Mục lục
Pháp luật thuế tài sản của Pháp – Từ thực tiễn áp dụng đến kinh nghiệm cho Việt Nam
Tác giả: ThS. Nguyễn Thị Thúy
TÓM TẮT
Một trong những nội dung của dự thảo Luật Thuế tài sản tạo ra nhiều tranh luận cũng như thu hút nhiều quan điểm khác nhau chính là những quy định liên quan đến cơ sở tính thuế tài sản, đối tượng chịu thuế tài sản cũng như những tác động của thuế tài sản đối với xã hội và nền kinh tế Việt Nam. Trong khi đó, pháp luật thuế tài sản đã tồn tại lâu đời tại Pháp. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những kinh nghiệm áp dụng luật thuế tài sản của Pháp sẽ giúp chúng ta có thể giải quyết được những vấn đề đang được tranh luận và đồng thời rút ra những bài học hữu ích để xây dựng và áp dụng một cách có hiệu quả luật thuế tài sản tại Việt Nam.
Xem thêm:
- Khía cạnh pháp lý trong việc xây dựng nội dung quy định đối tượng chịu thuế tài sản – TS. Lê Thị Ngân Hà
- Những thành tố pháp lý bảo đảm tính hiệu quả của Luật Thuế tài sản – ThS. Trương Thị Tuyết Minh
- Đánh giá tác động của Dự thảo Luật Thuế tài sản đối với thị trường bất động sản – ThS. Trần Minh Hiệp
- Những thành tố pháp lý bảo đảm tính hiệu quả của Luật Thuế tài sản – ThS. Trương Thị Tuyết Minh
- Việc sử dụng quyết định của Tòa án trong hoạt động nghiên cứu và giảng dạy tại Cộng hòa Pháp – GS. Pierre Macqueron
TỪ KHÓA:
Thuế tài sản là một sắc thuế có đối tượng chịu thuế là tài sản có giá trị rơi vào ngưỡng chịu thuế và người nộp thuế chính là chủ sở hữu hoặc những chủ thể có các quyền khác đối với tài sản đó. Đây là một trong ba loại thuế phổ biến trong hệ thống thuế của hầu hết các quốc gia hiện đại bên cạnh thuế thu nhập cá nhân và thuế giá trị gia tăng. Khi bàn về thuế tài sản, chúng ta có thể kể đến các quốc gia ở châu Âu như Pháp, Thụy Sĩ, Na Uy, Tây Ban Nha, Hà Lan, hay những đại diện đến từ châu Á gồm Ấn Độ, Trung Quốc, Đài Loan, Indonesia, Philippines, Thái Lan…[1]
Việc Bộ Tài chính công bố Dự thảo Tờ trình Chính phủ về đề nghị xây dựng dự án Luật Thuế tài sản của Việt Nam thể hiện sự tiếp thu những tiến bộ, phát triển của các hệ thống luật trên thế giới đồng thời đáp ứng những yêu cầu của công cuộc hội nhập. Tuy nhiên, để việc áp dụng sắc thuế này thể hiện đúng bản chất, bảo đảm tính công bằng trong quá trình áp dụng, các nhà làm luật cần có những nghiên cứu, đánh giá về những kinh nghiệm thực tiễn của các quốc gia khác. Trong phạm vi bài viết, tác giả hướng đến chia sẻ thực tiễn áp dụng luật thuế tài sản tại Pháp đồng thời chỉ ra những kiến nghị nhằm phục vụ cho quá trình xây dựng Luật Thuế tài sản của Việt Nam.
1. Lịch sử hình thành và phát triển của thuế tài sản ở Pháp
Thuế tài sản thực chất đã được áp dụng từ lâu đời ở Pháp, cụ thể vào năm 1945 với tên gọi “thuế đoàn kết quốc gia” (Impôt de solidarité nationale) nhằm hướng đến đối tượng chịu thuế là tài sản với mục đích giảm bớt khoảng cách giàu nghèo trong xã hội. Tuy nhiên, loại thuế tài sản này cũng đã gây ra không ít tranh cãi, dẫn đến việc nhiều lần phải sửa đổi, thậm chí bị bãi bỏ[2] qua nhiều thời kỳ chính phủ khác nhau tại Pháp, bởi vì nguồn gốc của sự ban hành một đạo luật hay một sắc thuế đều xuất phát từ ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội.[3] Phải đến năm 1989, thuế tài sản mới chính thức được khôi phục áp dụng dưới tên gọi mới là “thuế đoàn kết tài sản” (Impôt de solidarité sur la fortune – ISF). ISF có bản chất của một loại thuế áp dụng thuế suất lũy tiến đối với tài sản thuộc sở hữu của cá nhân, hoặc thuộc sở hữu chung của các cặp đôi, chứ không hướng vào đánh thuế đối với các tài sản của pháp nhân. Sự khác biệt rõ rệt nhất giữa ISF so với các loại thuế khác cũng áp dụng đối với tài sản chính là ở tính định kì trong việc nộp thuế. Điều này có nghĩa, người nộp thuế ISF phải đóng thuế vào ngày 01 tháng 01 hằng năm của năm tài chính và mức thuế phải đóng tùy thuộc vào mức thuế suất tương ứng với giá trị tài sản chịu thuế theo từng thời kỳ.
Như đã đề cập bên trên, việc ban hành, sửa đổi hay bãi bỏ một đạo luật sâu xa đều xuất phát từ ý chí, từ lợi ích của giai cấp thống trị. Do đó, việc chính quyền Emmanuel Macron[4] ban hành đạo luật thuế tài sản mới thay thế cho ISF hiện hành nhằm hiện thực hóa một trong những cam kết trong chiến dịch vận động tranh cử, kêu gọi sự ủng hộ của cử tri dành cho mình. Chính vì vậy, kể từ ngày 01/01/2018, ISF được thay thể bởi “thuế bất động sản” (impôt sur la fortune immobilière – IFI) và đúng như tên gọi của mình, IFI là loại thuế với đối tượng chịu thuế được giới hạn trong phạm vi các tài sản là bất động sản (nhà ở, căn hộ, đất, các quyền tài sản… ). Như vậy, sự khác biệt của IFI so với ISF trước năm 2018 là ở đối tượng chịu thuế. Nếu như đối tượng chịu thuế của ISF là mọi loại tài sản có giá trị bằng hoặc cao hơn ngưỡng giá trị chịu sự điều tiết của thuế (1.300.000 euros) thì IFI chỉ áp dụng đối với những bất động sản với cùng ngưỡng chịu thuế. Mặt khác, IFI vẫn giữ nguyên mức thuế suất như ISF quy định, cụ thể mức thuế suất của IFI sẽ được áp dụng dao động từ 0,5% đến 1,5% (Điều 964 Bộ luật chung về Thuế – CGI[5]).[6]
Dù được đặt với các tên gọi khác nhau, thuế tài sản Pháp đều có bản chất hướng đến việc giảm sự cách biệt giàu nghèo trong xã hội, tiếp theo là nhằm hướng đến việc sử dụng nguồn thuế thu được để tái đầu tư vào cơ sở hạ tầng, vào lợi ích an sinh xã hội. Qua thực tiễn áp dụng cho thấy thuế tài sản của Pháp nói riêng và của các quốc gia khác nói chung đã đem lại một nguồn thu đáng kể cho chính các quốc gia áp dụng. Chẳng hạn ở Pháp, trong năm 2008, thuế tài sản đã mang lại cho Chính phủ Pháp 4,2 tỷ euro, tương đương 1,5% tổng các nguồn thu từ thuế của quốc gia; năm 2010 là 4,46 tỷ euro và 5,3 tỷ euro vào năm 2014.[7] Chính từ nguồn thu to lớn đó, thuế tài sản gắn liền với mục đích khuyến khích việc đóng thuế từ những người dân Pháp giàu có nhằm góp phần phục hồi, cải tạo, phát triển cơ sở hạ tầng nơi có tài sản chịu thuế đồng thời tái đầu tư cho nền kinh tế, cho xã hội, do đó Pháp vẫn kiên trì áp dụng sắc thuế này dù có nhiều quốc gia hiện nay đã bãi bỏ việc áp dụng luật thuế tài sản.[8] Tuy nhiên có những vấn đề đặt ra cần được tìm hiểu, chẳng hạn như chính phủ Pháp đã quy định cách thức đánh thuế ra sao? Những đối tượng chịu thuế được đưa ra trên những cơ sở pháp lý nào? Cách thức sử dụng nguồn thuế thu được từ thuế tài sản này được Chính phủ Pháp hoạch định, sử dụng hiệu quả ra sao để đảm bảo đúng mục đích ban đầu mà thuế tài sản được đặt ra cũng như bảo đảm sự công bằng giữa những người nộp thuế tài sản trong xã hội?
