Luật về Hội – Cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện quản lý nhà nước về hội
Tác giả: TS. Cao Vũ Minh & ThS. Nguyễn Nhật Khanh
TÓM TẮT
Lập hội là một trong những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp ghi nhận. Hiện nay, các văn bản pháp luật điều chỉnh về quyền lập hội của công dân đã trở nên lạc hậu. Trên cơ sở đó, bài viết phân tích về sự cần thiết ban hành Luật về Hội, đồng thời đưa ra những góp ý cụ thể nhằm hoàn thiện dự thảo luật này.
1. Luật về Hội – Cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hội
Phàm những gì “lỗi nhịp” với thời gian, người ta gọi là “lạc hậu”. Hiện nay, ở nước ta, luật điều chỉnh về vấn đề quản lý hội, thành lập hội là Luật về Quyền lập hội năm 1957 – một đạo luật có “tuổi thọ” nhất trong lịch sử lập pháp của nước ta. Trải qua thời gian, Luật về Quyền lập hội năm 1957 đã trở nên lạc hậu và không còn phù hợp với thực tiễn. Chính vì vậy, xây dựng và ban hành Luật về Hội để mau chóng hiện thực hóa quyền hội họp của công dân và đưa quản lý nhà nước đi vào nền nếp là một việc làm mang tính cấp thiết.
Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền tự do hội họp. Việc thực hiện quyền này do pháp luật quy định”. Nói là pháp luật nhưng trước hết phải bằng các đạo luật. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền và xã hội công dân thì vai trò của đạo luật ngày càng được đề cao.[1] Do đó, quyền hội họp của công dân phải được điều chỉnh cụ thể ở tầm một đạo luật do Quốc hội ban hành.
Như đã trình bày, do duy trì quá lâu Luật về Quyền lập hội năm 1957 nên các điều khoản trong luật này đã tỏ ra “đuối sức” trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhằm khắc phục hiện tượng luật lạc hậu hơn so với quan hệ xã hội, Chính phủ đã nhiều lần “chữa cháy” bằng cách ban hành ra các nghị định quy định chi tiết về quyền lập hội của công dân. Hiện nay, quyền lập hội của công dân được điều chỉnh cụ thể trong Nghị định số 45/2010/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2012/NĐ-CP) của Chính phủ về tổ chức, hoạt động và quản lý hội.[2] Tuy nhiên, các nghị định này thường cụ thể hóa quyền lập hội của công dân theo hướng có lợi cho hoạt động quản lý. Điều này vô hình trung làm cho quyền lập hội – một quyền hiến định thiêng liêng của công dân đã bị thu hẹp rất nhiều qua những “nhát kéo” của nghị định.
Đơn cử, theo Điều 4 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2012/NĐ-CP) thì “Hội có tư cách pháp nhân, trụ sở, con dấu, tài khoản và có thể có biểu tượng riêng. Trụ sở chính của hội đặt tại Việt Nam”. Như vậy, hội theo quy định của nghị định này phải có tư cách pháp nhân. Phải chăng công dân chỉ có thể thực hiện quyền lập hội khi lập thành một nhóm, một tổ chức nhất định và phải được công nhận là có tư cách pháp nhân? Dù hiểu thế nào đi nữa thì quy định này có thể làm cản trở quyền lập hội của các cá nhân khi chưa được công nhận hoặc không đủ điều kiện để được công nhận là “có tư cách pháp nhân”.
Ngoài ra, quy định này cũng không theo kịp thực tế diễn biến của các quan hệ xã hội. Ở Việt Nam hiện nay, công dân vẫn có thể thành lập các hội theo sở thích, theo mục đích nhất định mà không cần tới “tư cách pháp nhân”. Cụ thể, các hội đồng hương, hội chim cá cảnh, hội khuyến học, hội khuyến sư, hội khuyến tài… là những tổ chức được thành lập trên cơ sở tự nguyện của một số cá nhân có cùng sở thích, hoạt động có mục đích nhất định. Trong bối cảnh hiện nay, nếu lấy tiêu chí là hội phải có “tư cách pháp nhân” thì sự tồn tại và hoạt động của những hội như kể trên có được coi là hợp pháp? Nếu nói là “Có” thì dường như quy định trong Nghị định số 45/2010/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2012/NĐ-CP) là không phù hợp với thực tiễn. Nếu nói là “Không” thì chế tài và cách xử lý của Nhà nước đối với những hội như thế này sẽ ra sao?
Chính vì những lý do trên mà một lần nữa, chúng tôi cho rằng đây là thời điểm thích hợp để ban hành Luật về Hội. Luật về Hội ra đời hứa hẹn sẽ tạo hành lang pháp lý thông thoáng, an toàn cho việc thực hiện quyền lập hội của công dân trên thực tế, khắc phục những hành vi chủ quan, duy ý chí của các cơ quan nhà nước khi muốn cản trở việc thực hiện quyền lập hội của công dân.
Xem thêm bài viết về “Quản lý nhà nước”
- Đề xuất bổ sung các nguyên lý quản lý nhà nước trong chương trình đào tạo môn học Luật Hành chính ở Việt Nam – PGS.TS. Phan Trung Hiền
- Cân bằng yếu tố quản lý nhà nước và bảo đảm quyền lập hội của người dân trong Dự thảo Luật về Hội từ kinh nghiệm của Vương Quốc Anh – TS. Đặng Tất Dũng
- Thực tiễn ban hành văn bản pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động xử phạt vi phạm hành chính và giải pháp hoàn thiện – TS. Thái Thị Tuyết Dung& ThS Mai Thị Lâm & ThS. Trương Tư Phước
- Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm: Nhìn từ khía cạnh quản lý nhà nước và quyền lợi người tiêu dùng – ThS. Nguyễn Tuấn Vũ
- Các phương pháp quản lý hành chính nhà nước – ThS. LS. Phạm Quang Thanh
2. Quản lý nhà nước về Hội – Những vấn đề cần nghiên cứu từ Dự thảo Luật về Hội
2.1. Luật về Hội chưa thừa nhận quyền lập hội của người nước ngoài cư trú tại Việt Nam
Điều 4 Dự thảo Luật về Hội đưa ra giải thích về khái niệm “Hội” như sau: “Hội là tổ chức được thành lập trên cơ sở tự nguyện của công dân Việt Nam, cùng chung mục đích, hoạt động không vì lợi nhuận, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội, hội viên và cộng đồng theo quy định của pháp luật, góp phần thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực hoạt động; được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký thành lập, công nhận điều lệ và người đứng đầu hội”. Có thể thấy rằng, Dự thảo Luật về Hội lần này quy định phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Luật về Hội chỉ là công dân Việt Nam.
Theo chúng tôi, khái niệm “Hội” được giải thích trong Dự thảo Luật về Hội chưa bao quát được hết các đối tượng có quyền lập hội. Các nhà làm luật cần quán triệt quan điểm rằng quyền lập hội là quyền cơ bản của con người chứ không phải quyền công dân. Điều này đã được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý về quyền con người. Điều 20 Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người năm 1948 khẳng định: “Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội một cách hòa bình”. Điều 22 Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị năm 1966 đã tái khẳng định điều này như sau: “1. Mọi người có quyền tự do lập hội với những người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các công đoàn để bảo vệ lợi ích của mình. 2. Việc thực hiện quyền này không bị hạn chế, trừ những hạn chế do pháp luật quy định và là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để bảo vệ sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng hay các quyền và tự do của người khác. Điều này không ngăn cản việc đặt ra những hạn chế hợp pháp trong việc thực hiện quyền này đối với những người làm việc trong các lực lượng vũ trang và cảnh sát. 3. Không một quy định nào của điều này cho phép các quốc gia thành viên đã tham gia Công ước về tự do lập hội và bảo vệ quyền lập hội năm 1948 của Tổ chức Lao động quốc tế được tiến hành những biện pháp lập pháp hoặc hành pháp làm phương hại đến những bảo đảm nêu trong Công ước đó”. Nước ta đã tham gia Công ước này vào năm 1982, vì thế cần phải thực hiện nghĩa vụ nội luật hóa quy định trên trong Dự thảo Luật về Hội. Do đó, quyền lập hội không chỉ dành riêng cho công dân Việt Nam mà còn cho cả các cá nhân, tổ chức nước ngoài hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
Từ khi bắt đầu tiến hành việc soạn thảo Luật về Hội đến nay, trải qua 7 lần Dự thảo về Hội đã có rất nhiều ý kiến tranh luận về việc nên hay không đưa cá nhân, tổ chức nước ngoài vào phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của luật. Năm bản Dự thảo đầu tiên mặc dù không quy định cụ thể cá nhân, tổ chức nước ngoài có quyền lập hội trong điều luật về giải thích thuật ngữ “hội” nhưng lại quy định trong điều luật khác.[3] Sau nhiều ý kiến trái chiều, Dự thảo Luật về Hội lần 6 đã đưa cá nhân, tổ chức nước ngoài vào đối tượng áp dụng của Luật tại khoản 1 Điều 3. Quy định này được đánh giá là tích cực vì công nhận quyền lập hội của cá nhân, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam, phù hợp với các quy định của văn bản pháp lý quốc tế mà Việt Nam tham gia như Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966…
Tuy nhiên, Dự thảo Luật về Hội lần 7 lại bỏ đi quy định tiến bộ này và chỉ quy định về quyền lập hội đối với một chủ thể duy nhất là công dân Việt Nam. Không hiểu vì sao Dự thảo Luật về Hội lần 7 lại thu hẹp đối tượng áp dụng so với cả sáu Dự thảo trước đây? Câu trả lời cho sự thay đổi này chỉ có Ban soạn thảo mới có thể giải đáp. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng Ban soạn thảo nên cân nhắc lại quy định này và xem xét việc công nhận quyền lập hội cho cá nhân, tổ chức nước ngoài như quy định của Dự thảo Luật về Hội lần thứ 6.
2.2. Việc thừa nhận quyền lập hội của cá nhân, tổ chức vẫn trên cơ sở sự “ban phát” từ phía các cơ quan nhà nước
Nhìn chung, các quy định pháp luật về quyền lập hội trong Dự thảo Luật về Hội vẫn mang nặng tính hành chính, coi trọng sự quản lý của cơ quan nhà nước mà chưa quan tâm thấu đáo đến tự do ý chí, tự do thỏa thuận của cá nhân, tổ chức. Đồng ý là hoạt động của Hội phải chịu sự quản lý của Nhà nước nhưng xu thế hành chính hóa hội đã làm mất đi tính tự nguyện, tự chịu trách nhiệm của hội, làm cho tính chất dân sự của hội trở nên bị “xơ cứng”. Điểm qua các điều khoản trong Dự thảo Luật về Hội, có thể dễ dàng nhận thấy từ việc “xin phép” thành lập hội (hồ sơ, thời hạn, thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký thành lập hội) đến hoạt động của hội (cơ cấu tổ chức hội, quyền và nghĩa vụ của hội) đều phải “nhất nhất” được sự “cho phép” của các cơ quan nhà nước. Trong xu thế phát triển hiện nay, việc thành lập các hội là vấn đề tất yếu. Tuy nhiên, Dự thảo Luật về Hội lại tiếp tục duy trì tư duy quản lý kiểu cũ đã tạo ra mâu thuẫn rất lớn giữa nguyên tắc “công dân được phép làm tất cả những gì pháp luật không cấm” với tư duy quản lý theo trật tự hành chính. Điều này khiến cho quyền lập hội được quy định tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013 khó được hiện thực hóa đầy đủ.
Xem xét Dự thảo Luật về Hội thì một điểm sáng duy nhất thể hiện đúng tinh thần của nguyên tắc nhà nước pháp quyền, phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân là quy định tại khoản 5 Điều 18: “Chậm nhất 30 ngày trước ngày tổ chức đại hội, ban lãnh đạo hội báo cáo về các nội dung quy định tại khoản 3 Điều này với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải trả lời bằng văn bản; quá thời hạn không trả lời thì hội được tổ chức đại hội”. Điều khoản này rất hay, thể hiện ở góc độ là “trong một khoảng thời gian cụ thể, cơ quan nhà nước phải tiến hành một hoạt động nhất định. Nếu không tiến hành thì xem như mặc nhiên phát sinh quyền của công dân”. Bên cạnh quy định tiến bộ này thì hàng loạt các điều khoản khác như điểm c khoản 2 Điều 11,[4] khoản 5 Điều 14,[5] khoản 6 Điều 18,[6] điểm a khoản 3 Điều 24,[7] đều chỉ quy định theo công thức “trong thời hạn nhất định, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải giải quyết một công việc cụ thể. Trường hợp không công nhận thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do” nhưng lại không hề quy định là “nếu quá thời hạn này thì có phát sinh quyền của hội hay không”? Dự thảo Luật về Hội quy định rất rõ ràng những nghĩa vụ mà hội phải thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định mà nếu không thực hiện thì phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý. Trong khi đó, Dự thảo Luật về Hội lại không hề quy định trách nhiệm pháp lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện một nhiệm vụ trong một thời hạn nhất định. Điều này vô hình trung tạo ra sự phân biệt trong cách ứng xử giữa cơ quan nhà nước với các hội, đồng thời có thể dẫn đến tình trạng quyền của các hội có thể bị “treo” nếu như các cơ quan nhà nước kéo dài thời gian trong việc thực hiện một hoạt động mang tính công vụ.
Do đó, theo chúng tôi, cần thừa nhận mạnh mẽ nguyên tắc phổ quát của nhà nước pháp quyền là “công dân được làm tất cả những gì luật không cấm, Nhà nước chỉ được làm những gì luật cho phép”. Hiện nay, nguyên tắc này chưa được áp dụng tại Việt Nam, nên mặc dù Dự thảo Luật về Hội có quy định “cơ quan nhà nước phải thực hiện một hành vi công vụ trong một khoảng thời gian nhất định, nếu từ chối thực hiện hành vi phải có lý do chính đáng” nhưng Dự thảo Luật về Hội lại không quy định là “nếu quá thời hạn này thì quyền và lợi ích hợp pháp của hội đương nhiên phát sinh”. Chính vì vậy, các điều khoản như điểm c khoản 2 Điều 11, khoản 5 Điều 14, khoản 6 Điều 18, điểm a khoản 3 Điều 24 cần quy định thêm nội dung: “…trường hợp không đồng ý phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Nếu quá thời hạn nêu trên mà cơ quan nhà nước không trả lời thì quyền và lợi ích hợp pháp của hội đương nhiên phát sinh”. Nếu có quy định này thì các cơ quan nhà nước phải ngay lập tức thực hiện hành vi công vụ nếu muốn cấm đoán, hạn chế, xử phạt, quản lý hoạt động của hội.
2.3. Thẩm quyền quản lý hoạt động của hội còn rườm rà và chứa nhiều mâu thuẫn
Thứ nhất, Điều 12 Dự thảo Luật về Hội quy định các chủ thể có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký thành lập hội như sau: (i) Bộ trưởng Bộ Nội vụ cấp Giấy chứng nhận đăng ký thành lập hội hoạt động trong phạm vi cả nước và liên tỉnh; (ii) Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cấp Giấy chứng nhận đăng ký thành lập hội hoạt động trong phạm vi địa phương. Căn cứ tình hình thực tế ở địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể ủy quyền cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp Giấy chứng nhận đăng ký thành lập hội hoạt động trong phạm vi huyện. Qua đó, có thể thấy rằng, việc phân chia thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký thành lập hội phụ thuộc vào phạm vi hoạt động của hội. Về thẩm quyền công nhận điều lệ hội và người đứng đầu hội, cấp Giấy chứng nhận đăng ký hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hội, đình chỉ hoạt động có thời hạn, giải thể, giải tán hội, Điều 15 Dự thảo Luật về Hội cũng quy định các chủ thể tại Điều 12 có thẩm quyền công nhận điều lệ hội và người đứng đầu hội, cấp Giấy chứng nhận đăng ký hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hội, đình chỉ hoạt động có thời hạn, giải thể, giải tán hội. Riêng đối với Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Hội nhà văn Việt Nam, Hội nhà báo Việt Nam, Hội luật gia Việt Nam và Hội chữ thập đỏ Việt Nam thì do Thủ tướng Chính phủ công nhận điều lệ hội. Theo chúng tôi, quy định này tạo ra sự rườm rà, phức tạp về mặt thẩm quyền quản lý đối với hội. Thiết nghĩ Ban soạn thảo nên chọn một trong hai phương án sau đây:
– Phương án 1: Quy định Bộ trưởng Bộ Nội vụ có thẩm quyền thực hiện các hoạt động trên trong phạm vi cả nước hoặc liên tỉnh mà không quy định riêng cho Thủ tướng Chính phủ quyền công nhận điều lệ của các hội kể trên;
– Phương án 2: Nếu cho rằng việc thành lập các Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Hội nhà văn Việt Nam, Hội nhà báo Việt Nam, Hội luật gia Việt Nam và Hội chữ thập đỏ Việt Nam mang tính chất quan trọng và phức tạp hơn so với các hội thông thường, nên dành thẩm quyền quyết định cho Thủ tướng thì nên quy định Thủ tướng có quyền thực hiện tất cả các quyền quản lý hoạt động của hội chứ không chỉ là quyền công nhận điều lệ của các hội này.
Thứ hai, nhằm thực hiện chức năng chấp hành – điều hành nên hoạt động của hội phải được sự chấp thuận, đồng ý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Dự thảo Luật về Hội nhiều lần nhắc đến việc quản lý hội của các “cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Theo Điều 12 và Điều 15 Dự thảo Luật về Hội lần 7 thì việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký thành lập hội, công nhận điều lệ hội và người đứng đầu hội, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, đình chỉ hoạt động có thời hạn, giải thể, đổi tên hội thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Nội vụ (đối với hội hoạt động trong phạm vi cả nước và liên tỉnh) hoặc của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tùy vào tình hình thực tế ở địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể ủy quyền cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp Giấy chứng nhận đăng ký thành lập hội hoạt động trong phạm vi huyện (đối với hội hoạt động trong phạm vi địa phương). Thậm chí, Điều 15 còn bổ sung thẩm quyền công nhận điều lệ hội của Thủ tướng Chính phủ cho các hội có tính chất đặc thù như đã nêu ở trên.
Mặc dù Dự thảo Luật về Hội nhiều lần đề cập nghĩa vụ báo cáo của hội như báo cáo về việc tổ chức đại hội thành lập hội, báo cáo đại hội nhiệm kỳ, báo cáo tình hình tổ chức và hoạt động hàng năm, tuy nhiên, Dự thảo Luật về Hội lại không quy định cụ thể cơ quan nào có thẩm quyền nhận báo cáo và trả lời bằng văn bản. Điều 12 và Điều 15 Dự thảo Luật về Hội chỉ quy định thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện và Thủ tướng trong việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký thành lập hội, công nhận điều lệ hội và người đứng đầu của hội, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, đình chỉ hoạt động có thời hạn, giải thể, đổi tên hội chứ không quy định thẩm quyền nhận báo cáo và trả lời bằng văn bản. Những mâu thuẫn này không cho phép ta suy luận rằng quyền nhận báo cáo và trả lời bằng văn bản thuộc về Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện nếu được phân cấp hay Thủ tướng Chính phủ. Trong hoạt động quản lý, đặc biệt là các quy định về phân định thẩm quyền, rất cần sự rõ ràng chứ không thể là suy luận bởi chỉ có sự rõ ràng, rành mạch trong việc phân định thẩm quyền thì hoạt động quản lý mới được thực hiện một cách nhịp nhàng, chính xác và đạt hiệu quả. Do đó, để bảo đảm tính thống nhất và tính minh bạch, Dự thảo Luật về Hội cần bổ sung quy định về việc nhận báo cáo và trả lời bằng văn bản vào thẩm quyền của các chủ thể tại Điều 12 và Điều 15 Dự thảo.
Thứ ba, các quy định về chủ thể có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký thành lập hội, công nhận điều lệ hội và người đứng đầu của hội, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, đình chỉ hoạt động có thời hạn, giải thể, đổi tên hội trong Dự thảo Luật chưa thống nhất với nhau giữa các điều luật. Trong khi đó, Điều 12 Dự thảo Luật quy định các cá nhân có thẩm quyền thực hiện cấp Giấy chứng nhận đăng ký thành lập hội là Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện nếu được phân cấp. Để tránh sự lặp lại quy định này, nhiều điều khoản trong Dự thảo Luật quy định theo hướng dẫn chiếu đến Điều 12. Thế nhưng, mỗi điều khoản khi dẫn chiếu lại sử dụng một kiểu khác nhau. Nhiều điều khoản trong Dự thảo Luật về Hội sử dụng cụm từ “cơ quan nhà nước có thẩm quyền” để dẫn chiếu như điểm a, c khoản 2 Điều 11, khoản 4, 5, 6 Điều 14… Trong khi đó, Điều 15 khi quy định về thẩm quyền công nhận điều lệ hội và người đứng đầu hội, cấp Giấy chứng nhận đăng ký hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hội, đình chỉ hoạt động có thời hạn, giải thể, giải tán hội lại sử dụng cụm từ “người có thẩm quyền”. Quy định này dễ tạo ra sự hiểu lầm rằng ngoài Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện nếu được phân cấp hay Thủ tướng Chính phủ còn có các cơ quan nhà nước khác cũng có thẩm quyền thực hiện các hành vi nói trên. Vì vậy, theo chúng tôi, sẽ phù hợp hơn nếu tất cả các điều khoản đều sử dụng cụm từ “người có thẩm quyền” như Điều 15 để dẫn chiếu đến các chủ thể có thẩm quyền tại Điều 12. Theo logic pháp lý thì Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện hay Thủ tướng Chính phủ là các cá nhân chứ không phải cơ quan, tổ chức. Do đó, nhằm đảm bảo sự thống nhất trong tất cả các quy định, Dự thảo Luật về Hội cần sửa đổi các cụm từ “cơ quan nhà nước có thẩm quyền” thành “người có thẩm quyền” khi dẫn chiếu đến các chủ thể có thẩm quyền tại Điều 12.
2.4. Nguyên tắc tự chủ tài chính của hội chưa được bảo đảm
Khoản 5 Điều 8 Dự thảo Luật về Hội quy định: “Hội không liên kết, gia nhập các hội nước ngoài, không nhận tài trợ nước ngoài, trừ trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định”. Khoản 3 Điều 7 của Dự thảo Luật về chính sách của Nhà nước đối với hội quy định khuyến khích cá nhân, tổ chức trong nước hỗ trợ, tài trợ cho hoạt động của hội. Đọc kỹ thêm các điều luật khác trong Chương VI về tài sản, tài chính của Hội có thể thấy Dự thảo Luật về Hội chỉ cho phép hội nhận tài trợ từ các cá nhân, tổ chức trong nước, không cho phép nhận hỗ trợ từ các cá nhân, tổ chức nước ngoài. Trong khi đó, cả sáu Dự thảo Luật về Hội trước đây đều khuyến khích, kêu gọi sự hỗ trợ tài chính của các cá nhân, tổ chức nước ngoài để phục vụ cho hoạt động của hội. Mặc dù khoản 2 Điều 5 Dự thảo Luật về Hội quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hội là tự nguyện, tự chủ, tự quản, tự trang trải kinh phí hoạt động và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật nhưng các quy định về tài chính của hội chỉ cho phép hội nhận tài trợ của cá nhân, tổ chức trong nước. Theo chúng tôi, điều khoản trên là chưa thực sự phù hợp trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Quy định này đang vô hình trung hạn chế việc tạo lập và duy trì nguồn tài chính để phục vụ cho hoạt động của hội bởi các khoản tài trợ từ cá nhân, tổ chức nước ngoài chiếm một phần rất lớn của các hội đang hoạt động. Do đó, chúng tôi kiến nghị Ban soạn thảo cần xem xét một cách kỹ lưỡng quy định này để đảm bảo nguồn tài chính cho hoạt động của hội./.
Xem thêm bài viết “Luật về Hội”
- Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Dự thảo Luật về Hội – TS. Phan Nhật Thanh
- Góp ý về định hướng xây dựng luật về hội và một số vấn đề khác – PGS.TS. Vũ Văn Nhiêm
- Bàn về quyền và nghĩa vụ của hội có đăng ký trong dự thảo Luật về Hội – TS. Lê Minh Hùng
- Địa vị pháp lý của hội trong hoạt động xây dựng pháp luật – TS. Đỗ Minh Khôi
- Quy chế pháp lý về tài chính, tài sản của hội trong Dự thảo Luật về Hội – PGS.TS. Nguyễn Văn Vân
CHÚ THÍCH
[1]* TS, Luật học, Thư ký Tòa soạn Tạp chí Khoa học pháp lý, Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh.
** Giảng viên, Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh.Khoa Luật – Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội, Nguyễn Cửu Việt (chủ biên), Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Hà Nội, 1993, tr. 305.
[2] Nghị định số 45/2010/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2012/NĐ-CP) thay thế cho Nghị định số 88/2003/NĐ-CP. Trước đó, Nghị định số 88/2003/NĐ-CP thay thế cho Nghị định số 258/TTg ngày 14/6/1957 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định chi tiết thi hành Luật số 102/SL/L004 ngày 20/5/1957 về quyền lập hội.
[3] Khoản 1 Điều 2, điểm c khoản 2 Điều 15 Dự thảo lần 1, 2; khoản 1 Điều 2, Điều 35 Dự thảo lần 3; khoản 1 Điều 3, Điều 34 Dự thảo lần 4; khoản 1 Điều 2, khoản 3, 4 Điều 5 Dự thảo lần 5.
[4] Điểm c khoản 2 Điều 11 Dự thảo Luật về Hội quy định: “Trường hợp không cấp Giấy chứng nhận đăng ký thành lập hội thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do”.
[5] Khoản 5 Điều 14 Dự thảo Luật về Hội quy định: “Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định tại khoản 4 Điều này, cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định công nhận điều lệ hội và người đứng đầu hội; trường hợp không công nhận thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do”.
[6] Khoản 6 Điều 18 Dự thảo Luật về Hội quy định: “Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày kết thúc đại hội, ban lãnh đạo hội báo cáo kết quả đại hội với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về các nội dung quy định tại khoản 3 Điều này. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải ra quyết định công nhận điều lệ hội và người đứng đầu hội; trường hợp không đồng ý phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do”.
[7] Điểm a khoản 3 Điều 24 Dự thảo Luật về Hội quy định: “Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận hồ sơ hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hội, cơ quan có thẩm quyền quy định tại Điều 12 của Luật này cấp Giấy chứng nhận đăng ký hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hội; trường hợp không đồng ý thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do”.
- Tác giả: TS. Cao Vũ Minh & ThS. Nguyễn Nhật Khanh
- Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 02(105)/2017 – 2017, Trang 14-19
- Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời