Mục lục
Góp ý quy định về thương lượng tập thể và thỏa ước lao động tập thể trong Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi)
TÓM TẮT
Trên cơ sở phân tích một số nội dung quan trọng liên quan đến vấn đề thương lượng tập thể và thỏa ước lao động tập thể quy định tại Mục 2 và Mục 3 Chương V Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi), bài viết đề xuất một số góp ý nhằm chỉnh sửa và hoàn thiện các quy định này.
Xem thêm:
Xem thêm:
- Một số vướng mắc liên quan đến thủ tục tiến hành thương lượng tập thể theo Pháp luật lao động Việt Nam hiện hành – ThS. Nguyễn Thị Bích
- Một số góp ý về quy định liên quan đến tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp theo Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) – ThS. Đoàn Công Yên
- Kỷ luật lao động theo dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) và một số kiến nghị – TS. Hoàng Thị Minh Tâm & ThS. Nguyễn Thị Hoài Trâm
TỪ KHÓA: Góp ý sửa đổi Luật, Thương lượng tập thể, Thỏa ước lao động tập thể,
1. Dẫn nhập
Vấn đề thương lượng tập thể (TLTT) và thỏa ước lao động tập thể (TƯLĐTT) là hai trong số những nội dung quan trọng đươc quy định trong Bộ Luật Lao động (BLLĐ) năm 2012. TƯLĐTT là kết quả của quá trình TLTT, đóng vai trò rất lớn trong việc bảo đảm tốt hơn lợi ích của người lao động (NLĐ), góp phần duy trì quan hệ lao động (QHLĐ) hài hòa, ổn định, tiến bộ.
Trong Dự thảo BLLĐ (sửa đổi) lần 6 (Dự thảo),[1] cùng với các nội dung như đối thoại tại nơi làm việc, giải quyết tranh chấp trong quan hệ lao động, tiền lương, hợp đồng lao động, TLTT và TƯLĐTT cũng là những vấn đề được Ban soạn thảo (BST) đề cập khi xác định những nội dung lớn cần phải điều chỉnh trong Dự án BLLĐ (sửa đổi). Đây là một việc làm cần thiết, đặc biệt khi Việt Nam đã ký kết các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – EU (EVFTA), trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến hoạt động TLTT và vấn đề ký kết TƯLĐTT trong bối cảnh “đa” tổ chức đại diện NLĐ. Bài viết này xin được chia sẻ một số ý kiến góp ý cho các quy định về TLTT và TƯLĐTT trong Dự thảo.
1. Góp ý cho các Quy định về Thương lượng tập thể trong dự thảo
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), TLTT được hiểu là “tất cả các cuộc đàm phán/thương lượng diễn ra giữa một bên là người sử dụng lao động (NSDLĐ), một nhóm NSDLĐ hoặc một hay nhiều tổ chức của NSDLĐ với một bên là một hoặc nhiều tổ chức của NLĐ để: (i) xác định điều kiện lao động và điều khoản sử dụng lao động và/ hoặc; (ii) điều chỉnh mối quan hệ giữa NLĐ và NSDLĐ và/ hoặc; (iii) điều chỉnh mối quan hệ giữa những NSDLĐ hay tổ chức của họ với một hay những tổ chức của NLĐ”.[2]
Theo quy định tại Điều 66 BLLĐ năm 2012 thì:
“Thương lượng tập thể là việc tập thể lao động thảo luận, đàm phán với người sử dụng lao động nhằm mục đích sau đây:
– Xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ;
– Xác lập các điều kiện lao động mới làm căn cứ để tiến hành ký kết thoả ước lao động tập thể;
– Giải quyết những vướng mắc, khó khăn trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động”.
Như vậy, dù cho ở khái niệm của ILO hay của BLLĐ năm 2012, TLTT đều được hiểu một cách chung nhất là việc đàm phán giữa hai bên trong QHLĐ nhằm xác lập các điều kiện, điều khoản sử dụng lao động, với mục đích chính là tạo ra sự hài hòa, ổn định trong QHLĐ này.