2. Nội dung của IFI trong tương quan so sánh với dự thảo Luật Thuế tài sản
2.1. Người nộp thuế bất động sản IFI
Thuế bất động sản IFI được áp dụng đối với những chủ thể sở hữu các bất động sản có tổng giá trị bằng hoặc vượt ngưỡng chịu thuế do pháp luật quy định. Ngoài cá nhân, người nộp thuế còn có thể là các cặp đôi (có thể đang trong thời kỳ hôn nhân; không kết hôn nhưng chung sống như vợ chồng; hoặc đã cùng ký kết hiệp ước chung sống “PACS”);[9] hay những người cùng có quyền tài sản liên quan đến đối tượng chịu thuế. Trường hợp người nộp thuế IFI là cặp đôi hay những người cùng có quyền tài sản (quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản)[10] liên quan đến bất động sản chịu thuế, những chủ thể này phải cùng có nghĩa vụ đóng thuế bất động sản. Cần lưu ý, trong trường hợp vợ chồng đang ly thân, hoặc đang tiến hành thủ tục ly hôn cũng như phân chia tài sản, những chủ thể này phải tiến hành nộp thuế IFI riêng biệt.
Một vấn đề nổi bật liên quan đến người nộp thuế theo IFI cần quan tâm chính là những cá nhân có nơi cư trú trên lãnh thổ Pháp phải chịu thuế IFI đối với tất cả các bất động sản thuộc sở hữu hoặc có các quyền tài sản cho dù bất động sản đó ở Pháp hay ở nước ngoài; hoặc những cá nhân không có nơi cư trú tại Pháp nhưng sở hữu hoặc có các quyền tài sản đối với bất động sản tọa lạc ở Pháp, trừ trường hợp áp dụng công ước quốc tế về thuế mà Pháp là thành viên (Điều 964 CGI). Dự thảo Luật Thuế tài sản Việt Nam hiện vẫn chưa có quy định nào liên quan đến người nộp thuế là công dân Việt Nam sở hữu hay có các quyền tài sản đối với bất động sản tại nước ngoài.[11] Giả sử A là một công dân Việt Nam, sở hữu một căn nhà tại Việt Nam và một căn nhà tại Pháp (giả sử rằng cả hai tài sản trên đều có giá trị nằm trong ngưỡng chịu thuế tài sản theo pháp luật thuế tài sản Việt Nam và Pháp). Theo quy định thuế IFI của Pháp thì người này phải nộp thuế tài sản ở cả hai nước đồng nghĩa với việc người này phải nộp đến hai lần tiền thuế tài sản cho những tài sản thuộc sở hữu của mình. Về bản chất, đã có hiện tượng thuế trùng thuế ở đây dù chủ thể thu thuế là hai chủ thể khác nhau. Vì vậy đã có sự vi phạm nguyên tắc việc thu thuế không được trở thành gánh nặng cho người nộp thuế. Việc thu thuế tài sản xuất phát từ mục đích tái đầu tư cho cơ sở hạ tầng, cải tạo, phát triển cơ sở vật chất, đời sống an sinh cho khu vực có tài sản chịu thuế trên nguyên tắc người sở hữu nhiều tài sản là đối tượng chịu thuế phải nộp thuế tài sản nhiều hơn người sở hữu ít tài sản, vậy phải làm sao để việc nộp thuế tài sản không trở thành nỗi ám ảnh hay gánh nặng đối với người nộp thuế? Thiết nghĩ, nhà làm luật khi xem xét bổ sung chủ thể nộp thế như trên thì cũng cần có cơ chế miễn giảm đối với những tài sản chịu thuế mà cá nhân Việt Nam sở hữu tại nước ngoài tùy thuộc mục đích sử dụng của tài sản đó bởi thực tế tài sản này tọa lạc tại một nước khác, nên việc thu thuế tài sản đối với tài sản này không phản ánh đúng ý nghĩa tái đầu tư vào khu vực có tài sản chịu thuế. Trong những trường hợp này, cần có những quy định chi tiết, cụ thể hơn để xác định chính xác đối tượng chịu thuế cũng như nghĩa vụ nộp thuế của những chủ thể trên.
