Mục lục
Bất cập trong quy định pháp luật về hoạt động quản lý chất thải nguy hại và các kiến nghị hoàn thiện
TÓM TẮT
Quản lý chất thải nguy hại là hoạt động đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường và sức khỏe con người. Pháp luật điều chỉnh về hoạt động này từng bước phát huy hiệu quả trong triển khai thực hiện nhưng vẫn còn một số bất cập cần hoàn thiện. Bài viết phân tích những bất cập trong quy định pháp luật về hoạt động quản lý chất thải nguy hại, từ đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật môi trường.
Xem thêm:
- Một số vấn đề pháp lý về kinh doanh dịch vụ quản lý chất thải nguy hại dưới góc độ Luật Môi trường – ThS. Trần Linh Huân
TỪ KHÓA: Bất cập, Chất thải nguy hại, Góp ý sửa đổi Luật,
NỘI DUNG BÀI VIẾT
Theo Báo cáo môi trường quốc gia được Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố cuối năm 2016, thống kê từ các địa phương cho thấy tổng lượng chất thải nguy hại (CTNH) phát sinh trên toàn quốc hiện nay khoảng 800.000 tấn/ năm.[1] Tính đến tháng 10 năm 2017, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã cấp giấy phép xử lý CTNH cho 107 cơ sở xử lý CTNH để cung ứng các dịch vụ quản lý CTNH.[2] Tuy nhiên, tình trạng vi phạm các quy định pháp luật trong hoạt động quản lý CTNH vẫn diễn ra phổ biến ở mức báo động cao.[3] Bài viết tập trung phân tích những hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật về giấy phép xử lý CTNH, về cơ sở vật chất phục vụ quản lý CTNH, về nhân sự tham gia quản lý CTNH, về hợp đồng chuyển giao trách nhiệm quản lý CTNH và trên cơ sở đó đề ra giải pháp hoàn thiện.
1. Chất thải nguy hại là gì?
CTNH là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, lây nhiễm, dễ cháy, dễ nổ, gây ăn mòn, gây ngộ độc hoặc có đặc tính nguy hại khác.[4] CTNH có khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe con người, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Vì vậy, để thực hiện hoạt động quản lý CTNH đòi hỏi các chủ thể phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép.
Theo khoản 24 Điều 3 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/04/2015 về quản lý chất thải và phế liệu (gọi tắt là Nghị định ố 38/2015/NĐ-CP): “giấy phép xử lý CTNH là giấy phép cấp cho chủ xử lý CTNH để thực hiện dịch vụ xử lý, tái chế, đồng xử lý, thu hồi năng lượng từ CTNH (có thể bao gồm hoạt động vận chuyển, trung chuyển, lưu giữ, sơ chế)”. Tuy nhiên, khái niệm này vẫn còn nhiều vấn đề cần bàn luận. Cụ thể, theo nội dung diễn đạt có thể hiểu giấy phép xử lý CTNH không chỉ cấp cho các hoạt động nằm ở công đoạn cuối của quá trình quản lý CTNH như “xử lý, tái chế, đồng xử lý, thu hồi năng lượng” mà còn có thể cấp cho những hoạt động nằm ở công đoạn đầu của quá trình quản lý CTNH như “vận chuyển, trung chuyển, lưu giữ, sơ chế”. Thế nhưng, xét về góc độ từ ngữ, việc dùng từ “xử lý” để đặt tên cho giấy phép là chưa phù hợp, không tạo được sự thống nhất giữa tên gọi với nội hàm khái niệm.