Với tính chất đó, TLTT đóng một vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh QHLĐ giữa NLĐ và NSDLĐ. BLLĐ năm 2012 đã ghi nhận sự quan trọng này cũng như thể hiện mong muốn thúc đẩy hiệu quả của TLTT thông qua việc lần đầu tiên quy định TLTT thành một mục riêng (mục 2 Chương 5) với những nội dung cụ thể và chi tiết hơn. Kế thừa tinh thần đó của BLLĐ năm 2012, BST dự án BLLĐ (sửa đổi) cũng rất chú trọng đến nội dung TLTT, nhất là mong muốn làm sao cho các quy định về TLTT sẽ khả thi và bảo đảm hiệu quả trong bối cảnh có nhiều tổ chức đại diện NLĐ tại doanh nghiệp (DN). Khi tìm hiểu Dự thảo, tác giả nhận thấy có một số điểm đáng chú ý như sau:
1.1. Về đại diện thương lượng tập thể
Nhằm bảo đảm cho tất cả các tổ chức đại diện khác của NLĐ sau khi xuất hiện tại DN có thể cùng với tổ chức công đoàn chủ động tham gia vào hoạt động TLTT, các điều khoản 70 và 71 của Dự thảo đã cố gắng dự liệu và quy định khá chi tiết các trường hợp thực hiện quyền yêu cầu TLTT và xác định đại diện TLTT trong bối cảnh có nhiều tổ chức đại diện NLĐ. Đây là những điểm mới rất đáng ghi nhận của Dự thảo và trong một chừng mực nhất định, những quy định này khá hợp lý. Tác giả chỉ góp ý cho một quy định nhỏ tại đoạn 2 khoản 2 Điều 71: “Trường hợp bên người lao động có nhiều tổ chức đại diện tham gia thương lượng tập thể theo quy định tại khoản 2 Điều 70 của Bộ luật này thì tổ chức đại diện có quyền yêu cầu thương lượng theo quy định tại Khoản 1 Điều 70 quyết định số lượng đại diện của mỗi tổ chức tham gia thương lượng”. Diễn đạt như là chưa chính xác, vì tất cả các tổ chức đại diện NLĐ quy định tại khoản 2 Điều 70 Dự thảo đều là những tổ chức thỏa mãn quy định tại khoản 1 Điều 70. Trường hợp này, lẽ ra cần diễn đạt là: “tổ chức đại diện có số thành viên nhiều nhất tại doanh nghiệp theo quy định tại Khoản 2 Điều 70 quyết định…”.
1.2. Về quy trình thương lượng tập thể
Theo quy định tại Điều 71 BLLĐ năm 2012, quy trình TLTT được áp dụng chung cho tất cả các hoạt động TLTT diễn ra ở phạm vi doanh nghiệp hoặc phạm vi ngành, cụ thể bao gồm hai giai đoạn cơ bản như sau:
(2) Giai đoạn chuẩn bị TLTT: Ở giai đoạn này, các bên TLTT sẽ tiến hành các hoạt động như: (i) NSDLĐ cung cấp các thông tin để phục vụ cho việc TLTT (ít nhất 10 ngày trước khi tiến hành phiên họp TLTT theo yêu cầu của tập thể lao động); (ii) bên đại diện cho NLĐ tổ chức lấy ý kiến NLĐ về các đề xuất của hai bên; (iii) bên yêu cầu TLTT thông báo nội dung TLTT (chậm nhất 5 ngày làm việc trước khi bắt đầu phiên họp TLTT).[3]
(2) Giai đoạn tiến hành TLTT: Ở giai đoạn này, công việc chủ yếu của các bên là tổ chức phiên họp TLTT. Pháp luật không giới hạn thời gian tiến hành hoạt động TLTT, chỉ yêu cầu phiên họp TLTT phải được lập thành biên bản và được công bố công khai.[4] Mục đích của việc công bố này là để chứng minh hoạt động TLTT đã được các bên tiến hành một cách thực chất chứ không phải chỉ là hình thức hoặc chỉ trên giấy tờ.
Tuy nhiên, đến Dự thảo này, quy trình TLTT không còn được quy định như trên nữa. Thay vào đó, Dự thảo đã tách bạch quy trình TLTT tại DN với các quy trình TLTT ở phạm vi ngành và nhiều DN. Cụ thể, Dự thảo chỉ có một điều khoản quy định về quy trình TLTT tại DN (Điều 72) còn đối với quy trình TLTT phạm vi ngành và nhiều DN, Dự thảo để cho các bên TLTT tự quyết định thông qua thỏa thuận. Có vẻ như, với quy định này, BST đã thể hiện quan điểm không chú trọng lắm đến quy trình TLTT ở ngoài phạm vi DN, vì vậy mà quy định trong Dự thảo về vấn đề này rất sơ sài. BST cũng không “để dành” cho Chính phủ hướng dẫn thêm. Với cách thể hiện như vậy của Dự thảo, tác giả thấy có một số bất cập sau:
Thứ nhất, trong bối cảnh các bên tham gia QHLĐ ở Việt Nam chưa thực sự quen thuộc với hoạt động TLTT, thì việc quy định sơ sài về quy trình TLTT ở các phạm vi ngoài DN như Dự thảo sẽ làm cho hoạt động này khó lòng được thực hiện hiệu quả, chưa kể là có thể làm tốn kém nhiều thời gian, công sức, thậm chí tiền bạc của các bên, do việc thỏa thuận về những nội dung này không phải lúc nào cũng dễ đạt được.
Thứ hai, khi xem xét Điều 72 của Dự thảo về quy trình TLTT tại DN, tác giả thấy nội dung điều khoản này được thiết kế không logic, có nhiều mục không phù hợp và thiếu thống nhất. Trước hết, điều này quy định về quy trình TLTT, nhưng khoản 7 lại nói về nghĩa vụ của NSDLĐ. Không những thế, các hoạt động như cung cấp thông tin phục vụ cho việc TLTT, lấy ý kiến tập thể lao động về nội dung TLTT… được trình bày không rõ ràng về trình tự, khiến người đọc thắc mắc không rõ liệu tập thể lao động có được quyền yêu cầu NSDLĐ cung cấp thông tin làm cơ sở cho việc xây dựng nội dung TLTT trước khi tiến hành TLTT hay không. Việc tổ chức đại diện NLĐ lấy ý kiến về nội dung TLTT sẽ được tiến hành khi nào, trước hay sau phiên họp TLTT… Ngoài ra, Dự thảo khống chế việc TLTT tại DN chỉ được diễn ra trong khoảng thời gian 3 tháng (90 ngày) kể từ ngày bắt đầu thương lượng như khoản 3 Điều 72, mặc dù sau đó lại đặt ra ngoại lệ là “trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”. Quy định không logic này vô hình trung làm ảnh hưởng đến sự tự nguyện và tự định đoạt của các bên TLTT.
Từ những phát hiện trên, tác giả đề xuất Dự thảo nên chỉnh sửa quy định tại Điều 72 như sau:
Một là, cần quy định một trình tự chung cho quy trình TLTT, bất kể đó là trong phạm vi DN hay phạm vi ngành hoặc nhiều DN. Nếu các quy trình TLTT ngoài DN có những điểm khác với quy trình chung, có thể diễn giải bằng một điều khoản tiếp theo.
Hai là, chuyển khoản 7 Điều 72 của Dự thảo đưa sang điều khác phù hợp hơn hoặc lồng ghép các nghĩa vụ này vào từng bước của quy trình TLTT.
Ba là, chỉnh sửa lại khoản 3 Điều 72 Dự thảo như sau: “Thời gian thương lượng tập thể sẽ do hai bên thỏa thuận”.
1.3. Về trường hợp thương lượng tập thể không thành
Dự thảo đã bổ sung một điều khoản mới quy định về trường hợp TLTT không thành. Đây được xem là một điểm tiến bộ hơn so với quy định pháp luật hiện hành và của cả một số bản dự thảo trước đó. Tuy nhiên, các trường hợp TLTT không thành được liệt kê tại Điều 73 của Dự thảo, khi dẫn chiếu tới Điều 72 của Dự thảo có vẻ không trùng khớp. Đơn cử, điểm b và điểm c khoản 1 Điều 72 Dự thảo có đề cập việc nếu “đã hết thời hạn quy định tại Khoản 5 Điều 72 của Bộ luật này mà các bên không đạt được thỏa thuận” hoặc “chưa hết thời hạn quy định tại Khoản 5 Điều 72 của Bộ luật này, nhưng hai bên cùng xác định và tuyên bố về việc thương lượng tập thể không đạt được thỏa thuận” thì sẽ bị xem là TLTT không thành. Tuy nhiên, khoản 5 Điều 72 của Dự thảo lại quy định về thời hạn NSDLĐ cung cấp thông tin theo yêu cầu của bên đại diện NLĐ chứ không liên quan gì đến việc thỏa thuận giữa các bên TLTT hết. Thiết nghĩ, BST cần rà soát kỹ để tránh có những sai sót không đáng có như vậy.
2. Góp ý cho các quy định về Thỏa ước lao động tập thể trong Dự thảo
Theo quy định tại Điều 73 BLLĐ năm 2012 thì “thỏa ước lao động tập thể là văn bản thỏa thuận giữa tập thể lao động và người sử dụng lao động về các điều kiện lao động mà hai bên đã đạt được thông qua thương lượng tập thể”.
Ở góc độ nhìn nhận của NSDLĐ, TƯLĐTT được xem như một văn bản “hòa bình”, thực hiện chức năng thiết lập các quy định thống nhất về các điều kiện làm việc và dự báo được giá nhân công. Bên cạnh đó, TƯLĐTT cho phép NSDLĐ thay đổi các điều kiện làm việc của tất cả mọi NLĐ thông qua thương lượng với một hoặc một số tổ chức đại diện NLĐ, qua đó giảm được các chi phí chuyển giao (như các chi phí lập kế hoạch, áp dụng và quản lý hoạt động sản xuất hàng hóa và dịch vụ). Từ góc độ của nhìn nhận tổ chức đại diện NLĐ, mục đích hàng đầu của TƯLĐTT là nhằm để bảo vệ các thành viên của tổ chức họ áp lực do NSDLĐ gây ra.[5] Tuy nhiên, mục đích của một TƯLĐTT có thể vượt lên trên những lợi ích nhãn tiền trong việc bảo vệ thành viên của các tổ chức đại diện NLĐ trong một thời gian ngắn. Hơn thế, nó có thể thiết lập một “sàn” về quyền cho tất cả mọi NLĐ, cả những thành viên của các tổ chức đại diện NLĐ lẫn những NLĐ không tham gia vào tổ chức nào. Theo cách này, TƯLĐTT còn có chức năng là một “bộ luật con”. Một số nội dung đáng chú ý được ghi nhận trong Dự thảo như sau:
2.1. Về loại hình thỏa ước lao động tập thể nhiều doanh nghiệp
Trong Dự thảo, ngoài loại hình TƯLĐTT doanh nghiệp và TƯLĐTT ngành đã được quy định trong BLLĐ năm 2012, có thêm một loại hình mới được đưa vào, đó là “TƯLĐTT nhiều DN”.
Dự thảo không nêu rõ khái niệm thế nào là TƯLĐTT nhiều DN, cũng không có bất kỳ một quy định nào giải thích thế nào là TLTT nhiều DN để đi đến ký kết TƯLĐTT nhiều DN. Đây được xem là một bước lùi so với bản Dự thảo lần 2[6] bởi vì chí ít Dự thảo lần 2 có đưa ra khái niệm về TLTT nhiều DN (nguyên văn là đa DN) như sau: “thương lượng tập thể có nhiều doanh nghiệp tham gia là việc đàm phán, thỏa thuận giữa một bên là một nhóm người sử dụng lao động hoặc một hay nhiều tổ chức đại diện của người sử dụng lao động, với một bên là một hay nhiều tổ chức đại diện của người lao động (Sau đây gọi là thương lượng tập thể nhiều doanh nghiệp)”.[7] Khái niệm này, ở góc độ nào đó cũng tương đồng với khái niệm TLTT nhóm DN của ILO. Theo đó, TLTT nhóm DN là sự hợp tác thương lượng giữa những NSDLĐ và các công đoàn của một số DN về tiền lương, điều kiện làm việc và các vấn đề khác liên quan đến QHLĐ.[8] Tất nhiên, chúng ta đều hiểu là kết quả của quá trình TLTT nhiều DN sẽ dẫn đến việc ký kết được TƯLĐTT nhiều DN. Một bản TƯLĐTT xác lập được các điều kiện lao động và sử dụng lao động chung cho NLĐ ở nhiều DN khác nhau sẽ bảo đảm được tốt hơn yếu tố công bằng trong sử dụng LĐ, phù hợp với xu thể phát triển của QHLĐ trên thế giới.