2.2. Đối tượng không chịu thuế và đối tượng chịu thuế IFINhững nhóm bất động sản sau đây thuộc nhóm không chịu thuế IFI (Điều 975, 976 CGI): bất động sản dùng thực hiện các hoạt động nghề nghiệp chuyên môn theo luật định; bất động sản thuộc thời cổ đại, mang tính nghệ thuật hoặc thuộc bộ sưu tập nghệ thuật; những quyền về sở hữu văn chương, nghệ thuật hay quyền sở hữu công nghiệp; rừng hoặc nhóm rừng lâm nghiệp; đất nông thôn được cho thuê dài hạn và nằm trong nhóm đất nông nghiệp; tài sản dành cho hưu trí; hiện vật dùng bồi thường cho thiệt hại vật chất gây ra bởi tai nạn hoặc bệnh tật. Như vậy, ngoài những bất động sản thuộc nhóm không chịu thuế IFI trên thì theo pháp luật thuế tài sản của Pháp, tất cả các bất động sản và những quyền khác về tài sản mà tổng giá trị rơi vào ngưỡng chịu thuế được công bố vào ngày 01/01 hàng năm sẽ trở thành đối tượng chịu thuế của IFI (Điều 965 CGI). Cần lưu ý rằng, không chỉ những tài sản có bản chất vật lý được định nghĩa là bất động sản như nhà ở, nhà cho thuê, căn hộ, đất… mới thuộc đối tượng chịu thuế của IFI, mà đối tượng chịu thuế IFI còn bao gồm cả những phần vốn mà cá nhân sở hữu trong các công ty bất động sản, công ty đầu tư bất động sản, hay trong các quỹ đầu tư bất động sản.
Một điểm nữa cần lưu ý về đối tượng chịu thuế IFI đó là trong trường hợp quyền sở hữu một bất động sản bị chia cắt (một điểm nữa cần lưu ý về đối tượng chịu thuế IFI chính là quyền hưởng dụng đối với bất động sản cũng là đối tượng chịu thuế IFI), quyền hưởng dụng đối với bất động sản đó cũng là đối tượng chịu thuế IFI. Dự luật Thuế Tài sản Việt Nam mới chỉ dừng lại ở quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng, quyền chiếm hữu tài sản thuộc đối tượng chịu thuế nhưng các quyền đối với tài sản không chỉ dừng lại ở quyền sử dụng, quyền chiếm hữu, quyền định đoạt đối với tài sản đó mà còn có các quyền khác đối với tài sản, và một trong số đó là quyền hưởng dụng.[12] Một chủ thể có quyền hưởng dụng đối với một tài sản sẽ có quyền sử dụng và thu hoa lợi từ tài sản thuộc sở hữu của một người khác nhưng không có quyền định đoạt đối với tài sản đó. Vấn đề được đặt ra trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng còn sống nhận thừa kế là quyền hưởng dụng một căn hộ chung cư do người kia để lại, điều này có nghĩa rằng người thừa kế có thể sinh sống hoặc cho thuê lại căn chung cư nhưng không được quyền định đoạt đối với căn chung cư này, chỉ có chủ sở hữu tài sản là đối tượng của quyền hưởng dụng mới có quyền định đoạt tài sản nhưng chủ sở hữu này lại không được khai thác, sử dụng và hưởng hoa lợi từ tài sản đó.[13] Từ đó cho thấy rằng, có đầy đủ cơ sở thu thuế tài sản đối với người có quyền hưởng dụng đối với đất ở, nhà ở, căn hộ, chung cư hoặc những tài sản là đối tượng chịu thuế. Vì thế, các nhà làm luật cần đánh thuế đối với những chủ thể có quyền hưởng dụng đối với tài sản là đối tượng chịu thuế tài sản bên cạnh chủ thể có quyền sử dụng từ việc thuê tài sản là đối tượng chịu thuế tài sản như dự thảo đang quy định.
Như vậy, đối tượng chịu thuế tài sản theo luật của Pháp chủ yếu bao gồm nhà, căn hộ, đất, những phần vốn mà cá nhân sở hữu trong các công ty bất động sản, công ty đầu tư bất động sản, hay trong các quỹ đầu tư bất động sản và các quyền tài sản liên quan. Trong khi đó các nhà làm luật Việt Nam, ngoài việc đã xác định đất phi nông nghiệp, đất ở là đối tượng chịu thuế tài sản đầu tiên,[14] còn đang lựa chọn giữa hai phương án liên quan đến đối tượng chịu thuế: (i) nhà ở, nhà và công trình thương mại dịch vụ; (ii) nhà ở. Dù theo quy định của pháp luật về thu thuế tài sản, đất là đối tượng chịu thuế tài sản nên chủ sở hữu phải nộp thuế tài sản đối với đất và đối với nhà ở trên chính mảnh đất đó. Nếu xuất phát từ bản chất của thuế tài sản nhằm đầu tư lại cho cơ sở hạ tầng, góp phần nâng cao đời sống, an sinh xã hội nơi có tài sản chịu thuế thì đúng một địa điểm có đến hai tài sản chịu thuế. Mặt khác, chủ sở hữu nhà đất đó cũng đã phải nộp thuế nếu như tiến hành chuyển nhượng các loại tài sản này. Có vô hình trung đặt lên vai người nộp thuế quá nhiều loại thuế hay chăng? Thiết nghĩ, cần có những quy định giảm thuế tài sản đối với đất ở đã được xây dựng công trình ở trên mảnh đất đó (tương tự như thuế IFI của Pháp quy định giảm thuế cho nhà dùng làm nơi cư trú chính). Cụ thể, A sở hữu một căn nhà là nơi cư trú chính thức tọa lạc tại quận 1 và một mảnh đất ở quận 9, như vậy tất cả đều là đối tượng chịu thuế tài sản. Theo nguyên tắc, A phải nộp thuế tài sản cho căn nhà ở quận 1, thuế tài sản cho mảnh đất gắn với căn nhà ở quận 1 và thuế tài sản cho mảnh đất ở quận 9. Trong trường hợp này, các nhà làm luật có thể áp dụng một mức giảm thuế đối với mảnh đất quận 1 bằng cách trước khi nhân với thuế suất 0,4%, chủ sở hữu mảnh đất quận 1 sẽ được giảm 10-20% giá trị của mảnh đất ở quận 1, sau đó mới nhân với thuế suất 0,4%. Còn đối với mảnh đất ở quận 9, dù có xây dựng nhà trên đất hay chưa thì lúc này vẫn phải nộp toàn bộ thuế theo quy định của pháp luật thuế tài sản. Có như vậy mới thể hiện đúng bản chất công bằng chứ không cào bằng trong việc thu thuế tài sản.
2.3. Cách thức tính thuế bất động sản
Bất động sản chịu thuế IFI khi mà tổng giá trị của các bất động sản thuộc sở hữu của người nộp thuế có giá trị cao hơn ngưỡng chịu thuế được công bố vào ngày 01/01 mỗi năm tài chính.[15] Giá trị của bất động sản được định giá dựa trên giá thị trường của bất động sản tính trên mét vuông được công bố tại các thành phố lớn của Pháp hoặc các khung giá bất động sản được cung cấp bởi các phòng công chứng cũng có giá trị tham khảo.
Tùy thuộc vào tổng giá trị bất động sản chịu thuế mà mức thuế suất IFI sẽ được áp dụng cụ thể theo biểu thuế lũy tiến từng phần, trong đó pháp luật quy định 06 mức thuế suất áp dụng tương ứng với 06 bậc giá trị của bất động sản là đối tượng chịu thuế IFI: (1) 800.000 euro đầu tiên trong tổng giá trị bất động sản chịu thuế IFI sẽ chịu mức thuế suất là 0%; (2) phần giá trị trên 800.000 euro đến dưới hoặc bằng 1.300.000 euro sẽ chịu mức thuế suất là 0,50%; (3) trên 1.300.000 euros đến dưới hoặc bằng 2.570.000 euro áp dụng mức thuế suất là 0,70%; (4) trên 2.570.000 euro đến dưới hoặc bằng 5.000.000 euro sẽ chịu mức thuế suất là 1%; (5) trên 5.000.000 euros đến dưới hoặc bằng 10.000.000 euro mức thuế suất được áp dụng là 1,25% và (6) mức thuế suất là 1,50% sẽ được áp dụng đối với phần giá trị trên 10.000.000 euro của bất động sản là đối tượng chịu thuế IFI (Điều 977 CGI). Như vậy, với người nộp thuế là một cá nhân, cần xác định tổng giá trị bất động sản mà cá nhân này sở hữu để từ đó áp dụng mức thuế suất tương ứng với từng bậc trong biểu thuế để tính ra được số tiền thuế IFI mà người này phải nộp. Tuy nhiên, có một số lưu ý sau đây khi xác định giá trị bất động sản để xác định đúng mức thuế suất IFI tương ứng:
Một là, trường hợp người nộp thuế IFI sở hữu từ hai nhà ở hoặc căn hộ trở lên, người nộp thuế cần xác định rõ nơi ở chính của mình để được hưởng mức giảm 30% trên giá trị của nhà ở hoặc căn hộ trên cơ sở giá thị trường được công bố vào ngày 01/01 hằng năm khi tiến hành kê khai thuế IFI (Điều 973 CGI). Việc quy định mức giảm thuế này là hoàn toàn hợp lý xuất phát từ quyền sở hữu nhà ở, quyền được có một nơi cư trú là một quyền cơ bản, chính đáng của con người và được hiến pháp của hầu hết các quốc gia ghi nhận. Chính vì vậy, chính sách thuế áp dụng đối với tài sản là nơi cư ngụ chính này phải ưu đãi hơn so với các bất động sản còn lại không phục vụ cho mục đích chính là cư trú. Ví dụ, ông A sống trong một ngôi nhà trị giá 700.000 euros và đồng thời sở hữu một căn hộ trị giá 300.000 euro. Theo quy định pháp luật hiện hành – IFI, căn cứ tính thuế của căn nhà mà A sinh sống là giá trị căn nhà sau khi giảm 30% theo quy định tại Điều 973 CGI. Như vậy, tổng giá trị bất động sản A sở hữu là 790.000 euro tức chưa đến 800.000 euro, do đó, mức thuế suất IFI áp dụng cho A tương ứng mức thuế suất đầu tiên tức 0% theo biểu thuế IFI (Điều 977 CGI) và trong trường hợp này, A không phải nộp thuế IFI.