Bên cạnh đó, việc dùng thuật ngữ “chủ xử lý CTNH” trong khái niệm cũng không phù hợp vì hoạt động quản lý CTNH có thể bao gồm nhiều công đoạn khác nhau như thu gom, vận chuyển, xử lý có chủ thể sẽ tham gia một trong số các công đoạn nêu trên hoặc có chủ thể sẽ tham gia tất cả. Chính vì vậy, cách dùng thuật ngữ “chủ xử lý CTNH” có thể dễ tạo ra cách hiểu chỉ có chủ thể có hoạt động xử lý CTNH thì mới phải cần giấy phép, còn lại nếu chỉ thực hiện hoạt động thu gom hay vận chuyển thì không thuộc đối tượng cần phải có giấy phép. Ngoài ra, theo cách diễn đạt về khái niệm giấy phép xử lý CTNH được quy định tại khoản 24 Điều 3 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP, hoạt động “thu gom” lại không được đề cập vào khái niệm. Việc không đề cập này có thể dẫn đến cách hiểu rằng hoạt động kinh doanh dịch vụ thu gom CTNH không cần phải có giấy phép. Tuy nhiên, cũng tại khoản 1 Điều 8 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP lại quy định: “việc thu gom, vận chuyển CTNH chỉ được phép thực hiện bởi các tổ chức, cá nhân có giấy phép xử lý CTNH”. Các quy định này tạo ra sự mâu thuẫn giữa khái niệm với các quy định cụ thể.
Liên quan đến giấy phép xử lý CTNH thì vẫn còn một số bất cập, thiếu rõ ràng về hồ sơ đăng ký cấp giấy phép. Điểm a khoản 1 Phụ lục 5.B.1 ban hành kèm theo Thông tư số 36/2015/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường về quản lý CTNH (gọi tắt là Thông tư số 36/2015/TT-BTNMT) quy định một trong các loại giấy tờ phải có là Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư hoặc các giấy tờ tương đương. Như vậy, “giấy tờ tương đương” ở đây là gì? Hiện nay, pháp luật chưa quy định cụ thể. Sự không rõ ràng này không chỉ gây khó khăn cho các chủ thể trong việc xác định các loại giấy tờ tương đương mà còn có thể tạo ra sự tùy tiện trong việc áp dụng pháp luật.
Để khắc phục những bất cập vừa nêu, theo tác giả khoản 24 Điều 3 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP cần được sửa đổi lại như sau: “Giấy phép quản lý CTNH là giấy phép cấp cho chủ thể quản lý CTNH để thực hiện dịch vụ xử lý, tái chế, đồng xử lý, thu hồi năng lượng từ CTNH (có thể bao gồm hoạt động thu gom, vận chuyển, trung chuyển, lưu giữ, sơ chế)”. Khi thay đổi thuật ngữ “xử lý” thành “quản lý” sẽ bao quát và sát với nội dung khái niệm của giấy phép, tạo được sự thống nhất về cách hiểu giữa tên gọi với nội hàm khái niệm. Bên cạnh đó, việc bổ sung cụm từ “thu gom” vào khái niệm sẽ bảo đảm tính logic và thống nhất với quy định “việc thu gom, vận chuyển CTNH chỉ được phép thực hiện bởi các tổ chức, cá nhân có Giấy phép xử lý CTNH” tại khoản 1 Điều 8 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP.
Về hồ sơ xin cấp giấy phép, để bảo đảm rõ ràng trong quy định pháp luật, phụ lục V ban hành kèm theo Thông tư số 36/2015/TT-BTMT cần phải quy định rõ “các giấy tờ tương đương” là giấy tờ nào. Ngược lại, nếu không có hướng dẫn cụ thể thì nên bỏ luôn cụm từ “hoặc các giấy tờ tương đương” nhằm tránh sự mơ hồ trong việc áp dụng pháp luật.
2. Quản lý chất thải nguy hại
Hoạt động quản lý CTNH, đặc biệt là hoạt động xử lý CTNH có tác động lớn đến môi trường và sức khỏe người dân sinh sống gần khu vực.[5] Chính vì vậy, địa điểm của các cơ sở xử lý CTNH phải bảo đảm khoảng cách an toàn. heo khoản 2 Điều 93 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 thì cơ sở xử lý CTNH phải có khoảng cách bảo đảm để không ảnh hưởng xấu đối với môi trường và con người. Khoản 2 Điều 9 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP hướng dẫn: “địa điểm của cơ sở xử lý CTNH (trừ trường hợp cơ sở sản xuất có hoạt động đồng xử lý CTNH) thuộc các quy hoạch có nội dung về quản lý, xử lý chất thải do cơ quan có thẩm quyền từ cấp tỉnh trở lên phê duyệt theo quy định của pháp luật”. Theo các quy định nêu trên, khoảng cách an toàn được xác định dựa theo các nội dung quy hoạch về quản lý, xử lý chất thải do cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Tuy nhiên, việc xác định mức khoảng cách tối thiểu bao nhiêu là an toàn đối với môi trường và con người hiện nay trong các văn bản pháp luật chuyên ngành liên quan chưa có sự rõ ràng. Điều này không tạo được khung pháp lý nền tảng thống nhất để các cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật.