Tuy nhiên, khi xem xét các quy định liên quan đến loại hình TƯLĐTT nhiều DN, tác giả có một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, do thiếu vắng khái niệm về TLTT nhiều DN và TƯLĐTT nhiều DN, chúng ta sẽ vô cùng thắc mắc không hiểu loại hình TƯLĐTT này được xác lập giữa các DN nào. Nếu theo tinh thần của Dự thảo, “nhiều DN” trong trường hợp này sẽ không phải là các DN trong cùng một ngành, mà cũng không chỉ là các DN ở cùng một vùng, khu vực, địa phương. Tác giả hình dung là khi bổ sung loại hình TƯLĐTT này vào Dự thảo, BST dự liệu đến việc sẽ xuất hiện loại TƯLĐTT của các DN có thể đóng ở nhiều địa phương, khu vực khác nhau nhưng có cùng một tổ chức đại diện. Ở một góc độ nào đó, tác giả đồng tình với việc bổ sung này vì nó sẽ tạo cơ hội cho các tổ chức đại diện NSDLĐ hiện tại như Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa (VINASME) hoặc thậm chí các Hiệp hội Thương mại đại diện cho DN của các quốc gia nước ngoài đầu tư vào Việt Nam như Amcham, Eurocham, JCCI… có thể tham gia vào việc xây dựng một TƯLĐTT chung cho các DN mà mình đại diện và bảo vệ.
Trên thế giới, cũng có nhiều nước quy định về loại hình TƯLĐTT nhiều DN. Đơn cử như trong Đạo luật Làm việc Bình đẳng năm 1989 (sửa đổi năm 2012) của Úc, một TƯLĐTT nhiều DN sẽ được “thiết lập giữa hai hoặc nhiều NSDLĐ, mà những NSDLĐ này không có lợi ích riêng rẽ, với những người lao động được tuyển dụng vào thời điểm ký TƯLĐTT hoặc với một hoặc nhiều tổ chức đại diện NLĐ”.[9]
Như vậy, trong quy định này, Úc đã xác định một yêu cầu quan trọng cần đặt ra đối với nhóm những NSDLĐ tham gia vào TƯLĐTT nhiều DN, đó phải là những NSDLĐ “không có lợi ích riêng rẽ”. Nói cách khác, cần phải có mối liên hệ về lợi ích giữa những NSDLĐ này thì mới đủ điều kiện tham gia TƯLĐTT nhiều DN. Nếu vậy, có thể suy đoán Úc sẽ xem tất cả các loại TƯLĐTT ngành, vùng, khu vực… đều là TƯLĐTT nhiều DN, miễn sao chứng minh được rằng các DN này có lợi ích liên quan nhau.
Khác với Úc, Dự thảo lại phân biệt TƯLĐTT ngành với TƯLĐTT nhiều DN. Tuy nhiên, Dự thảo lại không quy định rõ về tiêu chí dành cho những NSDLĐ hoặc DN có thể tham gia vào TLTT nhiều DN, ví dụ như cùng khu vực, khu chế xuất, khu kinh tế, cùng địa phương, cùng lợi ích… Bên cạnh đó, quy định về các tổ chức đại diện NSDLĐ tham gia TLTT nhiều DN cũng rất sơ sài trong Dự thảo. Ngoại trừ một quy định mang tính định nghĩa rất khái quát tại khoản 5 Điều 3 Dự thảo[10] thì không có quy định nào trong Dự thảo làm ta có hình dung rõ hơn về tổ chức này. Theo tác giả, nếu không có những quy định rõ ràng và chi tiết hơn về chủ thể tham gia TLTT nhiều DN trong BLLĐ thì việc ký kết được một bản TƯLĐTT nhiều DN sẽ rất khó thực hiện trên thực tế. Như vậy, việc đưa thêm loại hình TƯLĐTT nhiều DN vào BLLĐ cũng chẳng có ý nghĩa gì trong thực tế. Trên cơ sở các phân tích như vậy, tác giả đề xuất một số kiến nghị sau:
Một là, đưa ra những tiêu chí để xác định những NSDLĐ nào hoặc tổ chức đại diện nào của NSDLĐ có thể tham gia vào TLTT nhiều DN (ví dụ như đó có thể là những NSDLĐ “đóng trên cùng một vùng hoặc trong một khu vực, khu công nghiệp, khu chế xuất nhất định, hoặc có lợi ích liên quan nhau” hoặc là tổ chức đại diện cho những NSDLĐ thỏa mãn tiêu chí này).
