Quy chế pháp lý về tài chính, tài sản của hội trong Dự thảo Luật về Hội
Tác giả: PGS.TS. Nguyễn Văn Vân
TÓM TẮT
Bài viết khảo sát các quy định pháp luật về chế độ tài sản, tài chính của hội trong Dự thảo Luật về Hội và so sánh với các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành. Bài viết cung cấp các cơ sở lý luận để xây dựng chế độ tài chính của hội theo nguyên tắc tự chủ tài chính; chấm dứt tình trạng ngân sách nhà nước bao cấp kinh phí hoạt động cho các hội. Bài viết nhận diện sự khác biệt về chế độ tài sản, tài chính của hội với các tổ chức kinh tế và kết luận rằng cần thừa nhận quyền hoạt động kinh tế nhưng phải thành lập doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2014. Ngoài ta, Luật về Hội phải quy định chi tiết về chế độ sở hữu đối với tài sản của hội.
Xem thêm bài viết về “Tài sản”
- Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản trí tuệ theo pháp luật Việt Nam – TS. Nguyễn Xuân Quang & TS. Nguyễn Hồ Bích Hằng
- Nghĩa vụ cung cấp thông tin trong quá trình xác lập thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng – ThS. Ngô Thị Vân Anh
- Thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân – ThS. Ngô Thị Vân Anh & ThS. Đặng Lê Phương Uyên
- Quy định về “Đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm” trong tố tụng hình sự – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
- Rủi ro đối với tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam – PGS.TS. Đỗ Văn Đại & ThS. Nguyễn Nhật Thanh
Giống như các tổ chức khác trong xã hội, hội là một thực thể “sống”, hội cần phải sở hữu nguồn lực tài chính, tài sản nhất định để vận hành và thực hiện các chức năng, sứ mạng của mình. Nếu các quy định pháp luật về tài sản, tài chính của hội được xây dựng một cách rõ ràng, cụ thể thì không chỉ là động lực để các hội thực hiện các sứ mệnh, mục tiêu nhiệm vụ của mình một cách hiệu quả mà còn là tiền đề để công dân thực thi quyền lập và gia nhập hội. Một chế độ pháp lý minh bạch về hoạt động tài chính của các hội sẽ là điều kiện tiên quyết để các hội viên phát huy năng lực tự quản và tự chủ đúng theo bản chất của một tổ chức xã hội. Ngoài ra, phân định chế độ tài chính cho các loại hình hội giúp thực hiện lộ trình chấm dứt tình trạng ngân sách nhà nước (NSNN) “hỗ trợ” kinh phí cho hoạt động của các hội, chấm dứt tình trạng không hiệu quả trong chi tiêu NSNN.
1. Chế độ tài chính của hội theo pháp luật hiện hành
Hiện tại, chế độ tài chính của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp và tổ chức nghề nghiệp được quy định tại Điều 8 Luật NSNN năm 2015 như sau: “ngân sách nhà nước bảo đảm cân đối kinh phí hoạt động của tổ chức chính trị và các tổ chức chính trị – xã hội” và “kinh phí hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp được thực hiện theo nguyên tắc tự bảo đảm; NSNN chỉ hỗ trợ cho các nhiệm vụ Nhà nước giao theo quy định của Chính phủ”. Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động và quản lý hội gián tiếp quy định chế độ tài chính của hội tại khoản 11, 12 Điều 23 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP: “được gây quỹ hội trên cơ sở hội phí của hội viên và các nguồn thu từ hoạt động kinh doanh, dịch vụ theo quy định của pháp luật để tự trang trải về kinh phí hoạt động; hội được nhận các nguồn tài trợ hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật. Được nhà nước hỗ trợ kinh phí đối với những hoạt động gắn với nhiệm vụ của nhà nước giao”.
Theo Luật Kế toán năm 2015, nghĩa vụ phải tuân thủ các quy định chế độ tài chính và quy chế về sổ sách chứng từ, báo cáo tài chính của hội với tính chất là một đơn vị kế toán phi kinh doanh. Như vậy, với những viện dẫn trên có thể nhận thấy:
Thứ nhất, các quy định pháp luật về tài chính của hội được thiết kế theo hướng “mở” tức không quy định nguyên tắc, không liệt kê hoặc giới hạn về nguồn thu và các khoản chi, chế độ sở hữu đối với tiền và tài sản của hội, quỹ.
