Phân tích vai trò của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật
- Vai trò của ý thức pháp luật đối với xây dựng và thực hiện pháp luật
- Ý thức pháp luật là gì? Đặc điểm và cơ cấu của ý thức pháp luật?
- Các yếu tố đánh giá ý thức pháp luật của một chủ thể
- Thực hiện pháp luật là gì? Đặc điểm và ý nghĩa thực hiện pháp luật?
- Phân tích các hình thức thực hiện pháp luật?
- Trách nhiệm pháp lý là gì? Trách nhiệm pháp lý của chủ thể vi pham luật
- Xây dựng pháp luật là gì? Phân tích khái niệm xây dựng pháp luật?
- Phân tích các nguyên tắc của hoạt động xây dựng pháp luật
- [SO SÁNH] Phân biệt trách nhiệm pháp lý với các trách nhiệm xã hội khác
- Tính quyền lực nhà nước của hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý
1 – Thế nào là ý thức pháp luật, xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật
a – Ý thức pháp luật là gì?
Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm, tâm trạng, thái độ, tình cảm của con người đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác, thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật, sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi của các chủ thể.
Tương tự như các hình thái ý thức xã hội khác (ý thức chính trị, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo…), ý thức pháp luật được thể hiện ở từng cá nhân, từng nhóm, từng cộng đồng xã hội. Ý thức pháp luật luôn chịu sự tác động của nhiều yếu tố như nền tảng kinh tế, kết cấu xã hội, tương quan so sánh lực lượng giữa các lực lượng xã hội, quan điểm, tư tưởng của lực lượng cầm quyền, xu thế thời đại…
b – Xây dựng pháp luật là gì?
Theo nghĩa hẹp: Xây dựng pháp luật là quá trình hoạt động của các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy định nhằm ban hành các quy phạm pháp luật để điều chỉnh quan hệ xã hội theo mục đích của nhà nước
c – Thực hiện pháp luật là gì?
Thực hiện pháp luật là hành vi thực tế hợp pháp của chủ thể có năng lực hành vi pháp luật.
Ví dụ: Công ty A nộp thuế cho Nhà nước đầy đủ và đúng thời hạn theo thông báo của Cơ quan thuế.
2 – Vai trò của ý thức pháp luật đối với việc xây dựng pháp luật
Đối với việc xây dựng pháp luật, ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng trực tiếp để xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Điều đó được thể hiện ở những điểm sau:
– Trong quá trình hoạt động, trên cơ sở ý thức pháp luật, nhận thức, hiểu biết của mình, các chủ thể có thẩm quyền xây dựng pháp luật có thể xác định được quan hệ xã hội cần điều chỉnh bằng pháp luật, mức độ điều chỉnh (bằng luật hay văn bản dưới luật)… Đồng thời, có thể xác định được trình độ phát triển của kinh tế – xã hội, nhu cầu khách quan của đời sống xã hội để đặt ra các quy định của pháp luật phù hợp với các điều kiện đó.
– Khi xây dựng pháp luật, trên cơ sở ý thức pháp luật của mình, các chủ thể có thẩm quyền có thể xác định được trong số các quy phạm xã hội đang tồn tại, những quy phạm nào có thể thừa nhận thành pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo ý chí của nhà nước thì thừa nhận thành pháp luật, những quy phạm nào không phù hợp thì đặt ra các quy phạm mới để thay thế chúng, những quan hệ xã hội nào cần điều chỉnh mà chưa có pháp luật thì đặt ra quy tắc mới… Nhờ vậy mà làm hình thành nên một hệ thống pháp luật.
– Trong quá trình thực hiện hệ thống pháp luật đã được ban hành, cũng phải trên cơ sở ý thức pháp luật hay trên cơ sở kiến thức, hiểu biết của mình, các chủ thể có thẩm quyền có thể xác định được quy phạm pháp luật nào phù hợp với thực tại khách quan, có tính khả thi thì tiếp tục sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích của nhà nước, quy phạm nào không phù hợp thì ban hành hoặc đề nghị ban hành quy phạm hoặc văn bản mới để thay thế, làm cho hệ thống pháp luật ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn.
Khái quát lại, vai trò của ý thức pháp luật đối với xây dựng và hoàn thiện pháp luật thể hiện ở các góc độ:
– Góp phần nhận thức thấu đáo, đầy đủ đối với chính sách pháp luật và các yêu cầu của việc điều chỉnh pháp luật.
– Nâng cao khả năng quy phạm hóa các nội dung điều chỉnh pháp luật và xác định các chuẩn mực pháp lý phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế.
– Bảo đảm cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đúng quy trình kỹ thuật pháp lý, hạn chế được tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, phủ định lẫn nhau trên thực tế.
– Bảo đảm hiệu quả, chất lượng hoạt động hệ thống hóa pháp luật, đặc biệt là hoạt động pháp điển quy phạm pháp luật trên thực tế.
3 – Vai trò của ý thức pháp luật đối với việc thực hiện pháp luật
a – Ý thức pháp luật là yếu tố thúc đẩy việc thực hiện pháp luật trong thực tế
Ý thức pháp luật của mỗi người được thể hiện thông qua trình độ hiểu biết pháp luật, thái độ đối với pháp luật (tôn trọng, ủng hộ hoặc coi thường, chống đối) và hành vi pháp luật thực tế của người đó (hợp pháp hoặc bất hợp pháp). Nếu mọi người trong xã hội đều có ý thức pháp luật cao, tức là đều hiểu biết đúng đắn yêu cầu của các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động của mình, đều có thái độ tôn trọng, ủng hộ các quy định đó nên luôn luôn có các hành vi hợp pháp thì pháp luật sẽ được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và tự giác hơn.
b – Ý thức pháp luật là yếu tố bảo đảm cho việc áp dụng pháp luật được đúng đắn, chính xác
Trong quá trình áp dụng pháp luật, các chủ thể có thẩm quyền thường phải ban hành quyết định áp dụng pháp luật để giải quyết vụ việc.
Các quyết định áp dụng pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới đối tượng áp dụng, có thể mang lại cho người ta những lợi ích rất to lớn (Ví dụ: quyết định đề bạt, tăng lương, phân nhà…); song cũng có thể bắt người ta phải gánh chịu những hậu quả rất nặng nề (bị phạt tiền, bị phạt tù, bị kỷ luật…). Do vậy, để bảo đảm công lý, công bằng xã hội, các quyết định đó phải được ban hành một cách đúng đắn, chính xác, “vừa thấu tình, vừa đạt lý”.
Muốn đưa ra được các quyết định áp dụng pháp luật đáp ứng yêu cầu trên thì chủ thể áp dụng phải hiểu rõ các yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật để lựa chọn đúng quy phạm pháp luật cần áp dụng, giải thích quy phạm đó phù hợp với trường hợp cần áp dụng và có ý thức tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh quy phạm đó trong quá trình áp dụng, tức là phải có ý thức pháp luật cao.
Đặc biệt, ý thức pháp luật của chủ thể có thẩm quyền áp dụng có vai trò quyết định cao hơn đối với tính đúng đắn của các quyết định được ban hành trong quá trình áp dụng pháp luật tương tự. Trong quá trình giải quyết các vụ việc theo hình thức áp dụng này, để có thể đưa ra được một quyết định hợp với lòng người, bảo đảm được công lý, công bằng xã hội thì đòi hỏi người áp dụng phải đạt đến trình độ có thể sử dụng pháp luật một cách có nghệ thuật và kỹ thuật.
Trả lời