Về phương tiện, thiết bị thu gom, vận chuyển CTNH, theo khoản 2 Điều 8 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP thì các phương tiện, thiết bị thu gom, vận chuyển CTNH phải đáp ứng yêu cầu kỹ thuật và quy trình quản lý theo quy định. Theo hướng dẫn tại mục 4.1 Phụ lục 2(B) Thông tư số 36/2015/TT-BTNMT thì các phương tiện vận chuyển CTNH phải đáp ứng yêu cầu về an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường tương tự như các phương tiện vận chuyển hàng hóa cùng loại theo quy định của pháp luật. Nội dung này tiếp tục được quy định tại khoản 1 mục IV Phụ lục V Nghị định số 60/2016/NĐ-CP. Tuy nhiên, có thể thấy rằng quy định này không cụ thể, rõ ràng. Đây là một yêu cầu bắt buộc song các vấn đề “về an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường tương tự như các phương tiện vận chuyển hàng hóa cùng loại” là như thế nào vẫn chưa được pháp luật quy định cụ thể. Điều này có thể tạo ra những khó khăn cho các chủ thể thực hiện và áp dụng pháp luật.
Từ những bất cập nêu trên, để bảo đảm khoảng cách an toàn cho môi trường và con người, theo tác giả khoản 2 Điều 9 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP cần phải bổ sung lại như sau: “địa điểm của cơ sở xử lý CTNH (trừ trường hợp cơ sở sản xuất có hoạt động đồng xử lý CTNH) thuộc các quy hoạch có nội dung về quản lý, xử lý chất thải do cơ quan có thẩm quyền từ cấp tỉnh trở lên phê duyệt theo quy định của pháp luật và phải bảo đảm khoảng cách an toàn tối thiểu là 10 km2”. Theo tác giả, “10 km2” là một khoảng cách tối thiểu đủ để giữ mức độ an toàn cơ bản cho các khu dân cư, bởi nếu dưới 10km2 khả năng gây ô nhiễm môi trường, mức độ đe dọa người dân sinh sống xung quanh sẽ rất cao.
Nhằm khắc phục các vấn đề khó khăn trong việc áp dụng và thực thi pháp luật liên quan đến vấn đề sử dụng các phương tiện, thiết bị thu gom, vận chuyển CTNH, Bộ Tài nguyên và Môi trường phải xem xét, tính toán, đánh giá để ban hành các quy định hướng dẫn cụ thể “các yêu cầu về an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường tương tự như các phương tiện vận chuyển hàng hóa cùng loại” được quy định tại mục 4.1 Phụ lục 2(B) Thông tư số 36/2015/TT-BTNMT, khoản 2 Điều 31 Nghị định số 60/2016/NĐ-CP. Cụ thể, Bộ Tài nguyên và Môi trường có thể tham khảo Thông tư số 70/2015/TT-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải về kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ. Trên cơ sở của Thông tư này, Bộ Tài nguyên và Môi trường có thể tự mình hoặc tham mưu cho Chính phủ ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể các yêu cầu về an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với các phương tiện vận chuyển CTNH. Văn bản quy định hướng dẫn này phải cụ thể, khả thi, phù hợp với điều kiện thực tiễn để có thể áp dụng được trên thực tế.
3. Điều kiện cơ sở quản lý chất thải nguy hại
Các cơ sở quản lý CTNH không chỉ phải đáp ứng các điều kiện về cơ sở vật chất mà còn phải đáp ứng điều kiện về nhân sự.[6] Các điều kiện về nhân sự được quy định tại khoản 5 Điều 9 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP đã góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý CTNH, phù hợp với yêu cầu không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý, điều hành. Tuy nhiên, một số quy định vẫn còn bất cập chưa đáp ứng được các yêu cầu trong công tác quản lý CTNH trong điều kiện hiện nay.