Thứ hai, các tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp được Nhà nước chi hỗ trợ kinh phí khi thực hiện các nhiệm vụ do Nhà nước giao theo quy định của Chính phủ. Tuy nhiên, nguyên tắc, cơ sở và định mức hỗ trợ từ NSNN cho các hội (khi hội thực hiện nhiệm vụ do nhà nước giao) chưa được hướng dẫn chi tiết.
Thứ ba, các văn bản này gián tiếp cho phép các hội thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Tóm lại, chế độ tài chính, tài sản của hội chưa được quy định chi tiết tạo sự nhầm lẫn và đồng nhất chế độ tài chính của hội với các tổ chức chính trị – xã hội như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc các hội đặc thù như Hội Phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam.
Xem thêm bài viết về “Tài chính”
2. Các yêu cầu và mục tiêu về chế độ tài chính của hội trong Luật về Hội
2.1. Chấm dứt bao cấp kinh phí từ ngân sách nhà nước cho các hội, áp dụng nguyên tắc tự chủ, tự trang trải kinh phí
Trong thời gian qua, NSNN đang phải “gồng mình” bao cấp kinh phí cho hoạt động của các hội. Theo Tờ trình của Chính phủ, tính đến tháng 12/2014 cả nước có 52.565 hội (483 hội hoạt động phạm vi cả nước và 52.082 hội hoạt động phạm vi địa phương), trong đó có 8.792 hội có tính chất đặc thù (28 hội hoạt động phạm vi cả nước và 8.764 hội hoạt động phạm vi địa phương).[1]
Theo Quyết định số 2643/QĐ-BTC ngày 14/12/2015 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc công bố công khai số liệu dự toán NSNN năm 2016 thì khoản chi ngân sách trung ương để hỗ trợ các tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, xã hội, xã hội – nghề nghiệp và Liên minh Hợp tác xã là 521,465 triệu đồng (trong đó chi riêng cho Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đã là 111,970 triệu đồng). Số liệu này chỉ tính riêng cho phần ngân sách trung ương, chưa bao gồm khoản chi hỗ trợ các tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, xã hội, xã hội – nghề nghiệp và Liên minh Hợp tác xã từ ngân sách 63 tỉnh thành phố trực thuộc trung ương[2] và cũng chưa bao gồm khoản chi từ NSNN cho các tổ chức chính trị – xã hội và các hội đặc thù như Hội Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam và Hội cựu chiến binh Việt Nam.
Qua số liệu trên có thể nhận thấy, trong thời gian qua, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội và các hội đặc thù là đơn vị thụ hưởng NSNN thường xuyên và toàn bộ kể cả cho đội ngũ nhân lực, bộ máy và kinh phí hoạt động. Các hội khác được nhà nước cấp phát NSNN để cân đối kinh phí hoạt động hoặc cấp kinh phí hoạt động khi thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước.
Trong Dự thảo Luật về Hội cũng chỉ nhắc lại các quy định trong Nghị định số 45/2010/NĐ-CP mà chưa có quy định nào mang tính đột phá về chế độ tài chính của hội.[3] Nếu chấp nhận những nội dung của Dự thảo nghĩa là cho phép các hội tiếp nhận kinh phí NSNN thông qua lý do “thực hiện các nhiệm vụ nhà nước giao”, đồng thời tiếp tục duy trình tình trạng mập mờ trong hỗ trợ kinh phí từ NSNN cho các hội với lý do “thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước”. Nếu tiếp tục duy trì cơ chế và tình trạng nói trên trong Luật về Hội sẽ không phù hợp với nguyên lý tối thiểu của hoạt động tạo lập, phân phối, sử dụng quỹ NSNN. Dưới khía cạnh lợi ích kinh tế, Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho các hội sẽ gia tăng gánh nặng cho người nộp thuế nhưng nhà nước không kiểm soát tính hiệu quả trong trong việc sử dụng nguồn lực tài chính, tài sản của Nhà nước. Xét dưới khía cạnh nguyên lý tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ NSNN trong một quốc gia dân chủ thì tiền thuế của nhân dân phải được chi tiêu cho bộ máy nhà nước, đầu tư phát triển và phúc lợi xã hội. Tiền thuế của nhân dân không thể chi tiêu để thỏa mãn lợi ích của một nhóm người mà bản chất là một tổ chức dân sự. Điều này không phù hợp với mục đích chi của NSNN.
