So sánh và Phân biệt pháp luật với các công cụ khác để điều chỉnh quan hệ xã hội
- Phân tích khái niệm điều chỉnh quan hệ xã hội
- Chủ nghĩa Mác – Lênin về sự ra đời của pháp luật
- Pháp luật là gì? Đặc trưng của pháp luật?
- Vị trí, vai trò của nhà nước trong hệ thống chính trị
- Hình thức của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Chế độ chính trị là gì? Phân biệt chế độ dân chủ với phản dân chủ
- Hình thức cấu trúc là gì? Phân biệt nhà nước đơn nhất với nhà nước liên bang
- Phân tích sự biến đổi của chính thể cộng hòa qua các kiểu nhà nước
- Phân tích sự biến đổi của chính thể quân chủ qua các kiểu nhà nước
- Hình thức chính thể là gì? Phân biệt chính thể quân chủ với cộng hòa
1 – Pháp luật và các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội là gì?
a – Pháp luật là gì?
Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích, định hướng của nhà nước
b – Các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội khác là gì?
– Đạo đức được hiểu là tổng thể những quan niệm, quan điểm về chân, thiện, mỹ, nghĩa vụ, danh dự… (trong đó cốt lõi là điều thiện) cùng những quy tắc xử sự được hình thành trên cơ sở những quan niệm, quan điểm đó nhằm điều chỉnh hành vi, ứng xử của con người, chúng được bảo đảm thực hiện bởi lương tâm, tình cảm cá nhân và sức mạnh của dư luận xã hội.
– Phong tục, tập quán hay tập quán đều là những quy tắc xử sự chung hình thành từ những thói quen xử sự có tính chất lặp đi lặp lại hàng ngày trong một cộng đồng dân cư nào đó và được bảo đảm thực hiện bằng thói quen, niềm tin nội tâm của mỗi cá nhân cũng như dư luận xã hội. .
– Hương ước là tổng thể các quy tắc xử sự điều chỉnh các quan hệ xã hội trong phạm vi một thôn, làng.
– Luật tục là tất cả những quy tắc xử sự mang tính chất dân gian, nguyên thủy, bản địa, không thành văn, bao gồm cả phong tục, tập quán, lệ làng…
– Tín điều tôn giáo bao gồm giáo lý, giáo luật (luật giáo hội) của một tôn giáo, tức là lý luận, học thuyết của một tôn giáo, đó là những quan niệm, quan điểm về thượng đế, về đức tin, về suy nghĩ và hành vi của con người đối với thượng đế… và hệ thống quy tắc xử sự do một tổ chức giáo hội đặt ra nhằm quy định về các lễ nghi tôn giáo và điều chỉnh các quan hệ xã hội trong một cộng đồng tôn giáo.
– Quy định của tổ chức phi nhà nước (kỷ luật của một tổ chức) là tổng thể những quy định có tính chất bắt buộc đối với hoạt động của các thành viên trong một tổ chức để đảm bảo tính chặt chẽ của tổ chức đó, được bảo đảm thực hiện bằng sự tự giác của các hội viên cũng như các hình thức kỷ luật của tổ chức.
2 – So sánh / Phân biệt pháp luật với các công cụ khác để điều chỉnh quan hệ xã hội
Pháp luật khác các loại quy phạm xã hội trên ở một số điểm sau:
Pháp luật | Các công cụ khác điều chỉnh quan hệ xã hội |
---|---|
- Pháp luật có tính quyền lực nhà nước, bởi vì pháp luật được hình thành bằng con đường nhà nước, do nhà nước đặt ra (ví dụ như các quy định về tổ chức bộ máy nhà nước), hoặc do nhà nước thừa nhận (các phong tục, tập quán, các quan niệm, quy tắc đạo đức...) nên pháp luật luôn thể hiện ý chí của nhà nước - Pháp luật được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp, từ tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, thuyết phục, động viên, khen thưởng, tổ chức thực hiện cho đến áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. | - Các công cụ khác có thể được hình thành một cách tự phát trong một cộng đồng dân cư nào đó (ví dụ như đạo đức, phong tục, tập quán, luật tục...), có thể do các tổ chức phi nhà nước đặt ra (ví dụ như điều lệ đoàn, công đoàn, giáo luật...) nên chỉ thể hiện ý chí của một cộng đồng dân cư hoặc ý chí của tổ chức phi nhà nước - Các công cụ đó được bảo đảm thực hiện bằng thói quen, bằng lương tâm, niềm tin của mỗi cá nhân, bằng dư luận xã hội cũng như các hình thức kỷ luật của tổ chức. |
- Pháp luật có tính quy phạm phổ biến, nó có giá trị bắt buộc phải tôn trọng và thực hiện đối với mọi tổ chức và cá nhân có liên quan trong phạm vi lãnh thổ quốc gia - Pháp luật có tác động bao trùm lên toàn xã hội, tới mọi tổ chức và cá nhân có liên quan trong xã hội; đồng thời có tác động thường xuyên, liên tục trên toàn lãnh thổ và trong nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội. | - Các công cụ khác cũng có tính quy phạm nhưng không phổ biến bằng pháp luật, bởi vì chúng chỉ có giá trị bắt buộc phải tôn trọng và thực hiện đối với cộng đồng dân cư trong một địa phương hoặc với các hội viên trong một tổ chức - Do vậy, các công cụ khác chỉ tác động tới một bộ phận dân cư. |
- Pháp luật có tính hệ thống, bởi vì pháp luật là một hệ thống các quy phạm để điều chỉnh nhiều loại quan hệ xã hội phát sinh trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống như dân sự, kinh tế, lao động..., song các quy phạm đó không tồn tại một cách biệt lập mà giữa chúng có mối liên hệ nội tại và thống nhất với nhau để tạo nên một chỉnh thể là hệ thống pháp luật. | - Các công cụ khác có thể có tính hệ thống, ví dụ như quy định của các tổ chức phi nhà nước, song cũng có thể không có tính hệ thống, ví dự như đạo đức, phong tục, tập quán... |
- Pháp luật có tính xác định về hình thức, tức là pháp luật thường đuợc thể hiện trong những hình thức nhất định, có thể là tập quán pháp, tiền lệ pháp hoặc văn bản quy phạm pháp luật. Trong các văn bản quy phạm pháp luật, các quy định của pháp luật thường rõ ràng, cụ thể, bảo đảm có thể được hiểu và thực hiện thống nhất trong một phạm vi rộng. | - Các công cụ khác có thể có tính xác định về hình thức, ví dụ như điều lệ, chỉ thị, nghị quyết của các tổ chức phi nhà nước, giáo luật của các tổ chức tôn giáo; cũng có thể chỉ tồn tại dưới dạng bất thành văn, lưu truyền chủ yếu theo hình thức truyền miệng nên không có tính xác định về hình thức, ví dụ như phong tục, tập quán, đạo đức... |
Trả lời