Theo điểm b khoản 5 Điều 9 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP, số lượng nhân sự quản lý, điều hành, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ tại trạm trung chuyển CTNH phải bảo đảm tối thiếu ít nhất là 01 người có trình độ chuyên môn thuộc chuyên ngành liên quan đến môi trường hoặc hóa học. Quy định này nếu áp dụng cho các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, có khối lượng CTNH phải xử lý ít là phù hợp nhưng đối với các doanh nghiệp phải xử lý khối lượng CTNH lớn thì quy định này chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu quản lý và bảo đảm trình độ chuyên môn trong công tác quản lý CTNH tại các trạm trung chuyển CTNH. Trên thực tế, các trạm trung chuyển CTNH hằng ngày tiếp nhận rất nhiều các loại rác thải nguy hại tập trung về trước khi tiến hành vận chuyển đến nơi xử lý.[7] Nếu như công tác kiểm soát, quản lý, điều hành không được bảo đảm thì hậu quả và ảnh hưởng tiêu cực do CTNH tại các trạm trung chuyển gây ra cho môi trường và con người là điều rất khủng khiếp. Vì vậy, đòi hỏi pháp luật cần phải có sự điều chỉnh tăng lên về số lượng tối thiểu để bảo đảm yêu cầu về đội ngũ nhân sự quản lý, điều hành tại các trạm trung chuyển CTNH.
Hiện nay, các yêu cầu đối với đội ngũ vận hành được quy định tại điểm d khoản 5 Điều 9 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP vẫn còn lỏng lẻo, chưa đáp ứng yêu cầu về mặt chất lượng. Việc bảo đảm an toàn, chính xác trong hoạt động vận hành các hệ thống thiết bị thu gom, vận chuyển, xử lý CTNH là rất quan trọng. Vì vậy, nếu chỉ quy định chung chung sơ sài theo kiểu “có đội ngũ vận hành và lái xe được đào tạo, tập huấn bảo đảm vận hành an toàn các phương tiện, hệ thống, thiết bị” thì hoàn toàn không thỏa đáng. Để đánh giá và bảo đảm được chất lượng nguồn nhân lực thì không chỉ đơn giản ở việc quy định “được đào tạo, tập huấn” mà còn phải quy định rõ những yêu cầu về chứng chỉ hành nghề, về kinh nghiệm dành riêng cho đối tượng này. Điều này không chỉ bảo đảm về mặt chất lượng yêu cầu công việc mà còn là cơ sở vững chắc để truy cứu trách nhiệm khi có hành vi vi phạm do không đáp ứng được yêu cầu, tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ theo quy định.
Để khắc phục các bất cập nêu trên, theo tác giả, cần phải sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 5 Điều 9 Nghị định số 38/2015 theo hướng: “một trạm trung chuyển CTNH phải có ít nhất 02 (hai) người đảm nhiệm việc quản lý, điều hành, hướng dẫn về chuyên môn, kỹ thuật có trình độ chuyên môn thuộc chuyên ngành liên quan đến môi trường hoặc hóa học và được cấp chứng chỉ quản lý CTNH theo quy định”. Việc quy định tăng số lượng nguồn nhân lực đảm nhiệm việc quản lý, điều hành, hướng dẫn tại các trạm trung chuyển CTNH lên thành 02 người và yêu cầu phải có chứng chỉ quản lý CTNH sẽ đáp ứng được nguồn nhân lực đủ về số lượng, vững về trình độ chuyên môn để thực hiện việc điều hành, quản lý, hướng dẫn chuyên môn, kỹ thuật tại các trạm trung chuyển CTNH được hiệu quả.
Đồng thời, để khắc phục tình trạng lỏng lẻo, chưa đáp ứng về mặt chất lượng trong việc quy định các yêu cầu đối với đội ngũ vận hành, tác giả cho rằng cần phải sửa đổi, bổ sung lại điểm d khoản 5 Điều 9 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP. Theo đó, điều khoản này sẽ được sửa đổi như sau: “có đội ngũ vận hành được đào tạo, tập huấn bảo đảm vận hành an toàn các phương tiện, hệ thống, thiết bị, có kinh nghiệm chuyên môn và bằng cấp hoặc chứng chỉ theo yêu cầu”. Quy định như vậy sẽ loại bỏ những đối tượng không có kinh nghiệm, chuyên môn, nghiệp vụ, sàng lọc và chọn ra nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ và chất lượng công việc.
4. Dịch vụ quản lý chất thải nguy hại
Khoản 4 Điều 7 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP quy định: “trường hợp không tự tái sử dụng, tái chế, đồng xử lý, xử lý, thu hồi năng lượng từ CTNH tại cơ sở, chủ nguồn thải CTNH phải ký hợp đồng để chuyển giao CTNH với tổ chức, cá nhân có giấy phép phù hợp”. Như vậy, khi chủ nguồn thải CTNH muốn chuyển giao trách nhiệm quản lý CTNH cho các chủ thể kinh doanh dịch vụ quản lý CTNH thì bắt buộc phải thiết lập hợp đồng dịch vụ quản lý CTNH. Hợp đồng dịch vụ quản lý CTNH là cơ sở quan trọng để các bên tham gia hợp đồng ràng buộc nhau về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm sau khi chuyển giao CTNH. Hiện nay vấn đề này vẫn còn tồn tại một số bất cập cần phải hoàn thiện.[8]
So với chất thải sinh hoạt,[9] các văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh về hoạt động quản lý CTNH chưa có quy định nào hướng dẫn chi tiết về hình thức, nội dung của hợp đồng dịch vụ quản lý CTNH. Do đó, các chủ thể phải dựa vào Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Thương mại năm 2005 để xác lập các hợp đồng dịch vụ quản lý CTNH. Thực tế, khi không quy định hướng dẫn rõ ràng về hình thức, biểu mẫu của hợp đồng dịch vụ quản lý CTNH sẽ dẫn đến tình trạng không tạo được sự thống nhất về mặt hình thức, gây khó khăn cho các chủ thể trong việc tiếp cận, xây dựng các hợp đồng dịch vụ quản lý CTNH.
Để khắc phục những điểm bất cập nêu trên, cần thiết phải ban hành một văn bản quy phạm pháp luật quy định hướng dẫn các biểu mẫu hợp đồng dịch vụ dành riêng cho hoạt động quản lý CTNH. Theo tác giả, hợp đồng dịch vụ quản lý CTNH cần được chia thành ba loại giống như hợp đồng dịch vụ thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt gồm:[10] (i.) hợp đồng dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý CTNH; (ii.) hợp đồng dịch vụ thu gom và vận chuyển CTNH; (iii.) hợp đồng dịch vụ xử lý CTNH. Tương ứng với từng loại hợp đồng sẽ có một biểu mẫu hướng dẫn cụ thể thống nhất về mặt nội dung, hình thức.
Về nội dung biểu mẫu hợp đồng, pháp luật môi trường có thể sử dụng kinh nghiệm của Luật Thương mại năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015. Cụ thể, trong nội dung của hợp đồng chuyển giao trách nhiệm quản lý CTNH cần phải có các điều khoản điều chỉnh các vấn đề về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên trong hợp đồng như: (i.) trách nhiệm giao CTNH và chứng từ liên quan; (ii.) địa điểm, thời hạn giao CTNH; (iii.) thời điểm chuyển rủi ro; (iv.) trách nhiệm của các bên trong việc phân loại, bảo quản, lưu giữ CTNH trước và sau khi chuyển giao; (v.) trách nhiệm của chủ nguồn thải CTNH khi giao không đúng loại CTNH đã được quy định trong hợp đồng; (vi.) trách nhiệm của chủ xử lý CTNH đối với chủ nguồn thải khi không bảo đảm điều kiện để hành nghề quản lý CTNH, hoặc không bảo đảm đúng quy trình, kỹ thuật trong quá trình quản lý CTNH gây ra hậu quả về môi trường… Ngoài ra, pháp luật cần phải quy định rõ trong hợp đồng phải có các điều khoản về vấn đề bảo đảm quyền lợi của bên sử dụng dịch vụ quản lý CTNH khi bên cung cấp dịch vụ có sự điều chỉnh hoặc cấp lại giấy phép theo quy định của pháp luật. Việc quy định như vậy sẽ điều chỉnh hợp đồng được chi tiết hơn mà không sợ bị chồng lấn giữa các quy định pháp luật, từ đó góp phần giảm thiểu các rủi ro pháp lý và những tranh chấp có thể phát sinh..