Thách thức đặt ra cho Dự Luật Thuế tài sản của Việt Nam nằm ở thuật ngữ “giá thị trường”. Ở góc độ tài chính, thuật ngữ “giá thị trường” vô cùng mơ hồ vì giá của bất động sản còn tùy thuộc nhiều yếu tố mà hiện tại vẫn chưa có những quy định cho thấy các nhà làm luật đưa ra những tiêu chí hay những cơ sở để dựa vào đó làm cơ sở định giá thị trường của bất động sản chịu thuế tài sản. Mặt khác, nếu dự thảo trao quyền công bố “giá thị trường” của nhà, đất thuộc đối tượng chịu thuế cho uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương mà không kèm theo những kênh tham khảo uy tín nào khác, cũng như việc trao quyền công bố độc quyền này có thể làm phát sinh sự lạm quyền, vì lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân để đầu cơ hay trục lợi.
Hai là, nếu người nộp thuế IFI sở hữu một căn nhà hoặc căn hộ dùng để cho thuê thì tùy theo thời hạn cho thuê sẽ được hưởng mức giảm 10% – 20% trên giá trị của căn nhà hay căn hộ đó. Quy định miễn giảm như trên nhằm hướng đến giảm bớt gánh nặng thuế chồng thuế cho người nộp thuế, bởi lẽ người nộp thuế IFI trong trường hợp này cũng đã phải nộp thuế cho phần thu nhập mình kiếm được từ việc cho thuê nhà.
Ba là, đối với những bất động sản là nhà ở mà người nộp thuế sở hữu được bằng vốn vay có thể được xem xét áp dụng một mức giảm nhất định trên giá trị của bất động sản đó. Cần lưu ý, việc vay vốn mua bất động sản này phải được thể hiện bằng văn bản (hợp đồng vay vốn), và phải có hành vi hoàn trả vốn vay theo kỳ hạn đã thỏa thuận, do đó việc vay vốn của người trong gia đình để mua bất động sản sẽ không thể được xét giảm trừ, trừ trường hợp việc vay này cũng được thể hiện bằng văn bản và có sự hoàn trả nợ vay theo định kỳ hằng tháng. Mức giảm thuế sẽ tùy thuộc vào giá trị của tài sản chịu thuế và khoản vay để sở hữu tài sản đó, với điều kiện khi giá thị trường của tài sản chịu thuế lớn hơn 5.000.000 euro thì tổng mức nợ được giảm thuế không được vượt quá 50% giá thị trường của tài sản chịu thuế (Điều 974 CGI). Quy định này khá mới mẻ so với Việt Nam, bởi vì Dự thảo Luật Thuế tài sản chỉ mới dừng lại ở quy định miễn thuế đối với nhà ở xã hội, nhà công vụ mà chưa hướng đến những loại nhà ở, chung cư mà người dân sở hữu được nhờ vốn vay. Nhóm đối tượng này sẽ nằm trong nhóm người nộp thuế tài sản nếu giá trị nhà ở nằm trong ngưỡng chịu thuế tài sản như dự thảo quy định.
Với mức sống ngày càng cao, đặc biệt ở các thành phố lớn, để có thể sở hữu một căn nhà, hay nhỏ hơn là một căn hộ chung cư luôn là niềm mơ ước chính đáng nhưng xa vời của bộ phận không nhỏ người lao động, những người làm công ăn lương tại Việt Nam. Thiết nghĩ, các nhà làm luật cần có những cơ sở để xác định nhóm người nộp thuế là chủ sở hữu của nhà ở, căn hộ, chung cư được hình thành từ vốn vay mà từ đó có những chính sách miễn giảm thuế tài sản phù hợp nhằm bảo đảm khích lệ cho những người lao động chân chính. Mặt khác, cần đưa ra tiêu chí hay cơ sở để phân biệt và loại ra khỏi đối tượng chủ thể được miễn giảm thuế tài sản đối với những nhóm chủ thể giàu có trong xã hội nhưng vẫn tiến hành đi vay để mua nhà, mua căn hộ, chung cư nhằm mục đích đầu cơ, kinh doanh bất động sản, có như vậy mới đảm bảo được nguyên tắc công bằng trong thu thuế.
Bốn là, tổng số tiền thuế IFI và tiền thuế thu nhập của một người nộp thuế không được vượt quá 75% thu nhập của người này.[16] Đây là cách thức khống chế mức thuế tối đa mà người nộp thuế phải nộp, tuy nhiên với mức 75% thu nhập của người nộp thuế là rất cao so với thu nhập bình quân trước thuế của người nộp thuế tại Việt Nam. Việc quy định hạn mức nộp thuế tối đa trên tổng thu nhập của người nộp thuế là một quy định hết sức nhân văn, dẫu biết rằng mục đích thu thuế nhằm hướng đến bảo đảm an sinh xã hội, công bằng đời sống và tái đầu tư cho nền kinh tế cũng như cho xã hội, nhưng hạn mức tối đa đó phải phù hợp với thu nhập thực tế của người lao động Việt Nam, với mức sống của từng vùng miền khác nhau để làm sao đảm bảo được sự công bằng giữa những người nộp thuế dựa trên khả năng tài chính của họ.
3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật thuế tài sản
Từ những phân tích được trình bày bên trên, các nhà làm luật Việt Nam có thể tham khảo, xem xét những vấn đề liên quan sau: thứ nhất, trường hợp người nộp thuế là công dân Việt Nam sở hữu hoặc có các quyền tài sản liên quan đến bất động sản tọa lạc tại nước ngoài; thứ hai, liên quan đến đối tượng chịu thuế tài sản, có nên chăng cần quy định cả những quyền đối với tài sản chịu thuế ngoài những đối tượng chịu thuế là nhà ở, công trình thương mại dịch vụ như dự thảo đang quy định; thứ ba, đối với cách thức tính thuế, các nhà làm luật Việt Nam cần xem xét bổ sung các trường hợp miễn giảm trên giá trị của tài sản chịu thuế chẳng hạn đối với trường hợp giảm mức giá trị chịu thuế đối với nhà là nơi cư trú chính thức của người nộp thuế, hay người nộp thuế sở hữu được tài sản là đối tượng chịu thuế tài sản từ vốn vay cũng cần có chính sách miễn giảm nhất định trên giá trị của tài sản chịu thuế.
Việc thu thuế tài sản, nếu nhìn ở tầm vĩ mô, rõ ràng mang lại lợi ích lớn lao cho xã hội, cho cộng đồng khi những nguồn thuế thu được được dùng để tái đầu tư cho cơ sở hạ tầng, nâng cấp mở rộng đường sá, trường học, tiến tới đảm bảo nước sạch điện sáng trên mọi miền nông thôn xa xôi của Việt Nam… Tuy nhiên, phải làm thế nào để có thể thu thuế tài sản đúng đối tượng chịu thuế, chính xác về người nộp thuế, bảo đảm tính công bằng chứ không phải cào bằng trong sắc thuế, hay để làm sao việc nộp thuế tài sản không phải trở thành một gánh nặng lên vai người lao động. Chính vì vậy, các nhà làm luật Việt Nam cần xem xét kỹ lưỡng, cũng như cân nhắc cẩn trọng khi tiến hành soạn thảo những quy định về cơ sở chịu thuế, những trường hợp cần được hưởng những ưu đãi về miễn giảm thuế trong xã hội. Khi tham nhũng đã và đang là vấn nạn trong bộ máy hành chính Việt Nam, cần có những cơ chế quản lý, giám sát để những nguồn thu từ thuế tài sản được sử dụng đúng mục đích, phát huy đúng bản chất tái đầu tư vào xã hội vào kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống từ đó góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
CHÚ THÍCH
[1] Báo cáo đánh giá tác động dự án Luật thuế tài sản.
[2] Thuế đoàn kết quốc gia của Pháp chính thức bị bãi bỏ vào năm 1947 và vào năm 1982, tức là phải sau 35 năm vắng bóng, sắc thuế áp dụng đối với hành vi sở hữu tài sản một lần nữa được áp dụng ở Pháp dưới một tên gọi mới – Thuế đối với tài sản lớn (Impôt sur les grandes fortunes – IGF). Tuy nhiên, IGF chỉ tồn tại được khoảng 2 năm vì vào năm 1987, IGF chính thức bị bãi bỏ bởi chính quyền Tổng thống Jacques Chirac. Đến năm 1989, chính quyền Michel Rocard một lần nữa khôi phục lại sắc thuế tài sản với phương thức vận hành tương tự như IGF nhưng với tên gọi mới là Thuế đoàn kết tài sản (Impôt de solidarité sur la fortune – ISF).
[3] Maurice Allais, L’impôt sur le capital et la réforme monétaire, 1ère éd., Nxb. Hermann Editeurs des sciences et des arts, 2008, tr. 124 – 151.
[4] Đương kim Tổng thống nước Cộng hòa Pháp.
[5] Bộ Luật chung về Thuế – Code général des impôts (CGI), Điều 964 – Điều 982, https://www.legifrance.gouv.fr/affichCode.do;jsessionid=FC812AAAC20FB509771A381C9A8435CF.tplgfr21s_3?idSectionTA=LEGISCTA000036384997&cidTexte=LEGITEXT000006069577&dateTexte=20180521, truy cập ngày 20/5/2018.
[6] Projet de Loi de finance 2018, Số 235, tr. 64, http://www.assemblee-nationale.fr/15/projets/pl0235.asp, truy cập ngày 20/05/2018.
[7] Báo cáo về thuế tài sản (ISF), https://www.impots.gouv.fr/portail/statistiques, truy cập ngày 20/05/2018.
[8] Nhật, Ý, Đức, Tây Ban Nha, Phần Lan…
[9] PACS – Pacte civil de solidarité.
[10] Điều 159 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[11] Điều 4 Dự thảo Luật Thuế tài sản.
[12] Điều 159, Điều 257 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[13] Tuy nhiên, cần phân biệt với trường hợp người nộp thuế là người thuê đất của Nhà nước để thực hiện dự án đầu tư (điểm a khoản 3 Điều 4 Dự thảo Luật Thuế tài sản) dù bản chất người đi thuê cũng có quyền sử dụng (Điều 189 Bộ luật Dân sự năm 2015) cụ thể là được quyền khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản đi thuê đó, tức từ tài sản thuộc sở hữu của chủ thể khác.
Cần xác định rõ quyền hưởng dụng không phải là quyền sử dụng mặc dù về mặt khái niệm, hai loại quyền này có khá nhiều điểm tương đồng với nhau vì đều “là quyền được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản” và chủ thể có quyền sử dụng, quyền hưởng dụng trong trường hợp này đều không phải là chủ sở hữu của tài sản. Điểm khác biệt quan trọng giữa quyền hưởng dụng và quyền sử dụng chính là tính không hủy ngang của quyền hưởng dụng. Ví dụ, A là chủ sở hữu của một căn nhà và có ý định để B khai thác, hưởng hoa lợi, lợi tức từ căn nhà của mình trong vòng 10 năm, trong trường hợp này A có hai phương thức để thực hiện. Thứ nhất, A có thể thỏa thuận trao quyền khai thác, hưởng hoa lợi, lợi tức cho B dưới hình thức hợp đồng cho thuê nhà, điều này có nghĩa rằng A đã chuyển quyền sử dụng của mình cho B. Thứ hai, A có thể trao quyền khai thác, hưởng hoa lợi, lợi tức cho B dưới hình thức trao cho B quyền hưởng dụng đối với căn nhà thuộc sở hữu của A. Khi thời hạn 10 năm chưa kết thúc, vì một lý do nào đó, A muốn lấy lại căn nhà thuộc sở hữu của mình thì quyền lợi của B sẽ được giải quyết ra sao? Nếu A chuyển cho B quyền sử dụng căn nhà của mình thông qua phương thức cho thuê thì A được quyền lấy lại tài sản thuộc hữu của mình và chỉ cần đền bù theo thỏa thuận trong hợp đồng cho thuê nhà vì đã vi phạm cam kết về thời hạn cho thuê. Ngược lại, nếu A chuyển cho B quyền hưởng dụng đối với nhà thuộc sở hữu của mình thì A không được lấy lại nhà khi chưa hết thời hạn hưởng dụng đã cam kết. Có thể nói rằng, trong một chừng mực nhất định, chủ thể có quyền hưởng dụng đối với một tài sản sẽ được bảo vệ quyền lợi tốt hơn chủ thể có quyền sử dụng đối với tài sản đó.
[14] Khoản 1 Điều 3 Dự Luật Thuế tài sản.
[15] Ngưỡng chịu thuế IFI 2018 là 1.300.000 euro (Điều 964 CGI).
[16] Projet de Loi de finance 2018, tlđd.
- Tác giả: ThS. Nguyễn Thị Thúy
- Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 07(119)/2018 – 2018, Trang 33-39
- Nguồn: Fanpage Tạp chí Khoa học pháp lý