Hai là, bổ sung vào Dự thảo quy định cụ thể hơn về “tổ chức đại diện NSDLĐ” như điều kiện thành lập, tổ chức và hoạt động, việc công nhận các tổ chức này, hoặc đưa một quy định mang tính dẫn chiếu: “Chính phủ quy định chi tiết về tổ chức và hoạt động của tổ chức đại diện cho NSDLĐ” để làm cơ sở cho những hướng dẫn cụ thể về sau.
Thứ hai, Dự thảo lần đầu tiên quy định về một thành phần gọi là “Hội đồng TLTT” để tiến hành hoạt động TLTT nhiều DN theo yêu cầu của hai bên thương lượng.[11] Mặc dù đây là một thiết chế mới, thể hiện sự sáng tạo của BST, tác giả vẫn cho rằng đây không phải là một quy định hợp lý. Kể cả khi Dự thảo quy định việc thành lập Hội đồng TLTT là “quyền yêu cầu” của hai bên chứ không bắt buộc thì tác giả vẫn cảm nhận rằng đây là sự can thiệp mang dáng dấp “hành chính” ở một quy trình TLTT đáng ra phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện giữa hai bên thương lượng mà thôi.
Bên cạnh đó, mặc dù có thể hiểu là Dự thảo cho hai bên thương lượng trong TƯLĐTT nhiều DN được lựa chọn áp dụng quy trình TLTT thông qua Hội đồng TLTT hoặc không nhưng Dự thảo không hề quy định về quy trình TLTT nhiều DN trong trường hợp có hoặc không có Hội đồng TLTT cụ thể như thế nào, có khác gì nhau hay không. Điều này chắc chắn làm cho các bên gặp lúng túng trong quá trình vận dụng.
Một điều cần lưu ý, Dự thảo lại quy định việc ký kết TƯLĐTT nhiều DN trong trường hợp có Hội đồng TLTT sẽ được thực hiện giữa Chủ tịch Hội đồng TLTT với đại diện hợp pháp của hai bên TLTT.[12] Tại sao Chủ tịch Hội đồng TLTT lại trở thành một bên chủ thể ký kết TƯLĐTT nhiều DN mà không phải do hai bên thương lượng ký kết với nhau, còn Chủ tịch Hội đồng TLTT sẽ là người chứng kiến? Điều này không phù hợp với bản chất của TƯLĐTT vốn được xem là “văn bản thỏa thuận đã đạt được thông qua thương lượng tập thể về các điều kiện lao động và sử dụng lao động; quyền lợi, nghĩa vụ và mối quan hệ giữa các bên trong quan hệ lao động”.[13] Bên cạnh đó, việc quy định phải giao một bản TƯLĐTT cho Chủ tịch Hội đồng TLTT giữ (điểm c Khoản 5 Điều 78 Dự thảo), trong khi Hội đồng TLTT đã tự giải tán ngay sau khi ký kết TƯLĐTT nhiều DN được ký kết xong, là một quy định không hợp lý. Xuất phát từ những bình luận trên, tác giả kiến nghị:
Một là, xem xét hủy bỏ quy định về Hội đồng TLTT vì đây là một thiết chế không thực sự cần thiết.
Hai là, bổ sung quy định về quy trình TLTT nhiều DN vào BLLĐ, hoặc bổ sung quy định cho phép “Chính phủ hoặc Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quy định chi tiết nội dung này”.[14]
Ba là, điều chỉnh quy định tại Khoản 4 Điều 78 Dự thảo theo hướng chủ thể ký kết các TƯLĐTT, kể cả TƯLĐTT nhiều DN, đều là đại diện hợp pháp của hai bên thương lượng. Việc quy định như vậy là để bảo đảm chủ thể có thẩm quyền ký kết TƯLĐTT phải là đại diện hai bên thương lượng, không có sự tham gia của bên thứ ba nào khác, ngay cả khi người này đại diện cho ý chí của Nhà nước hay đơn giản chỉ là người chứng kiến đi chăng nữa.