CHÚ THÍCH
[1] An Dương, “Bất cập trong thu gom và xử lý chất thải nguy hại gây ô nhiễm môi trường”, Tạp chí điện tử Môi trường và Cuộc sống, truy cập ngày 09/8/2018.
[2] Nguyễn Thượng Hiền, Đỗ Tiến Đoàn, “Đánh giá hiện trạng quản lý chất thải y tế nguy hại và đề xuất các giải pháp”, Tạp chí Môi trường, http://vea.gov.vn/vn/truyenthong/tapchimt/, truy cập ngày 09/08/2018.
[3] Một vài trường hợp phải kể đến như: Công ty trách nhiệm hữu hạn khoa học kỹ thuật năng lượng mặt trời BoViet chuyển giao 260 vỏ thùng đựng hóa chất đã qua sử dụng có dung tích 1000 lít/ thùng, tương đương 15.600 kg cho Công ty trách nhiệm hữu hạn đầu tư Golden Star Việt Nam không có Giấy phép xử lý CTNH theo quy định; hay những sai phạm của công ty URENCO Hà Nội, công ty Tường Hựu, công ty TNHH Apple Film Đà Nẵng, Công ty Hydra Việt Nam có địa chỉ tại các khu công nghiệp trên thành phố Đà Nẵng có hành vi chuyển giao CTNH cho tổ chức, cá nhân không có năng lực xử lý theo quy định.
[4] Khoản 13 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014.
[5] Thái Ba, “Ninh Bình lò đốt rác bệnh viện cải tạo xong, vận hành dân đã chạy tán loạn”, Báo điện tử Bảo vệ môi trường, https://baovemoitruong.com/moi-truong-doi-song/ninh-binh-lo-dot-rac-benh-vien-cai-tao-xong-van-hanh-thu-dan-da-chay-tan-loan.html, truy cập ngày 07/8/2018.
[6] Xem khoản 5 Điều 9 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP.
[7] Đơn cử như trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh hiện nay có 31 trạm trung chuyển và hàng ngàn điểm tập kết rác lớn, nhỏ ở khắp các quận, huyện. Một số trạm trung chuyển rác nằm trong lòng khu dân cư, có đông người dân sinh sống đã trở thành “điểm đen” khiến người dân TP. Hồ Chí Minh ngán ngẩm như: Trạm trung chuyển ở phường Hiệp Bình Chánh, Quận Thủ Đức; trạm dưới chân cầu Chánh Hưng, Quận 8; trạm trong khu dân cư Nam Hùng Vương, Quận Bình Thạnh…. Xem: Võ Nguyễn, “Điểm tập kết, trung chuyển rác: Nỗi lo sợ của người dân thành phố”, Báo điện tử Báo mới, https://baomoi.com/diem-tap-ket-trung-chuyen-rac-noi-lo-so-cua-nguoi-dan-thanh-pho/c/20821573.epi, truy cập ngày 06/08/2018.
[8] Trần Linh Huân, “Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ quản lý chất thải nguy hại dưới góc độ Luật Môi trường”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, truy cập ngày 24/12/2018.
[9] Khoản 1 Điều 24 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP quy định: “Hợp đồng dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt gồm có các loại hợp đồng: hợp đồng dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt; hợp đồng dịch vụ thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt; hợp đồng dịch vụ xử lý chất thải rắn sinh hoạt”.
[10] Khoản 1 Điều 24 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP.
-
- Tác giả: ThS. Trần Linh Huân
- Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 08(120)/2018 – 2018, Trang 53-57
- Nguồn: Fanpage Tạp chí Khoa học pháp lý
Trả lời