Để chấm dứt tình trạng này, cần thiết phải phân nhóm các loại hội, trong đó nhóm các hội đặc thù (Hội Nông dân Việt Nam; Hội Cựu chiến binh Việt Nam và Hội Phụ nữ Việt Nam) có quy chế tài chính tương tự các tổ chức chính trị – xã hội (Công đoàn Việt Nam, Đoàn Thanh niên; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam), bởi lẽ các hội đặc thù và các tổ chức chính trị – xã hội thực hiện các sứ mệnh lịch sử trong hệ thống chính trị Việt Nam. Đối với các hội còn lại phải hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự trang trải kinh phí và chấm dứt có lộ trình hiện tượng NSNN hỗ trợ cho hoạt động của các hội. Cơ sở của đề xuất trên là:
Thứ nhất, bản chất và thuộc tính của hội là một tổ chức tự nguyện của xã hội dân sự, tập hợp các thành viên cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới… hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên. Một hội cụ thể không thể đại diện hoặc bảo vệ lợi ích cả cộng đồng hoặc của những người không phải là hội viên. Do vậy, việc sử dụng tiền thuế của nhân dân (NSNN) để “hỗ trợ” cho hoạt động của tổ chức của một nhóm người là không phù hợp với nguyên lý tài chính công.
Thứ hai, hội ra đời không nhằm mục đích thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Để thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ của nhà nước xu thế tất yếu là phải xây dựng bộ máy các cơ quan nhà nước mạnh, đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp. Luật về hội không nên trao cho hội các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước mà vốn dĩ không thuộc chức năng, nhiệm vụ của hội. Hội cũng không phải là “cánh tay nối dài” của cơ quan nhà nước. Trường hợp một hội cụ thể nào đó có năng lực để thực hiện các nhiệm vụ đặc thù (đào tạo, huấn luyện, nghiên cứu, giám sát các tiêu chuẩn nghề nghiệp…) thì việc thực hiện các công việc này phải thông qua cơ chế đấu thầu cạnh tranh, minh bạch và công khai. Khi đó, các hội nhận kinh phí từ NSNN với tư cách là chủ thể cung cấp dịch vụ cho Nhà nước và việc nhận kinh phí này phải trên cơ sở hợp đồng.
Ngoài ra, trong các văn kiện của Đảng đã thể hiện rõ xu thế tất yếu phải chấm dứt tình trạng bao cấp từ NSNN cho các hội.[4] Như vậy, việc chấm dứt hiện trạng “bao cấp” kinh phí từ NSNN cho các hội là xu thế tất yếu.
2.2. Về hoạt động kinh doanh của hội
Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội (sau đây gọi tắt là Nghị định số 45/2010/NĐ-CP) và cả Thông tư số 11/2010/TT-BNV ngày 26/11/2010 của Bộ Nội vụ về việc hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 45/2010/NĐ-CP quy định: “Hội được gây quỹ hội trên cơ sở hội phí của hội viên và các nguồn thu từ hoạt động kinh doanh, dịch vụ theo quy định của pháp luật để tự trang trải về kinh phí hoạt động”. Như vậy, pháp luật gián tiếp cho phép các hội thực hiện hoạt động kinh doanh. Ngoài ra, không tồn tại bất cứ quy định pháp luật nào trực tiếp cấm các hội thực hiện hoạt động kinh doanh.
Khoản 2 điều 7 Dự thảo Luật về Hội có các quy định tương tự Nghị định 45/2010/NĐ-CP như: “Nhà nước bảo đảm và tạo điều kiện để hội tham gia vào quá trình xã hội hóa các hoạt động cung cấp dịch vụ công; thực hiện chương trình, dự án, đề tài, đề án và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật” hoặc “Nguồn thu từ hoạt động cung cấp dịch vụ, tư vấn, thực hiện chương trình, dự án, đề tài và các hoạt động hợp pháp khác” (khoản 2 Điều 29 Dự thảo Luật về Hội)… Nếu Dự thảo Luật về Hội được chấp nhận tức thừa nhận rằng hội được thực hiện các hoạt động kinh tế, bao gồm: cung cấp dịch vụ, tư vấn, thực hiện các chương trình, dự án, đề tài, cung cấp dịch vụ công và các hoạt động hợp pháp. Mặc dù Dự thảo Luật về Hội nhấn mạnh tiêu chí phi lợi nhuận của hội nhưng quy định về mục tiêu phi lợi nhuận chỉ có thể hiểu rằng hội không đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu (như hợp tác xã). Trường hợp nếu có lợi nhuận thì không chia cho hội viên mà để sử dụng cho các hoạt động của hội theo điều lệ hội. Quy định về mục tiêu phia lợi nhuận không cản trở việc các hội sẽ thực hiện các hoạt động kinh doanh. Nếu thừa nhận quy định cho phép hội được trực tiếp kinh doanh thì phát sinh các bất cập sau:
Một là, nếu cho phép hội trực tiếp thực hiện hoạt động kinh tế sẽ tạo nên sự không công bằng giữa doanh nghiệp với hội. Pháp luật doanh nghiệp, hợp tác xã quy định vô số các nghĩa vụ của chủ thể kinh doanh (đăng ký doanh nghiệp, đăng ký thuế, chế độ kế toán, kiểm toán, nghĩa vụ thuế cho nhà nước, nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động, quy chế, thủ tục phá sản). Trong khi đó, các hội cũng thực hiện hoạt động kinh doanh nhưng các hội lại “nằm ngoài vùng phủ sóng” của các quy định nghĩa vụ của chủ thể kinh doanh là không công bằng;
Hai là, cho phép các hội trực tiếp thực hiện hoạt động kinh doanh sẽ tiềm ẩn nguy cơ hạn chế cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp và các hội do các hội có các lợi thế nhất định về mức độ ảnh hưởng, nguồn lực tài chính đặc biệt luôn tiềm ẩn thỏa thuận ngầm trong nội bộ thành viên các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội nghề nhằm hạn chế cạnh tranh, kìm hãm nền kinh tế;
Thứ ba, sứ mạng, tôn chỉ của hội không phải là tổ chức kinh tế. Nếu cho phép các hội thực hiện hoạt động kinh doanh (cho dù là không đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu) thì sẽ xóa nhòa bản chất và mục tiêu của hội.
Từ những viện dẫn trên, thiết nghĩ chỉ nên cho phép (thậm chí khuyến khích) các hội thực hiện các hoạt động kinh doanh nhưng với điều kiện phải thành lập doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 và có thể lựa chọn một loại hình doanh nghiệp phù hợp (công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên) và hạch toán độc lập. Trong trường hợp này, hội là chủ sở hữu của doanh nghiệp mà không là chủ thể kinh doanh trực tiếp.[5] Khi tách chức năng của hội khỏi chức năng kinh doanh sẽ đảm bảo: (i) phù hợp chủ trương và nguyên tắc tự do kinh doanh, huy động mọi nguồn lực phục vụ cho phát triển kinh tế đất nước; (ii) phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành về đăng ký kinh doanh, nghĩa vụ thuế và kế toán, kiểm toán, xóa bỏ các bất cập đã nói ở trên; (iii) tạo điều kiện cho doanh nghiệp tối đa hóa các nguồn thu, tự hạch toán để duy trì hoạt động của mình đặc biệt là trong bối cảnh cắt bỏ kinh phí từ NSNN.
2.3. Chế độ sở hữu đối với tài sản của hội
Hội là một tổ chức, có tài sản riêng. Nguồn gốc hình thành tài sản của hội khá đa dạng, chủ yếu từ khoản đóng góp của hội viên, các khoản tài trợ, hỗ trợ, tặng cho, các khoản thu nhập từ đầu tư kinh doanh. Do vậy pháp luật về hội nên khẳng định sự thừa nhận và bảo hộ từ phía Nhà nước quyền sở hữu tài sản của hội. Tài sản của hội độc lập với tài sản của Nhà nước, độc lập với tài sản của các hội viên và các chủ thể khác. Mặt khác để tránh nhầm lẫn về chế độ sở hữu tài sản của hội so với các tổ chức kinh tế khác, Luật về Hội nên chính thức khẳng định chế độ sở hữu về tài sản của hội. Theo đó, toàn bộ tài sản của hội thuộc sở hữu của hội mà không theo chế độ sở hữu chung hợp nhất hay sở hữu chung theo phần của các hội viên. Mặc dù tài sản của hội hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó phần lớn do hội viên đóng góp, kể cả các khoản tài trợ của các cá nhân, tổ chức khác và giá trị của chúng có thể được tăng lên theo thời gian nhưng toàn bộ tài sản đó thuộc sở hữu của hội mà không thể là sở hữu của các hội viên. Đây là điểm khác biệt cơ bản về chế độ sở hữu của hội so với tổ chức kinh tế. Các cổ đông công ty cổ phần hoặc thành viên góp vốn công ty trách nhiệm hữu hạn (là một pháp nhân, có tài sản riêng thuộc sở hữu của chính công ty đó) là các chủ sở hữu công ty theo tỷ lệ % của vốn điều lệ. Khi công ty giải thể, tài sản còn lại của công ty sẽ phân chia cho các chủ sở hữu công ty theo tỷ lệ cổ phần (phần vốn góp).
Trong cơ cấu tổ chức nội bộ của hội, các hội viên không thể là những “cổ đông”, hội viên cũng không phải là đồng chủ sở hữu tài sản của hội. Trong mọi trường hợp, hội viên không được chia lợi nhuận hoặc không được nhận bất kỳ khoản lợi tức nào hoặc bất kỳ tài sản nào của hội. Trong trường hợp hội giải thể, phần tài sản còn lại của hội không thể phân chia cho các hội viên. Thiết nghĩ, nguyên tắc này phải được quy định trong Luật về Hội nhằm đảm bảo hội được tồn tại lâu dài, loại bỏ hiện tượng lạm dụng quyền tuyên bố chấm dứt, giải thể hội để chiếm đoạt tài sản của hội và cũng là cơ chế phòng ngừa việc lạm dụng quyền lực của các cá nhân điều hành, quản lý hội.
Chế độ pháp lý về tài sản, tài chính của hội có bản chất hoàn toàn khác biệt với chế độ pháp lý về tài sản, ,tài chính của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức kinh tế. Để các hội được thành lập, hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ vụ của mình, Dự thảo Luật về Hội cần quy định chi tiết hơn các nội dung về tài sản, tài chính của hội theo đúng nguyên tắc tài chính của một tổ chức dân sự./.
Xem thêm bài viết “Luật về Hội”
- Bàn về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hội theo Dự thảo Luật về Hội – ThS. Nguyễn Tú Anh
- Chính sách, pháp luật về hội và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu nhằm hoàn thiện Dự thảo Luật về Hội – ThS. Nguyễn Văn Huệ
- Góp ý về định hướng xây dựng Luật về Hội và một số vấn đề khác – PGS.TS. Vũ Văn Nhiêm
- Bàn về quyền và nghĩa vụ của hội có đăng ký trong dự thảo Luật về Hội – TS. Lê Minh Hùng
- Địa vị pháp lý của hội trong hoạt động xây dựng pháp luật – TS. Đỗ Minh Khôi
CHÚ THÍCH
[1] Tờ trình số 578/TTr-CP ngày 27/10/2015 của Chính phủ về Dự án luật về hội, http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/TT_TINLAPPHAP/View_Detail.aspx?ItemID=2445.
[2] Theo Quyết định số 55/2015/QĐ-BTC ngày 10/12/2015 của Ủy ban nhân dân Tp.Hồ Chí Minh về giao chỉ tiêu dự toán thu – chi NSNN năm 2016 thì khoản chi từ ngân sách Tp.Hồ Chí Minh cho các hội trong năm 2015 là 59,816 triệu đồng, năm 2016 là 46,981 triệu đồng (chưa bao gồm khoản chi cho Liên hiệp các tổ chức hữu nghị, Hiệp hội doanh nghiệp Tp.Hồ Chí Minh).
[3] Theo khoản 1 Điều 3 Dự thảo Luật về Hôi: “nhiệm vụ của hội góp phần thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực hoạt động”; khoản 4 Điều 7: “Nhà nước hỗ trợ kinh phí và tạo điều kiện để hội thực hiện nhiệm vụ do Nhà nước giao”; khoản 2 Điều 29: “Nguồn thu của hội bao gồm:… Kinh phí nhà nước hỗ trợ để thực hiện nhiệm vụ do Nhà nước giao”; khoản 3 Điều 30: “Việc quản lý, sử dụng tài sản, tài chính của hội có nguồn từ ngân sách nhà nước hỗ trợ để thực hiện nhiệm vụ do Nhà nước giao được thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước và pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước”.
[4] Kết luận số 102-KL/TW ngày 22/9/2014 của Bộ Chính trị về hội quần chúng đã xác định “Đối với các hội đã được giao biên chế, kinh phí hoạt động giữ ổn định đến hết năm 2016; từ năm 2017 đến năm 2020 từng bước thực hiện khoán kinh phí hoạt động cho hội theo lộ trình phù hợp. Các hội còn lại hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự quản, tự trang trải kinh phí hoạt động, Nhà nước hỗ trợ kinh phí hoạt động gắn với nhiệm vụ được giao”.
Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cũng chỉ rõ: “Giữ ổn định biên chế của các tổ chức xã hội, xã hội – nghề nghiệp đến hết năm 2016. Từ năm 2017, thực hiện khoán hoặc hỗ trợ kinh phí để thực hiện các nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước giao” và Quy định về quản lý biên chế thống nhất của hệ thống chính trị (ban hành kèm theo Quyết định số 253-QĐ/TW ngày 21/7/2014 của Bộ Chính trị), Bộ Chính trị đã không đặt vấn đề tiếp tục cấp kinh phí hoạt động và không giao biên chế cho các tổ chức hội.
[5] Nguyên lý này cũng được ghi nhận trong Luật về tổ chức xã hội của Cộng hòa Liên bang Nga. Cụ thể, Điều 37 Luật về tổ chức xã hội của Cộng hòa Liên bang Nga đề cập đến hoạt động kinh doanh của hội: “Hội chỉ thực hiện hoạt động kinh doanh khi phù hợp với tôn chỉ khi thành lập nhằm thực hiện các mục đích ghi nhận trong điều lệ của hội. Hoạt động kinh doanh của hội phải tuân thủ các quy định pháp luật trong Bộ Luật dân sự và các quy định pháp luật khác về hoạt động kinh doanh. Hội được quyền thành lập các công ty, hoặc bất kỳ hình thức chủ thể kinh doanh nào mà pháp luật cho phép và được quyền sở hữu tài sản phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Hội thực hiện các nghĩa vụ tài chính cho ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật liên bang”.
Thu nhập từ hoạt động kinh doanh của hội không được chia, phân bổ cho các thành viên hoặc những người tham dự mà chỉ được sử dụng vào mục đích chung của hội. Cho phép hội sử dụng tài sản và các nguồn lực của mình để thực hiện các hoạt động từ thiện xã hội, kể cả trường hợp điều lệ không có quy định như vậy. Bản tiếng Nga: Федеральным законом от 2 июня 2016 года N 179-ФЗ Об общественных объединениях (с изменениями на 2 июня 2016 года), Официальный интернет-портал правовой информации www.pravo.gov.ru, 02.06.2016, N 0001201606020008).
- Tác giả: PGS.TS. Nguyễn Văn Vân
- Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 02(105)/2017 – 2017, Trang 31-35
- Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời