự bất bình đẳng, thiếu công bằng trong xã hội; hoặc thông tin không được cung cấp một cách chính thức, kịp thời dẫn đến việc người dân có thể tiếp nhận những thông tin sai lệch, ảnh hưởng đến đời sống sản xuất, kinh doanh; hoặc do thiếu thông tin nên sự tham gia của nhân dân vào hoạt động quản lý nhà nước cũng như việc giám sát và phản biện xã hội của các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội đối với hoạt động của cơ quan nhà nước đều bị hạn chế.
4. Nâng cao hiệu lực thực thi các quy định về quyền tiếp cận thông tin môi trường
Thực tiễn cho thấy, các quy định bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân còn chưa được thực thi đầy đủ. Các báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc cam kết bảo vệ môi trường chưa được công khai theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2014. Nhiều địa phương cũng thấy lúng túng về cách thức bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân đối với các báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc cam kết bảo vệ môi trường như đã đăng ký. Do đó, để tránh những hạn chế về quyền tiếp cận thông tin môi trường, cần hướng tới sửa đổi những nội dung sau:
Thứ nhất, cần xác định rõ những nội dung Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 và Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 có những điểm khác nhau thì áp dụng quy định nào vì Điều 16 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 quy định luật này áp dụng chung cho việc tiếp cận thông tin của công dân. Trường hợp luật khác có quy định về việc tiếp cận thông tin mà không trái với quy định tại Điều 3 của Luật này thì được thực hiện theo quy định của luật đó. Mà Điều 3 của Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 là điều khoản quy định nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin. Các nguyên tắc này rất chung chung nên chắc chắn sẽ không có luật nào trái với các quy định này. Và vấn đề này sẽ tạo ra một nguy cơ là Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 sẽ bị phủ nhận hoặc vô hiệu bởi các quy định của các luật chuyên ngành về lĩnh vực đó.Thứ hai, hoàn thiện các quy định về việc cung cấp thông tin theo yêu cầu, cụ thể:
– Cần quy định rõ những thông tin về môi trường nào cơ quan nhà nước từ chối cung cấp, và điều kiện để xác định là trên cơ sở pháp lý chứ không nên dựa vào sự đánh giá chủ quan của cơ quan nhà nước.
– Cần quy định về phí và lệ phí của việc yêu cầu cung cấp thông tin, bao gồm chi phí tìm kiếm, chi phí thực tế để in, sao, chụp, gửi thông tin. Ví dụ Luật Tài nguyên nước năm 2012 quy định tổ chức, cá nhân sử dụng thông tin về tài nguyên nước phải trả phí sử dụng thông tin theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí (khoản 3 Điều 8) nhưng chưa quy định cụ thể mức phí.
– Cần làm rõ căn cứ từ chối cung cấp thông tin: “thông tin được yêu cầu vượt quá khả năng đáp ứng hoặc làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan”[28] được quy định trong Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 sẽ có hiệu lực vào ngày 01/7/2018, vì tiêu chí “vượt quá khả năng đáp ứng”, “ảnh hưởng đến hoạt động bình thường” mang tính định tính, rất khó xác định, nên nếu không làm rõ quy định này, các cơ quan nhà nước sẽ dựa vào hoặc lạm dụng quy định này để hạn chế quyền tiếp cận thông tin của công dân.
Thứ ba, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, tập huấn, hướng dẫn các cơ sở sản xuất, kinh doanh về cách thức thực thi trách nhiệm cung cấp thông tin môi trường mà các cơ sở sản xuất, kinh doanh phải thực hiện theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2014.
Cần tuyên truyền quyền tiếp cận thông tin môi trường bằng những chiến dịch sâu rộng với những hình thức phù hợp với các nhóm đối tượng khác nhau để thay đổi nhận thức của công dân về địa vị của mình, về mối quan hệ giữa Nhà nước và Nhân dân trong những điều kiện, hoàn cảnh quản lý mới để Nhân dân thay đổi nhận thức về giá trị của quyền này như là một quyền cơ bản mang giá trị nhân văn và là một giá trị của con người,[29] chứ không phải xuất phát từ ý muốn chủ quan của Nhà nước, không phải là sự ban tặng từ phía Nhà nước mà là xuất phát từ thực tiễn khách quan, từ xu hướng của thời đại. Đây là quyền để bảo vệ quyền được sống trong môi trường an lành. Giải pháp này đang được các nước trên thế giới thực hiện rất hiệu quả thông qua việc giáo dục học sinh cần có ý thức bảo vệ môi trường thông qua việc loại bỏ, từ chối sử dụng hàng hóa của doanh nghiệp vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường.
Thứ tư, về vấn đề giám sát và xử lý vi phạm, khiếu nại trong lĩnh vực cung cấp thông tin, cần ban hành văn bản quy định về chế tài khi trì hoãn, từ chối cung cấp thông tin, xác định trách nhiệm của cơ quan cung cấp thông tin trong việc bảo đảm các nguồn lực và biện pháp cần thiết cho việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; trách nhiệm của các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh trong việc bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin.
Thứ năm, cần đảm bảo điều kiện cơ sở vật chất và hỗ trợ tài chính để thực hiện quyền tiếp cận thông tin môi trường theo các nội dung sau:
– Cần chuẩn bị đầy đủ các điều kiện về nhân sự và dữ liệu thông tin để khi Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 có hiệu lực thì các quy định về tiếp cận thông tin về môi trường cũng áp dụng ngay nhất là thực hiện việc cung cấp thông tin theo yêu cầu thông qua thư điện tử và thông qua dịch vụ bưu chính, fax.
– Thiết lập một trang thông tin điện tử thống nhất về nội dung, phương thức thực hiện quyền tiếp cận thông tin về môi trường trong cả nước, để khi tìm kiếm về các vấn đề liên quan đến thông tin môi trường, người dân sẽ dễ dàng biết được quy định của pháp luật, nội dung quyền và nghĩa vụ của mình, đồng thời liên kết với các trang thông tin điện tử của các địa phương về thông tin môi trường để người dân dễ dàng tiếp cận.
– Ứng dụng công nghệ thông tin để xây dựng hệ thống lưu trữ dữ liệu quốc gia về thông tin môi trường nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của công dân. Sau đó, cần đồng bộ hóa, kết nối dữ liệu cũng như cơ chế phối hợp, liên thông thông tin môi trường giữa các cơ quan để đảm bảo có thể được xác định ngay cơ quan nào đang quản lý dữ liệu chứa những thông tin mà người dân yêu cầu nhằm đảm bảo hài hòa các lợi ích công và lợi ích của người dân, tránh tình trạng các cơ quan nhà nước không muốn công bố thông tin vì ngại ảnh hưởng các cơ quan khác, hoặc lợi ích khác. Điều này sẽ khắc phục được thực tế một số thông tin môi trường do nhiều cơ quan khác nhau nắm giữ nhưng không thể biết đang được lưu trữ ở đâu, và đảm bảo thông tin sẽ được cung cấp đầy đủ hơn, giúp cho quyền tiếp cận thông tin môi trường phát huy giá trị tích cực vốn có..
CHÚ THÍCH
[1] Trong tuyên bố có nguyên tắc 10 nêu rõ tầm quan trọng về quyền của công chúng đối với tiếp cận thông tin môi trường: “Các vấn đề môi trường sẽ được giải quyết tốt nhất với sự tham gia của mọi công dân quan tâm, ở cấp độ thích hợp. Ở cấp độ quốc gia, mỗi cá nhân sẽ có quyền được thông tin thích hợp liên quan đến môi trường do các nhà chức trách nắm giữ, bao gồm thông tin về những nguyên liệu và mức độ ảnh hưởng cho cộng đồng… Các quốc gia có trách nhiệm tạo điều kiện, tuyên truyền và khuyến khích sự tham gia của nhân dân bằng cách phổ biến thông tin rộng rãi. Người dân được quyền tiếp cận thông tin môi trường, kể cả những văn bản hành chính và tố tụng, các biện pháp khắc phục và bồi thường thiệt hại”. http://www.unep.org/stories/story/unep-implementing-principle-10-rio-declaration.
[2] Ở Việt Nam, quyền được sống trong môi trường trong lành được ghi nhận trong Điều 43 Hiến pháp năm 2013.
[3] So với Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, phạm vi thông tin môi trường phải công khai của Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã mở rộng hơn, nhất là đối với kết quả thanh tra, kiểm tra về bảo vệ môi trường.
[4] Nghị định số 19/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định một số điều của Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã cụ thể hóa chi tiết các thông tin phải công khai.
[5] Trình tự cung cấp thông tin ở tỉnh Thái Bình:.http://sotnmt.thaibinh.gov.vn/ct/News/Lists/tthccungcapthongtin/View_Detail.aspx?ParentID=& ItemID=8
Hoặc cung cấp thông tin dữ liệu đo đạc và bản đồ tỉnh Bình Phước http://stnmt.binhphuoc.gov.vn/3cms/serviceTTHC.htm?&cat=1440578698000&artid=1481536961618.
[6] Điều 36 Nghị định số 155/2016/NĐ-CP: 1. Phạt tiền từ 1 triệu đến 5 triệu đồng đối với hành vi cản trở trái phép việc quan trắc, thu thập, trao đổi, khai thác, sử dụng dữ liệu, thông tin về môi trường. 2. Phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng đối với một trong các hành vi sau đây: a) Cung cấp dữ liệu, thông tin về môi trường, kết quả quan trắc môi trường không đúng chức năng, thẩm quyền theo quy định; b) Không công bố, cung cấp, công khai thông tin, dữ liệu về môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ theo quy định. 3. Phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 40 triệu đồng đối với hành vi xâm nhập trái phép vào hệ thống lưu trữ dữ liệu, thông tin về môi trường. 4. Phạt tiền từ 40 triệu đồng đến 60 triệu đồng đối với một trong các hành vi sau đây: a) Không thống kê, lưu trữ số liệu về các tác động đối với môi trường, về các nguồn thải từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ theo quy định;b) Không nộp đầy đủ các số liệu điều tra, khảo sát, quan trắc môi trường và các tài liệu liên quan khác cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định; 5. Phạt tiền từ 60 triệu đồng đến 80 triệu đồng đối với các hành vi tẩy xóa dữ liệu, thông tin về môi trường, kết quả quan trắc môi trường. 6. Phạt tiền từ 80 triệu đồng đến 100 triệu đồng đối với hành vi cung cấp dữ liệu, thông tin về môi trường, kết quả quan trắc môi trường không trung thực cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định”.
[7] Điểm i, khoản 1, Điều 17 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016.
[8] Phương Anh, “Thiên tai và ô nhiễm môi trường làm giảm 0,6% GDP/năm”, truy cập ngày 10/6/2017.
[9] Duy Phương, “Tác động môi trường đe dọa tăng trưởng kinh tế”.
[10] Ngọc Bách, “Người tiêu dùng là công cụ bảo vệ môi trường hiệu quả”, truy cập ngày 10/6/2017.
[11] Minh Hiển, “Không cấp phép đầu tư dự án nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao”, truy cập ngày 10/6/2017.
[12] Ví dụ, theo Quyết định số 49/2011/QĐ-TTg về việc quy định lộ trình áp dụng tiêu chuẩn khí thải đối với xe ô tô, mô tô lắp ráp và nhập khẩu, từ 1/1/2017, ô tô, xe máy mới phải đáp ứng tiêu chuẩn khí thải ở mức 4 (Euro 4) và đến 1/1/2020 đáp ứng tiêu chuẩn khí thải 5 (Euro 5) nên hiện nay giá xe tải và xe khách từ 16 chỗ trở lên tăng thêm 15-20% do không được lùi thời hạn thực hiện tiêu chuẩn khí thải Euro 4 để bảo vệ môi trường.
[23] Trần Thủy, “Tiêu chuẩn Euro 4: Quy định mới khiến nhiều loại ô tô tăng giá”, truy cập ngày 10/6/2017.
[14] Trung Nhân, “Trung Quốc “xuất khẩu ô nhiễm” bằng dự án thép“, truy cập ngày 10/6/2017.
[15] Kim Ngân, “Doanh nghiệp phải đóng cửa, phá sản vì vi phạm tiêu chuẩn môi trường”, truy cập ngày 10/6/2017.
[16] Xem: “Không chỉ ở Ấn Độ, Coca-Cola đi đến đâu làm khô cạn các nguồn nước ở đó“, truy cập ngày 10/6/2017.
[17] Thủ tục cung cấp, khai thác và sử dụng dữ liệu về tài nguyên và môi trường tỉnh Ninh Thuận http://tnmt.ninhthuan.gov.vn/tdpl/laylink.aspx?id_chuong=667, truy cập ngày 10/ 7/ 2017.
[18] Thủ tục cung cấp, khai thác, sử dụng dữ liệu về địa chất, khoáng sản ở Việt Nam: http://dgmv.gov.vn/index.php?option=com_k2&view=item&task=download&id=988_16ec371c377382d02ee64de6d0d2523b&lang=vi, truy cập ngày 10/7 / 2017.
Thủ tục khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu tài nguyên, môi trường biển và hải đảo của Tổng Cục biển và hải đảo Việt Nam, http://www.vasi.gov.vn/707/khai-thac-su-dung-co-so-du-lieu-tai-nguyen-moi-truong-bien-va-hai-dao/t785/c235/i438, truy cập ngày 10/7/2017.
[19] Họp báo ngày 26/4/2016, https://tuoitre.vn/phong-ve/formosa-hop-bao-vu-xa-thai-ra-bien-lam-ca-chet-hang-loat-1090939.htm; Họp báo ngày 15/5/2016, http://www.sggp.org.vn/ha-tinh-hop-bao-ve-dien-bien-tai-khu-kinh-te-vung-ang-238130.html; Họp báo ngày 30/6/2016, http://botruong.monre.gov.vn/tin-tuc/tin-hoat-dong/cong-bo-nguyen-nhan-su-co-moi-truong-gay-ra-hien-tuong-hai-san-chet-bat-thuong-tai-4-tinh-ven-bien-m-2828; Họp báo ngày 02/8/2016, http://botruong.monre.gov.vn/tin-tuc/tin-hoat-dong/bo-tn-mt-se-kiem-soat-chat-che-van-de-van-chuyen-xu-ly-chat-thai-cua-formosa-ha-tinh-2871.
[20] TP. Hồ Chí Minh sẽ công bố tám chỉ tiêu môi trường trên 48 bảng điện tử, http://www.thesaigontimes.vn/157571/TPHCM-se-cong-bo-tam-chi-tieu-moi-truong-tren-48-bang-dien-tu.html.
[21] Xem: http://www.ceid.gov.vn/mtportal/srv/vi/main.home, truy cập ngày 02/4/2017.
[22] Xem: http://vea.gov.vn/vn/hientrangmoitruong/baocaomtquocgia/Pages/default.aspx truy cập ngày 07/4/2017.
[23] Tại địa chỉ http://www.monre.gov.vn.
[24] Nguyễn Văn Tuấn, “Dân đang bị mắng hay nhà khoa học phải ra tòa”, http://sgtt.vn/Thoi-su/168560/KY-1-Dan-dang-bi-mang-hay-nha-khoa-hoc-dang-phai-ra-toa.html, 2012, truy cập ngày 12 /7/2017.
[25] Như trường hợp trên địa bàn tỉnh Hà Nam đã được nêu rõ trong Chỉ thị số 06/CT-UBND ngày 08/3/2012 về việc tăng cường trách nhiệm của các cơ quan trong việc cung cấp thông tin cho báo chí.
[26] Thông tin về chất lượng hải sản khai thác ở vùng biển bị ô nhiễm, có nhiều thông tin khác nhau, cụ thể: ngày 27/4/2016: Bộ Tài nguyên và Môi trường họp báo thông tin về hiện tượng cá chết hàng loạt xác định hai nhóm nguyên nhân là độc tố và thủy triều đỏ (Công bố nguyên nhân cá chết, http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/chinh-tri/cong-bo-nguyen-nhan-ca-chet-313134.html, truy cập ngày 10/7/2017, tuy nhiên, theo một số nhà khoa học, kết luận này không có gì mới và chưa thuyết phục).
[27] Hiện trạng thông tin, dữ liệu về chiến lược, chính sách quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường: http://isponre.gov.vn/home/gioi-thieu/nhiem-vu-quyen-han/172-hien-trang-thong-tin-du-lieu-ve-chien-luoc-chinh-sach-quan-ly-tai-nguyen-va-bao-ve-moi-truong, truy cập ngày 10/8/ 2017.
[28] Điểm đ, khoản 1, Điều 28 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016.
[29] Có quan điểm cho rằng quyền tiếp cận thông tin chính là quyền được sống. Xem: Open Demorcacy Advice Centre, The Right to Know, the Right to Live: Access to Information and Socio-Economic Justice, ISBN 1-919798-42-0, 2002, p. xxiv.
- Tác giả: TS. Thái Thị Tuyết Dung
- Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 09(112)/2017 – 2017, Trang 60-70
- Nguồn: Fanpage Tạp chí Khoa học pháp lý