Mục lục
Vấn đề thực thi các cam kết về lao động của Việt Nam trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (CPTPP và EVFTA)
Tác giả: Tống Văn Băng [1]
TÓM TẮT
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng ở khu vực và thế giới, Việt Nam đã tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với các cam kết mở cửa sâu, phạm vi các vấn đề điều chỉnh bao trùm nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực lao động. Bài viết tập trung nghiên cứu các cam kết về lao động trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới bao gồm Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) và đề xuất một số giải pháp nhằm giúp Việt Nam thực thi có hiệu quả các cam kết này.
1. Đặt vấn đề
Nghị quyết số 06-NQ/TW Hội nghị Trung ương 4, Khóa XII đã khẳng định “Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế – xã hội, làm tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia; thúc đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý và các nguồn lực quan trọng khác; tạo thêm nhiều việc làm; nâng cao dân trí và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân”2. Đến nay, Việt Nam đã tham gia ký kết 13 Hiệp định thương mại tự do (Free Trade Agreement -FTA) gồm 07 FTA ký kết với tư cách là thành viên ASEAN và 06 FTA ký kết với tư cách là một bên độc lập. Đặc biệt, Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership – CPTPP) được ký kết năm 2018 và Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU-Vietnam Free Trade Agreement – EVFTA) ký kết năm 2019 là các FTA thế hệ mới với các cam kết mở cửa sâu, phạm vi các vấn đề điều chỉnh bao trùm nhiều lĩnh vực, trong đó có các cam kết tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế về lao động. Là thành viên của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), việc tổ chức triển khai các cam kết về lao động trong các FTA thế hệ mới tiếp tục khẳng định sự nghiêm túc và những nỗ lực của Việt Nam trong thực hiện các tiêu chuẩn lao động quốc tế. Đồng thời, góp phần thúc đẩy quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế, pháp luật về lao động nhằm tạo nền tảng cho sự vận hành của thị trường lao động Việt Nam phù hợp với các quy luật khách quan của kinh tế thị trường cũng như đảm bảo thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước.
2. Tổng quan về các cam kết về lao động trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
Hiệp định thương mại tự do nói chung là một hình thức thỏa thuận giữa hai hay nhiều chủ thể quốc tế về các cam kết nhằm thúc đẩy tự do hóa, thuận lợi hóa thương mại đầu tư và các hợp tác kinh tế khác. Tuy nhiên, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới là những thỏa thuận với phạm vi cam kết rộng nhất, mức độ cam kết sâu nhất, có cơ chế thực thi rất chặt chẽ và bao gồm cả những lĩnh vực được coi là “phi truyền thống” như lao động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, minh bạch hóa, cơ chế giải quyết tranh chấp về đầu tư…Trong lĩnh vực lao động, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới yêu cầu các quốc gia thành viên phải thông qua và duy trì các quyền đã được ghi nhận trong Tuyên bố năm 1998 của Tổ chức Lao động quốc tế về các nguyên tắc, tiêu chuẩn cơ bản trong lao động quốc tế và được quy định trong 08 công ước cơ bản của ILO. Trong xu hướng đó, cả hai Hiệp định CPTPP và EVFTA mà Việt Nam tham gia đều yêu cầu các quốc gia thành viên phải thông qua và duy trì những quyền được nêu trong Tuyên bố 1998 trong pháp luật, thể chế và thực tiễn.
2.1. Các cam kết về lao động trong Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), là một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới bao gồm 11 nước thành viên là: Australia, Brunei, Canada, Chile, Japan, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam với nền tảng là Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), được ký kết ngày 08/03/2018 tại Chile mà không có Mỹ tham gia, có hiệu lực từ ngày 30/12/2018 đối với nhóm 06 nước đầu tiên gồm Mexico, Japan, Singapore, New Zealand, Canada and Australia. Việt Nam phê chuẩn ngày 12/11/2018, có hiệu lực với Việt Nam từ ngày 14/01/2019.
Về lao động, Hiệp định CPTPP không đưa ra tiêu chuẩn riêng về lao động mà chỉ khẳng định lại các tiêu chuẩn lao động được nêu trong Tuyên bố năm 1998 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) mà tất cả các nước thành viên CPTPP đều có nghĩa vụ tôn trọng, thúc đẩy và thực thi với các điều kiện thương mại trong một khuôn khổ thời gian nhất định, bao gồm cả các biện pháp trừng phạt có thể áp dụng (Chương 19 về lao động của Hiệp định CPTTP). Các nước tham gia Hiệp định CPTPP cũng phải tôn trọng và bảo đảm quyền của người lao động trong việc thành lập và gia nhập tổ chức của người lao động tại cơ sở doanh nghiệp. Ngược lại, tất cả các tổ chức của người lao động phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật của nước sở tại và theo các tiêu chuẩn của ILO.
Với các Công ước cơ bản của ILO, Việt Nam đã phê chuẩn 7/8 Công ước cơ bản, bao gồm: Công ước 29 và 105 về lao động cưỡng bức; Công ước 100 và 111 về chống phân biệt đối xử; Công ước 138 và 182 về lao động trẻ em; Công ước 98 về áp dụng những nguyên tắc của quyền tổ chức và thương lượng tập thể; Công ước số 87 dự kiến sẽ phê chuẩn vào năm 2023.
Do Việt Nam cần thời gian để hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như tổ chức bộ máy để bảo đảm phù hợp với các nghĩa vụ của Hiệp định nên các nước đã thống nhất với Việt Nam về tạo cơ chế linh hoạt đối với các nghĩa vụ liên quan đến lao động – công đoàn, cụ thể:
+ Các nước không áp dụng trừng phạt thương mại đối với Việt Nam trong 03 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực cho tất cả các nghĩa vụ của chương Lao động.
+ Đối với các nghĩa vụ liên quan đến tự do liên kết và công nhận một cách thực chất quyền thương lượng tập thể, thời gian không áp dụng trừng phạt thương mại đối với Việt Nam là 05 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực.
+ Đối với các nghĩa vụ liên quan đến tự do liên kết và công nhận một cách thực chất quyền thương lượng tập thể nêu trên, các nước đồng ý tiến hành “xem xét lại” xem có áp dụng trừng phạt thương mại hay không trong vòng 02 năm sau đó. Việc rà soát này được thực hiện trong khuôn khổ Hội đồng Lao động, hàm ý phải theo đồng thuận chung của tất cả các nước và do vậy không dẫn đến trừng phạt thương mại3.
2.2. Các cam kết về lao động trong Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu
Được khởi động đàm phán từ tháng 06 năm 2012 đến tháng 02 năm 2018, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU đã trải qua 14 vòng đàm phán, đến ngày 26/06/2018, EVFTA được tách làm hai Hiệp định: Hiệp định Thương mại (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ Đầu tư (EVIPA), đồng thời quá trình rà soát pháp lý đối với Hiệp định EVFTA chính thức kết thúc. Hai Hiệp định này đã được các bên ký kết vào ngày 30/6/2019. Cả Hiệp định EVFTA và EVIPA đã được Nghị viện châu Âu phê chuẩn vào ngày 12/02/2020 và Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam phê chuẩn ngày 08/06/2020. Hiệp định EVFTA sẽ có hiệu lực từ ngày 01/08/2020.
Hiệp định EVFTA là một hiệp định toàn diện, chất lượng cao, cân bằng về lợi ích cho cả Việt Nam và EU, trong đó cũng đã lưu ý đến chênh lệch về trình độ phát triển, đồng thời phù hợp với các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Hiệp định gồm 17 Chương, 2 Nghị định thư và một số biên bản ghi nhớ kèm theo. Đối với các cam kết về lao động được quy định tại Chương 13 của Hiệp định, yêu cầu Việt Nam và Liên minh Châu Âu “tái khẳng định cam kết của mình, phù hợp với các nghĩa vụ trong khuôn khổ của ILO và Tuyên bố của ILO về các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động…, sẽ tôn trọng, thúc đẩy và thực hiện hiệu quả các quyên tắc về các quyền cơ bản trong lao động”. Như vậy, với Hiệp định EVFTA, các tiêu chuẩn riêng không được đưa ra, thay vào đó hai bên cam kết tôn trọng, thúc đẩy và thực hiện có hiệu quả 04 tiêu chuẩn lao động cơ bản theo Tuyên bố 1998 của ILO về những nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động, tương tự như CPTPP. Các cam kết về lao động trong EVFTA sẽ góp phần cải thiện điều kiện làm việc, tái sản xuất sức lao động và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
3. Những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong việc thực thi các cam kết về lao động trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
3.1. Những thuận lợi trong việc thực thi các cam kết về lao động trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
– Sự nhất quán trong chủ trương của Đảng và Nhà nước trong hội nhập quốc tế và hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế.
Thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 05/11/2016 của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, Việt Nam đã hội nhập quốc tế khá toàn diện và đầy đủ trên tất cả các lĩnh vực. Những kết quả đạt được về mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội đã khẳng định chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng và vai trò quan trọng của công tác hội nhập quốc tế, trong đó hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Với 16 hiệp định FTA đang thực thi và đàm phán, Việt Nam đã xây dựng khuôn khổ thương mại tự do với gần 60 nước, khẳng định được chủ trương nhất quán về tiếp tục đổi mới kinh tế, hội nhập quốc tế và ủng hộ tự do hóa thương mại theo hướng mở, minh bạch và dựa trên luật lệ, thể hiện vai trò và đóng góp tích cực tại các cơ chế hợp tác kinh tế đa phương khu vực và toàn cầu như ASEAN, APEC, WTO.
Cùng với chủ trương hội nhập quốc tế, hệ thống văn bản chỉ đạo, hướng dẫn và chính sách pháp luật đã được ban hành, sửa đổi, bổ sung, tạo hành lang pháp lý trong lĩnh vực lao động, hình thành hệ thống các tiêu chuẩn về lao động, từng bước phù hợp với các tiêu chuẩn của ILO.
Những cam kết trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới có nội dung phù hợp với mục tiêu cải cách hành chính trong quản lý nhà nước về thương mại quốc tế, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia mà Việt Nam đang hướng tới. Trước bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và cạnh tranh quốc tế ngày càng gia tăng, Việt Nam xác định việc đổi mới phương thức thực hiện quản lý nhà nước cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh là nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên và thực tế đã được sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới “Doing Business 2019”, năm 2018, môi trường kinh doanh của Việt Nam đã được cải thiện 13 bậc so với năm 2016 và cùng với Indonesia Việt Nam là nước thực hiện nhiều cải cách nhất trong 16 năm qua. Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 (Global Competitiveness Index 4.0 – GCI 4.0) của Việt Nam năm 2019 theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) tăng 3,5 điểm và xếp hạng tăng 10 bậc so với năm 20184. Sự chuyển biến mạnh mẽ về môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh là cơ sở quan trọng cho Việt Nam tiếp tục triển khai các biện pháp thực thi các cam kết trong các Hiệp định FTA thế hệ mới.
– Bộ luật lao động sửa đổi đã được Quốc hội thông qua ngày 20/11/2019, có vai trò quan trọng, mở đường cho việc thực hiện các cam kết của Việt Nam về lao động trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
Để thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng cần phải được tiến hành là chuyển hóa nội dung các cam kết trong hiệp định vào luật quốc gia. Theo Luật điều ước quốc tế năm 2016, quá trình chuyển hóa này có thể được thực hiện dưới hai hình thức là áp dụng trực tiếp và nội luật hóa5. Trong đó, việc nội luật hóa thông qua ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung, thay thế văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới được nhà nước đặc biệt quan tâm. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Bộ luật lao động là văn bản có vai trò quan trọng chỉ sau Hiến pháp trong việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực lao động mà Bộ luật lao động năm 2012 còn một số quy định chưa tương thích với các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động của người lao động theo Tuyên bố năm 1998 của Tổ chức Lao động quốc tế, nhất là các nội dung về tự do hiệp hội, bảo vệ quyền tổ chức và thương lượng tập thể và xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp. Vì vậy, việc ban hành Bộ luật lao động sửa đổi, bổ sung năm 2019 theo hướng bổ sung, điều chỉnh các quy định pháp luật quan trọng về quan hệ lao động và bảo vệ quyền lợi của người lao động, đảm bảo các điều kiện, tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản phù hợp với trình độ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước một mặt thể hiện thái độ nghiêm túc, sự thực thi có hiệu quả cam kết của Việt Nam trong các hiệp định, đồng thời tạo môi trường pháp lý thông thoáng, minh bạch, tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế làm nền tảng vững chắc cho hội nhập quốc tế.
3.2. Những thách thức trong việc thực thi các cam kết về lao động trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
Bên cạnh những thuận lợi kể trên, việc thực thi các cam kết về lao động trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới của Việt Nam cũng đối mặt với những thách thức:
Thứ nhất, sự khác biệt về thể chế chính trị của Việt Nam với các nước. Mô hình kinh tế mà Việt Nam xây dựng là nền kinh tế thị trường, có sự quản lý, điều tiết của nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, mặc dù là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, nhưng vẫn tồn tại những sự khác biệt có ảnh hưởng nhất định trong việc triển khai thực hiện các cam kết.
Thứ hai, những cam kết trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới có ảnh hưởng trực tiếp tới thể chế pháp lý của Việt Nam, tác động tới hoạt động không chỉ các cơ quan nhà nước mà tới cả hệ thống tổ chức công đoàn, doanh nghiệp… Mặc dù những cải cách về mặt thể chế đã từng bước được thực hiện nhưng vẫn chưa đáp ứng và chưa theo kịp các yêu cầu của việc thực thi cam kết, việc điều chỉnh chính sách trong một số trường hợp còn chậm hoặc mang tính đối phó, thiếu đồng bộ.
Thứ ba, Bộ luật lao động sửa đổi, bổ sung năm 2019 mặc dù đã thể hiện rõ những bước tiến quan trọng, tiệm cận và phù hợp hơn với các nguyên tắc cơ bản trong lao động đã được quốc tế công nhận, tuy nhiên, vẫn còn có khoảng cách trong việc thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn lao động quốc tế. Bên cạnh đó, quyền tự do lập hội được quy định trong Bộ luật lao động sửa đổi mà cần phải tiếp tục sửa đổi một số luật liên quan, nhất là Luật công đoàn năm 2012 để hướng tới phê chuẩn Công ước số 87 của ILO vào năm 2023.
Thứ tư, hoạt động của tổ chức đại diện của người lao động còn có những hạn chế. Luật công đoàn năm 2012, Bộ luật lao động năm 2019 đã có những quy định cụ thể về tổ chức bộ máy cũng như nhiệm vụ của tổ chức công đoàn. Tuy nhiên, mô hình tổ chức cũng như vai trò trách nhiệm của công đoàn các cấp trong hệ thống công đoàn vẫn còn những tồn tại như: sự phối hợp vận hành trong hệ thống chưa hiệu quả; trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ công đoàn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ; cán bộ làm công tác công đoàn ở cơ sở phần lớn là kiêm nhiệm, hưởng lương của doanh nghiệp nên phụ thuộc nhiều vào chủ doanh nghiệp… dẫn đến chưa làm tốt được vai trò đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động.
4. Một số kiến nghị nhằm thực thi có hiệu quả các cam kết về lao động trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
Hội nhập quốc tế đã thúc đẩy sự hình thành một thị trường lao động toàn cầu, đồng thời các tiêu chuẩn, chuẩn mực chung về lao động trở thành những yêu cầu bắt buộc mà các quốc gia phải đáp ứng khi tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Để triển khai thực hiện có hiệu quả các cam kết quốc tế về lao động sau khi Hiệp định CTPPP và EVFTA có hiệu lực, Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp sau đây:
Một là, cần phải xây dựng lộ trình phù hợp và có các giải pháp đồng bộ để nhanh chóng hoàn thiện hệ thống thể chế – pháp luật về lao động nhằm thực thi có hiệu quả các cam kết. Với Hiệp định CTPPP và EVFTA, do có lộ trình thực thi các cam kết mở cửa thị trường tương đối ngắn đi kèm với các quy tắc, thủ tục chặt chẽ, một số cam kết đòi hỏi quốc gia thành viên phải sửa đổi, bổ sung pháp luật trong nước cho phù hợp, vì vậy, cần phải nhanh chóng thực hiện rà soát, đánh giá các yêu cầu trong các FTA thế hệ mới cũng như rà soát hệ thống pháp luật để đi tới xây dựng một lộ trình phù hợp cho việc thực thi các cam kết. Đồng thời có các biện pháp kiểm tra, giám sát tiến độ, hiệu quả việc xây dựng chính sách; điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật từ đó đánh giá kịp thời các vấn đề phát sinh để tìm kiếm giải pháp tháo gỡ; hoàn thiện tổ chức bộ máy, xây dựng cơ chế điều phối thực thi cam kết FTA để đảm bảo việc thực hiện các cam kết trong thực tế.
Hai là, hoàn thiện thể chế đối với tổ chức công đoàn và các tổ chức của người lao động trong doanh nghiệp nhằm đảm bảo các yêu cầu cần thiết để thực thi các hiệp định. Tiếp tục đổi mới bộ máy, hoạt động của tổ chức Công đoàn Việt Nam để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Nhằm phát huy vai trò, vị trí, ưu thế của mình, Công đoàn Việt Nam cần đổi mới cơ cấu tổ chức và nội dung hoạt động, bảo đảm tính liên kết thống nhất của các cấp công đoàn trong hệ thống; tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn thường xuyên, từng bước nâng cao trình độ, và chuyên môn nghiệp vụ về hoạt động công đoàn cho đội ngũ cán bộ công đoàn.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về lao động phù hợp với lộ trình thực hiện các công ước của ILO của Việt Nam; hoàn thiện các thiết chế về giải quyết tranh chấp lao động, tiến tới thành lập các cơ quan chuyên trách về giải quyết tranh chấp lao động ở các địa phương có nhu cầu lớn; quy định rõ vai trò của cơ quan quản lý nhà nước trong việc hỗ trợ thúc đẩy quan hệ lao động bảo đảm phù hợp với tiêu chuẩn lao động của ILO và cam kết với các nước.
Bốn là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin về các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam đã ký kết bằng nhiều hình thức đổi mới sáng tạo, đặc biệt là thông qua phương tiện truyền thông, các chương trình phát thanh và truyền hình, tổ chức hội thảo, các lớp tập huấn để các cơ quan, tổ chức, cộng đồng doanh nghiệp, người lao động nâng cao nhận thức, hiểu biết, nắm bắt được đầy đủ, rõ ràng về nội dung các cam kết có liên quan và những nhiệm vụ cần triển khai thực hiện các cam kết từ đó đảm bảo thực thi các hiệp định FTA thế hệ mới đầy đủ và hiệu quả.
5. Kết luận
Trên cơ sở nguyên tắc pacta sunt servanda trong luật quốc tế, theo đó các quốc gia có nghĩa vụ thực hiện một cách tự nguyện và thiện chí các điều ước quốc tế mà mình là thành viên, Việt Nam luôn coi trọng việc thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đã ký kết và đã tích cực triển khai các cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên qua đó cũng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Việc tiếp tục triển khai một các có hiệu quả các cam kết về lao động trong các FTA thế hệ mới sẽ góp phần tiếp tục nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ đối ngoại, giúp Việt Nam tham gia ngày càng sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động, tạo lập môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước./.
CHÚ THÍCH
- Thạc sỹ, Chủ tịch Liên đoàn Lao động thành phố Hải Phòng.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XII về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vũng ổn định chính trị – xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, ngày 05/11/2016.
- Vụ phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp, Tài liệu giới thiệu Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương và các văn kiện có kiên quan.
- World Economic Forum (2019), Global Competitiveness Index.
- Khoản 2 Điều 6 Luật điều ước quốc tế năm 2016 quy định: “2. Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, đủ chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CTPPP).
- Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA).
- Vụ phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp, “Tài liệu giới thiệu Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương và các văn kiện có kiên quan”.
- World Economic Forum (2019), Global Competitiveness Index.
Trả lời