2.2. Về việc sửa đổi, bổ sung TƯLĐTT
Theo quy định hiện hành, sau khi TƯLĐTT đã có hiệu lực các bên chỉ có quyền yêu cầu sửa đổi, bổ sung TƯLĐTT: (i) sau 03 tháng thực hiện đối với TƯLĐTT có thời hạn dưới 01 năm; hoặc (ii) sau 06 tháng thực hiện đối với TƯLĐTT có thời hạn từ 01 năm đến 03 năm.[15] Mục đích của quy định này là để tránh tình trạng một trong các bên có thể yêu cầu sửa đổi TƯLĐTT ngay sau khi TƯLĐTT có hiệu lực, nhằm cản trở việc thực hiện TƯLĐTT chứ không phải xuất phát từ những vướng mắc trong thực tế áp dụng bản TƯLĐTT đó. Thế nhưng, Điều 84 Dự thảo đã bỏ đi quy định về thời hạn thực hiện TƯLĐTT tối thiểu nói trên. Điều đó đồng nghĩa với việc Dự thảo cho phép các bên được quyền yêu cầu việc sửa đổi, bổ sung bất cứ lúc nào, thậm chí ngay sau khi TƯLĐTT có hiệu lực.
Tác giả thiết nghĩ, với một quy định không hề phát sinh vướng mắc gì trong thực tiễn, ngược lại, còn bảo đảm tính ổn định và tăng cường nghĩa vụ tôn trọng thực hiện cam kết của các bên như hiện nay, không lý do gì mà Dự thảo không tiếp tục duy trì. Vì vậy, tác giả kiến nghị nên giữ lại quy định về thời hạn tối thiểu phải thực hiện TƯLĐTT, sau đó mới cho phép các bên thực hiện việc sửa đổi, bổ sung.
3. Về một số nội dung liên quan đến thương lượng tập thể và thỏa ước lao động tập thể nhưng chưa được quy định trong Dự thảo
Bên cạnh việc góp ý cho các quy định về TLTT và TƯLĐTT đã có trong Dự thảo, tác giả đề xuất BST có thể xem xét thêm một số nội dung sau:
Thứ nhất, nên chăng cần có quy định riêng về quy trình TLTT và ký kết TƯLĐTT sau khi có cuộc đình công diễn ra tại DN. Hiện nay trong Dự thảo, các quy định về quyền, nghĩa vụ TLTT và quy trình TLTT để dẫn đến việc ký kết TƯLĐTT hầu như dành cho trường hợp các bên tiến hành TLTT để xác lập điều kiện lao động và sử dụng lao động mới (hoặc đã có nhưng các bên muốn sửa đổi, bổ sung). Như vậy, Dự thảo chưa có quy định nào gắn TLTT với đình công và xem TƯLĐTT được ký kết như là kết quả ghi nhận việc giải quyết các yêu sách của NLĐ trong các cuộc đình công đó. Do đó, tuy Dự thảo có quy định tổ chức đại diện nào của NLĐ cũng đều có thể trở thành chủ thể của một cuộc tranh chấp lao động tập thể và từ đó, có thể được quyền tổ chức, lãnh đạo cuộc đình công[16] nhưng nếu sau cuộc đình công, tổ chức này có quyền yêu cầu TLTT với NSDLĐ không thì lại không có quy định. Nhằm để nâng cao vai trò của TLTT và giá trị của TƯLĐTT như là những biện pháp giải quyết các xung đột tập thể, tác giả rất mong BST sẽ thảo luận thêm về nội dung này để có thể bổ sung thêm vào Dự thảo tiếp theo.
Thứ hai, để nâng cao giá trị của TƯLĐTT sau khi đã ký kết và đưa vào thực hiện, đồng thời giúp cho các bên có ý thức hơn trong việc tôn trọng và tuân thủ các cam kết đạt được sau TLTT, tác giả đề nghị BST xem xét thêm về việc đưa vào trong Dự thảo quy định về “nghĩa vụ hòa bình” trong thời gian có hiệu lực của TƯLĐTT. Theo đó, sau khi TƯLĐTT đã ký kết và được thực hiện, nếu không xuất phát từ việc một bên vi phạm cam kết, không bên nào có quyền đơn phương tiến hành các hành động chống lại bên kia, ít nhất cho đến khi TƯLĐTT hết hạn. Thực ra, “nghĩa vụ hòa bình” là một điều khoản khá phổ biến trong TƯLĐTT ở nhiều nước, là cái đích mà NSDLĐ nhắm đến khi tham gia vào quá trình TLTT, vì thông qua điều khoản này, NSDLĐ có cơ sở bảo đảm rằng QHLĐ sẽ được diễn ra hài hòa, ổn định, ngăn ngừa được các xung đột liên quan đến việc đòi hỏi thêm về lợi ích từ phía NLĐ trong thời gian bản TƯLĐTT còn hiệu lực.Tác giả hy vọng rằng, việc áp dụng hiệu quả quy định này ít nhiều có thể hạn chế được tình trạng một bên, nhất là bên tập thể NLĐ, tùy tiện sử dụng các hành động đơn phương chống lại bên kia (ví dụ DN đã có TƯLĐTT, NSDLĐ không vi phạm bất cứ điều gì nhưng NLĐ vẫn tiến hành đình công), đồng thời góp phần nâng cao vị thế và tăng cường được trách nhiệm của tổ chức đại diện của NLĐ, đặc biệt là trong việc tổ chức và lãnh đạo các cuộc đình công.
CHÚ THÍCH
[1] Dự thảo lần thứ 6 được công bố trên trang điện tử Dự thảo online của Quốc hội khóa XIV, http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=1270&LanID=1742&TabIndex=1 để lấy ý kiến công khai vào ngày 11/8/2019. Mới đây, vào tháng 9/2019, trang điện tử này cũng cập nhật bản Dự thảo được hoàn thiện để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội phiên 37, tuy nhiên nội dung về vấn đề TLTT và TƯLĐTT không thay đổi gì nhiều so với bản Dự thảo lần 6. Do vậy, tác giả sử dụng Dự thảo 6 cho phần góp ý của mình.
[2] Điều 2 Công ước số 154 của ILO (1981) về Thương lượng tập thể.
[3] Khoản 1 Điều 71 BLLĐ năm 2012.
[4] Khoản 2 và Khoản 3 Điều 71 BLLĐ năm 2012.
[5] Jonas Malmberg, “The Collective Agreement as an Instrument for Regulation of Wages and Employment Conditions”, in volume “Scandinavian Studies in Law”, VII European Regional Congress of the International Society for Labour Law and Social Security, Stockholm, 2002, pp. 191, 192.
[6] Dự thảo lần 2 BLLĐ (sửa đổi) được chính thức đưa ra lấy ý kiến vào ngày 29/4/2019.
[7] Khoản 1 Điều 72 Dự thảo lần 2.
[8] ILO, “Labour Relations and Collective Bargaining”, Issue Brief 1, 2015, https://www.ilo.org/global/topics/collective-bargaining-labour-relations/publications/WCMS_409422/lang–en/index.htm, truy cập ngày 30/11/2019.
[9] Nguyên văn: “A multi-enterprise agreement is created where two or more employers, who are not single-interest employers, make an employment agreement (EA) with the employees who are employed at the time the Agreement is made or with one or more relevant employee organisations”.
[10] Khoản 5 Điều 3 Dự thảo quy định: “Tổ chức đại diện người sử dụng lao động là tổ chức được thành lập hợp pháp, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động trong quan hệ lao động”.
[11] Điều 75 Dự thảo.
[12] Khoản 4 Điều 78 Dự thảo.
[13] Khoản 1 Điều 77 Dự thảo.
[14] Khoản 4 Điều 76 Dự thảo chỉ quy định Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội sẽ quy định chi tiết về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của Hội đồng TLTT. Như vậy, Dự thảo không cho phép Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định về quy trình TLTT của Hội đồng TLTT.
[15] Khoản 1 Điều 77 BLLĐ năm 2012.
[16] Điều 201 Dự thảo.
Tác giả: Lê Thị Thúy Hương
Nguồn: Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 09/2019 (130)/2019 – 2019, Trang 30-39
Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời