Góp ý về định hướng xây dựng luật về hội và một số vấn đề khác
Tác giả: PGS.TS. Vũ Văn Nhiêm
TÓM TẮT
Dự thảo Luật về Hội là một dự thảo luật quan trọng đang nhận được sự quan tâm, góp ý của các chuyên gia pháp lý cũng như nhiều tổ chức và cá nhân khác. Bài viết phân tích về sự cần thiết ban hành Luật về Hội, đồng thời đưa ra những góp ý cụ thể nhằm hoàn thiện đạo luật này.
Xem thêm bài viết “Luật về Hội”
- Bàn về quyền và nghĩa vụ của hội có đăng ký trong dự thảo Luật về Hội – TS. Lê Minh Hùng
- Địa vị pháp lý của hội trong hoạt động xây dựng pháp luật – TS. Đỗ Minh Khôi
- Quy chế pháp lý về tài chính, tài sản của hội trong Dự thảo Luật về Hội – PGS.TS. Nguyễn Văn Vân
- Bàn về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hội theo Dự thảo Luật về Hội – ThS. Nguyễn Tú Anh
- Chính sách, pháp luật về hội và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu nhằm hoàn thiện Dự thảo Luật về Hội – ThS. Nguyễn Văn Huệ
1. Luật về quyền lập hội là một khoản nợ của Quốc hội với nhân dân
Quyền lập hội là một trong các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta và tiếp tục được khẳng trong các bản Hiến pháp tiếp theo và Hiến pháp hiện hành.[1] Còn nhớ, ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa được thành lập, ngày 22/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 52 về Hội. Đến ngày 20/5/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 102/SL/L004 ban bố (công bố) Luật Quy định quyền lập hội (sau khi được Quốc hội biểu quyết). Đó là chưa nói, Điều 20 Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người năm 1948, Điều 22 Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị năm 1966 đều ghi nhận quyền tự do hiệp hội của cá nhân.[2]
Cần nói thêm rằng lẽ ra, Luật về hội đã được thông qua vào cuối năm 2006 (theo Nghị quyết số 49/2005/QH11). Tuy nhiên, vì một số lý do, dự luật này đã bị hoãn lại. Tiếp theo đó, theo Nghị quyết số 72/2006/QH11 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2007, ngày 17/10 đến 29/11/2006, Quốc hội có thể xem xét Luật này (vì Luật về Hội là một trong 16 luật nằm trong chương trình chuẩn bị) trong năm 2007, nhưng sau đó lại tiếp tục bị hoãn. Từ đó đến nay, sau khoảng 10 năm, qua rất nhiều lần chỉnh sửa, “nâng lên đặt xuống”, dự thảo vẫn tồn tại khá nhiều vấn đề tranh cãi.
Như vậy, trong thời kỳ đầu của nền dân chủ cộng hòa, mặc dù đất nước còn nhiều khó khăn, nhưng quyền lập hội vẫn được chính quyền cách mạng quan tâm đúng mức. Giai đoạn sau này, các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992, 2013 vẫn trịnh trọng ghi nhận công dân có quyền lập hội. Điều này không khó giải thích, vì đó là quyền cơ bản của công dân và của con người. Tuy nhiên, Hiến pháp chỉ là… Hiến pháp, điều quan trọng tiếp theo là cần xây dựng luật về quyền lập hội và tiếp tục tạo dựng cơ chế nhằm hiện thực hóa quyền đó vào cuộc sống. Nói cách khác, luật về quyền lập hội vẫn là một khoản nợ của Quốc hội với nhân dân.
2. Nên xác định rõ tư duy và định hướng xây dựng “Luật về Hội”
2.1. Định hướng chung
Quyền lập hội cũng như các quyền “tự nhiên” khác của con người, không phải do nhà nước tạo ra hay ban tặng, mà ngược lại, bất cứ nền dân chủ nào cũng phải công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền đó. Đến lượt nó, quyền lập hội được thực thi trong một xã hội cụ thể và không thể vượt lên trên xã hội. Nhà nước nào bảo vệ quyền lập hội cho mọi công dân thì mới bảo vệ được các quyền khác, ví dụ như quyền báo chí, quyền biểu tình, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo… Nhà khai sáng vĩ đại Jean Jacques Rousseau từng viết: “người ta sinh ra vốn tự do, nhưng rồi đâu đâu con người cũng sống trong xiềng xích”.[1] Đúng! con người sinh ra bất kể ở đâu, đều có những quyền “tự nhiên”, những quyền “không ai có thể chối cãi được”; bảo vệ các quyền đó là bảo vệ tự do của con người. Nhưng vì con người không sống riêng lẻ, mà sống trong xã hội, nên cái gọi là “xiềng xích” đó, lại thực sự cần thiết đối với xã hội khi nó vừa đủ tôn trọng tự do cho mỗi người, đồng thời đảm bảo quyền tự do ấy không xâm hại tự do của người khác. Nói cách khác, để đảm bảo tự do, xã hội luôn phải có những tổ chức cai quản. Đảm bảo tự do chính là việc phải tổ chức xã hội sao cho quyền tự nhiên ấy không bị xâm phạm và tước đi một cách tùy tiện.
Mặt khác, sức mạnh của một dân tộc có cội nguồn từ những người dân, chứ không phải từ phía chính quyền. Chính quyền có chăng chỉ là sự tập hợp để cộng hưởng các sức mạnh nội sinh riêng rẽ từ mỗi cá nhân và các tổ chức của họ. Như vậy, tự do của con người và xây dựng một xã hội đảm bảo một trật tự, phát huy và giải phóng tiềm lực, khả năng, sức mạnh của mỗi con người là mục đích hướng đến của các nền dân chủ. Người dân ủy thác quyền lực cho chính quyền để thực hiện sứ mệnh đó. Quyền lực của chính quyền phải có giới hạn nhưng nếu một xã hội chỉ muốn thoát khỏi vòng kiềm tỏa của quyền lực chính quyền để hưởng những lợi ích của tự do, thì mục đích sẽ hoàn thành khi chính quyền bị chế ngự. Như thế, đó mới chỉ là một mặt của vấn đề. Mặt còn lại là chính quyền cần tạo ra một cơ chế để giải phóng năng lực xã hội, phát huy tối đa sức mạnh của từng bộ phận xã hội, làm thăng hoa năng lực của mỗi cá nhân. Đây mới là mục đích hướng đến của các nền dân chủ. Vấn đề không chỉ dừng lại ở việc lập hiến, lập pháp mà cần có cơ chế thực thi, bảo đảm. Một điều dễ hiểu là mọi nền dân chủ trên thế giới đều thừa nhận quyền tham gia của người dân vào các hoạt động của nhà nước, xã hội và hầu hết đều định chế nó trong Hiến pháp, nhưng sự khác nhau cơ bản giữa các nước là khoảng cách giữa quy định của pháp luật với thực tiễn thực hiện những quyền đó. Nền dân chủ hiện đại không chỉ là những quy định hay khẩu hiệu chung chung mang tính trừu tượng mà phải là thực tiễn hiện hữu.
“Luật về hội” sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng trong cơ chế thực hiện quyền lực nhân dân. Cùng với ngôn luận, quyền tự do báo chí, quyền hội họp, quyền biểu tình, thì quyền lập hội là những quyền cơ bản của con người, công dân. Tuy nhiên, mỗi cá nhân, nếu chỉ là những cá nhân đơn lẻ thì sự ảnh hưởng, tác động của họ đối với nhà nước và xã hội khó có thể có hiệu quả và họ cũng không thể tự làm chủ xã hội. Thông qua quyền lập hội, các tổ chức xã hội được thành lập và đó là tiếng nói của những người dân được tập hợp lại với nhau để tạo thành một sức mạnh, cùng nhà nước thực hiện những mục tiêu của hệ thống chính trị, để bảo vệ mình, để chống lại những tiêu cực trong xã hội như tham nhũng, quan liêu, hách dịch, cửa quyền. Thông qua quyền này, người dân có thể tự mình giải quyết những công việc mà không cần thông qua nhà nước. Do vậy, dự án luật nhằm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền lập hội cần thể hiện rõ nét cách tiếp cận dựa trên quyền con người, quyền công dân, thể hiện được đúng tinh thần của Hiến pháp năm 2013, khẳng định, ghi nhận tính chủ động của quyền lập hội của công dân (và mọi người) thay vì quá chú trọng đến các quy định về việc quản lý nhà nước đối với các hội. Vì thế, tên gọi của Dự án Luật nên là “Luật về Quyền lập hội”. Nội dung của dự luật cần tập trung ghi nhận quyền lập hội của công dân và mọi người; minh định nội hàm của quyền lập hội; các nguyên tắc bảo đảm và thực thi quyền lập hội; các quyền và nghĩa vụ của công dân trong thực hiện quyền lập hội; trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền lập hội của công dân.
2.2. Tên gọi của Dự thảo luật
Tiến sĩ Hoàng Ngọc Giao, Viện trưởng viện nghiên cứu chính sách pháp luật và phát triển đặt vấn đề: “Chúng ta làm ra luật về hội để làm gì? Để đảm bảo quyền lập hội cho người dân hay làm luật để quản lý, kiểm soát hội, hay cả hai?”.[2] Theo chúng tôi, câu trả lời tất nhiên là cả hai. Không thể xem nhẹ vai trò quản lý của Nhà nước, nhưng cần khẳng định rằng, mục đích đầu tiên và trên hết của đạo luật này tuyệt nhiên không phải để chính quyền “quản lý hội”, cho các tổ chức này vào một cái “hộp”, mà là tạo dựng khuôn khổ pháp lý để bảo đảm quyền lập hội của người dân, phát huy vai trò tích cực của hội viên và hội trong đời sống xã hội. Do đó, nên đặt tên “Luật về Quyền lập hội” thay cho tên “Luật về Hội”. Không chỉ là thuật ngữ, là tên gọi thuần túy, nội dung của luật này cần tư duy theo hướng tạo điều kiện, thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, thúc đẩy quyền lập hội của công dân, chứ không nên theo hướng ngược lại.
2.3. Về cơ chế, chính sách đối với hội, Nhà nước không nên bao cấp, cần để các hội bảo đảm quyền tự chủ, nhất là về tài chính
Về nguyên tắc, cần xác định rõ ràng rằng, các hội hoạt động theo nguyên tắc tự trang trải về kinh phí, tài chính và tự chịu trách nhiệm về hoạt động. Nhà nước không cấp kính phí cho các hội hoạt động vì như vậy sẽ hành chính hóa các tổ chức mang tính xã hội do công dân tự nguyện thành lập. Trong giai đoạn trước mắt, đối với một số hội khi được Nhà nước giao thực hiện một nhiệm vụ của nhà nước và hệ thống chính trị thì có thể được giao kinh phí gắn với nhiệm vụ được giao. Về lâu dài, kinh phí nhà nước không thể bao cấp và nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm, trong đó có tự chủ về tài chính cũng là xu hướng của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Mặt khác, chủ trương này phù hợp với đường lối của Đảng về các hội.[3] Đó là chưa nói, bảo đảm về tự chủ, trong đó có tài chính còn là cơ sở quan trọng cho sự độc lập trong hoạt động của các hội, hạn chế xu hướng “nhà nước hóa” các hội.
2.4. Tránh xu hướng “nhà nước hóa” hay “hành chính hóa” các hội
Luật về hội phải tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền lập hội, phát huy tính tự nguyện, tự quản, tự chịu trách nhiệm. Do vậy, các quy định trong luật này hạn chế theo hướng can thiệp sâu vào hoạt động mang tính nội bộ của các hội. Các hoạt động này nên để điều lệ hội quy định. Nói cách khác, cần tôn trọng tính tự chủ, tự quản của hội tránh xu hướng “hành chính hóa” tổ chức và hoạt động của hội.
3. Một số góp ý cụ thể vào dự án “Luật về Hội”
3.1. Về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng khoản 2 Điều 2
Theo quy định tại khoản 2 Điều 2 của Dự thảo Luật thì luật này không áp dụng đối với “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam”.
Xuất phát từ đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam, Dự án Luật không áp dụng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và 5 tổ chức chính trị – xã hội là hợp lý (trong giai đoạn hiện nay), bởi vì đây là những thiết chế hiến định (được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận), thực hiện nhiệm vụ chính trị (ở các mức độ khác nhau). Mặt khác, các tổ chức này có luật riêng điều chỉnh, như Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015, Luật Công đoàn năm 2012, Luật Thanh niên năm 2005, Pháp lệnh Cựu chiến binh năm 2005.
3.2. Về đối tượng là hội không phải đăng ký (Điều 2)
Đây là vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau: một số ý kiến cho rằng tất cả các hội đều phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước, dù ở bất cứ hình thức nào. Tuy nhiên, nhiều ý kiến đồng tình với quan điểm của cơ quan soạn thảo dự luật – Bộ Nội vụ và Ủy ban Pháp luật của Quốc hội là nên quy định theo hướng hội không đăng ký và hội có đăng ký. Đại diện cơ quan thẩm tra dự luật, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Nguyễn Khắc Định bày tỏ quan điểm: “đăng ký thành lập hội là quyền của một nhóm người, nhóm sáng lập viên. Họ có quyền đăng ký hay không đăng ký. Nhiều hội không đăng ký nhưng vẫn hoạt động rất tốt. Có rất nhiều hội và thực tế cuộc sống không thể bắt họ đăng ký được”.[1] Theo Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Nguyễn Khắc Định, luật tiếp cận dưới giác độ đăng ký thành lập hội là quyền có thể đăng ký hay không. Khi họ không đăng ký vẫn hoạt động hợp pháp. Dù đăng ký hay không, Nhà nước vẫn thừa nhận, vẫn bảo vệ, yêu cầu họ hoạt động theo pháp luật. Những hội không đăng ký thì không thể có tư cách pháp nhân, còn muốn đăng ký thì phải đủ điều kiện pháp nhân.
Chúng tôi đồng ý với quan điểm của Ủy ban pháp luật. Tuy nhiên, để bảo đảm sự quản lý ở mức độ cần thiết của Nhà nước, Dự thảo luật quy định nghĩa vụ của hội không đăng ký là “thông báo bằng văn bản với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có địa chỉ liên lạc về việc thành lập hội, người đại diện theo ủy quyền của các hội viên và khi có sự thay đổi người đại diện hoặc trước khi chấm dứt hoạt động” (khoản 4 Điều 12) và “báo cáo hoạt động hội khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản yêu cầu” (khoản 5 Điều 12) là phù hợp.
3.3. Về áp dụng pháp luật về hội trong trường hợp tổ chức, hoạt động và quản lý hội quy định tại luật chuyên ngành có quy định khác với quy định chung về hội (khoản 3 Điều 2)
Về mặt nguyên tắc, Luật về Hội là luật chung áp dụng cho việc thành lập, hoạt động của hội. Tuy nhiên, cần phải có quy định nhằm giải quyết trường hợp luật khác không quy định hoặc quy định không phù hợp với nguyên tắc của luật này. Trong trường hợp, nếu luật khác không quy định về thành lập và hoạt động hội thì áp dụng quy định của luật này. Trường hợp luật khác có quy định nhưng trái với nguyên tắc của luật này thì phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Các luật có liên quan đến thành lập hội được ban hành sau ngày luật này có hiệu lực phải bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc của luật này.
Khoản 3 Điều 2 Dự luật có quy định: “trường hợp luật khác có quy định liên quan đến tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước về hội khác với quy định của Luật này thì thực hiện theo quy định của Luật này; đối với tổ chức hội của luật sư, công chứng viên thì thực hiện theo quy định của Luật luật sư, Luật công chứng”.
Chúng tôi đồng ý với vế thứ nhất “trường hợp luật khác có quy định liên quan đến tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước về hội khác với quy định của Luật này thì thực hiện theo quy định của Luật này”, nhưng không đồng ý với vế thứ hai “đối với tổ chức hội của luật sư, công chứng viên thì thực hiện theo quy định của Luật luật sư, Luật công chứng”,[2] vì giải quyết theo hướng như vậy sẽ đến đến rối loạn về định hướng lập pháp và sẽ gây nhiều khó khăn, phiền toái trong việc áp dụng.
3.4. Về chủ thể của quyền lập hội
Hiến pháp năm 2013 ghi nhận quyền lập hội của công dân, do đó, công dân Việt Nam là chủ thể của quyền này. Đối với người nước ngoài có phải là chủ thể của quyền lập hội hay không thì vẫn còn là vấn đề cần bàn luận. Có quan điểm cho rằng, Hiến pháp năm 2013 chỉ ghi nhận quyền lập hội của công dân, do đó, Dự án Luật này chỉ có thể điều chỉnh đối với quyền lập hội của công dân Việt Nam. Chúng tôi cho rằng nên cho phép người nước ngoài hoặc người không quốc tịch đang sinh sống và làm việc hợp pháp tại Việt Nam được tham gia hội trong một số trường hợp cụ thể nhằm bảo đảm việc triển khai thực hiện Công ước về Quyền con người mà nhà nước ta đã tham gia và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế trong tình hình hiện nay. Vấn đề là cần làm rõ người nước ngoài được tham gia hội của công dân Việt Nam hay chỉ tham gia hội của người nước ngoài được thành lập tại Việt Nam hoặc hội được thành lập ở nước ngoài và được phép hoạt động tại Việt Nam./.
Xem thêm bài viết “Luật về Hội”
- Bàn về quyền và nghĩa vụ của hội có đăng ký trong dự thảo Luật về Hội – TS. Lê Minh Hùng
- Địa vị pháp lý của hội trong hoạt động xây dựng pháp luật – TS. Đỗ Minh Khôi
- Quy chế pháp lý về tài chính, tài sản của hội trong Dự thảo Luật về Hội – PGS.TS. Nguyễn Văn Vân
- Bàn về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hội theo Dự thảo Luật về Hội – ThS. Nguyễn Tú Anh
- Chính sách, pháp luật về hội và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu nhằm hoàn thiện Dự thảo Luật về Hội – ThS. Nguyễn Văn Huệ
CHÚ THÍCH
[1]* PGS.TS, Trưởng Khoa Luật Hành chính – Nhà nước, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.Điều 10 Hiến pháp năm 1946 quy định: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận; Tự do xuất bản; Tự do tổ chức và hội họp; Tự do tín ngưỡng; Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Điều 25 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình. Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó”. Điều 67 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Công dân có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do biểu tình, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân. Nhà nước tạo điều kiện vật chất cần thiết để công dân sử dụng các quyền đó. Không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước và của nhân dân”. Điều 69 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.
[2] Việt Nam đã gia nhập Công ước về các Quyền dân sự và chính trị năm 1966.
[3] Jean Jacques Rousseau, Bàn về khế ước xã hội, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1992, tr. 29. (Bản dịch của Hoàng Thanh Đạm).
[4] Thanh niên online, “Không quản lý theo kiểu triệt tiêu quyền lập hội”, ngày 08/09/2016 (truy cập http://thanhnien.vn/thoi-su/khong-quan-ly-theo-kieu-triet-tieu-quyen-lap-hoi-742395.html ngày 2/10/2016.)
[5] Kết luận số 102-KL/TW ngày 22/9/2014, Bộ Chính trị cũng chủ trương các hội hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự quản, tự trang trải kinh phí hoạt động
[6] Báo điện tử Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, “Quốc hội thảo luận dự án Luật về hội”. ngày 25/10/2016 (truy cập http://baochinhphu.vn/Tin-noi-bat/Quoc-hoi-thao-luan-du-an-Luat-ve-hoi/289793.vgp ngày 1/11/2016).
[7] Vấn đề này, Ủy ban pháp luật giải trình: theo Điều 3 của Dự thảo Luật “Hội là tổ chức có tư cách pháp nhân được hình thành do sự tự nguyện của công dân, pháp nhân Việt Nam”. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đối với những tổ chức xã hội – nghề nghiệp thì việc tham gia không dựa trên cơ sở tự nguyện mà là nghĩa vụ bắt buộc, có như vậy hội viên mới được hành nghề như luật sư, công chứng. Ngoài ra, cơ cấu tổ chức, thẩm quyền phê duyệt điều lệ của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư cũng khác với Dự thảo Luật. Đối với tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên thì do Chính phủ quy định chi tiết việc thành lập, cơ cấu tổ chức cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức này. Do đó, quy định tại Điều 6 của Dự thảo Luật là nhằm giải quyết sự khác nhau giữa Luật về hội với Luật Luật sư và Luật Công chứng.
Về nội dung Điều 6 của Dự thảo Luật, một số ý kiến Ủy ban pháp luật cho rằng không khả thi, vì theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 thì việc xác định luật khác có quy định riêng về hội vi phạm (hoặc không vi phạm) quy định tại Điều 4 và Điều 7 của Luật này là thuộc thẩm quyền của Quốc hội và để đi đến xác định có vi phạm hay không phải trải qua một thủ tục phức tạp và mất nhiều thời gian trước khi Quốc hội quyết định. Mặt khác, quy định tại Điều 6 của Dự thảo Luật là trái với quy định tại khoản 2 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 là “trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau”. Vì vậy, Ủy ban pháp luật đề nghị, cần làm rõ các tổ chức xã hội – nghề nghiệp như Đoàn luật sư, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Hội công chứng viên, Hiệp hội công chứng viên Việt Nam có thuộc phạm vi điều chỉnh của luật này hay không? Trường hợp Luật về Hội có điều chỉnh các tổ chức này thì đề nghị bổ sung.
- Tác giả: PGS.TS. Vũ Văn Nhiêm
- Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 02(105)/2017 – 2017, Trang 3-7
- Nguồn: Fanpage Luật sư Online
Trả lời