• Trang chủ
  • Hiến pháp
  • Hình sự
  • Dân sự
  • Hành chính
  • Hôn nhân gia đình
  • Lao động
  • Thương mại

Luật sư Online

Tư vấn Pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, ly hôn, thừa kế, đất đai

  • Kiến thức chung
    • Học thuyết kinh tế
    • Lịch sử NN&PL
  • Cạnh tranh
  • Quốc tế
  • Thuế
  • Ngân hàng
  • Đất đai
  • Ngành Luật khác
    • Đầu tư
    • Môi trường
 Trang chủ » Giải thích pháp luật tại một số nước theo hệ thống pháp luật Civil Law kiểu Đức ở Châu Âu: Nhìn từ việc sử dụng các thuật ngữ Latinh

Giải thích pháp luật tại một số nước theo hệ thống pháp luật Civil Law kiểu Đức ở Châu Âu: Nhìn từ việc sử dụng các thuật ngữ Latinh

08/01/2021 18/04/2021 TS. Nguyễn Ngọc Kiện & ThS. Lê Nguyễn Gia Thiện Leave a Comment

Mục lục

  • Tóm tắt:
  • 1. Tính bất khả vẹn toàn của pháp luật và khả năng giải thích pháp luật
    • 1.1. Các luật gia theo học thuyết bất khả khiểm khuyết
    • 1.2. Các luật gia theo học thuyết bất khả vẹn toàn thì hoàn toàn khác
  • 2. Một số nguyên tắc của giải thích pháp luật
    • 2.1. Tính tương hỗ giữa giải thích pháp luật và luật thực định
    • 2.2. Giải thích pháp luật trong trường hợp còn hồ nghi
  • 3. Phương thức giải thích pháp luật
    • 3.1. Thành tố ngữ pháp (grammatical element)
    • 3.2. Thành tố mục đích luận (teleogical element)
    • 3.3. Thành tố lịch sử (historical element)

Giải thích pháp luật tại một số nước theo hệ thống pháp luật Civil Law kiểu đức ở Châu Âu: Nhìn từ việc sử dụng các thuật ngữ Latinh

Tóm tắt:

Giải thích pháp luật đóng vai trò quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn bởi giải thích pháp luật và áp dụng pháp luật là hai vấn đề luôn tương hỗ và không thể tách rời nhau. Trong phạm vi bài viết, vấn đề giải thích pháp luật được phân tích dựa trên tinh thần của các thuật ngữ Latin, vốn dã được hình thành từ trong lòng nền pháp chế La Mã và dược kế thừa tại các nước Civil law kiểu Đức tại Châu Âu. Đồng thời bài viết cũng đề xuất một phương thức giải thích pháp luật mang tính đa diện được sử dụng rất phổ biến tại các nước theo hệ thống pháp luật civil law kiểu Đức.

Xem thêm:

  • Giải thích pháp luật là gì? Phân biệt giải thích pháp luật chính thức với giải thích pháp luật không chính thức? – CTV. Linh Trang
  • Bàn về phương pháp giải thích pháp luật – ThS. Phạm Thị Phương Thảo
  • Một niềm tin, bốn triển vọng và năm thách thức trong tiến trình thừa nhận quyền giải thích pháp luật của Tòa án – TS. Cao Vũ Minh
  • Một số vấn đề lý luận về giải thích pháp luật – TS. Tô Văn Hòa
  • Thẩm quyền giải thích pháp luật: Cơ sở lý luận, thực tiễn và giải pháp – ThS. Huỳnh Thị Sinh Hiền
  • Mối quan hệ giữa hành pháp với các cơ quan khác ở trung ương ở Đức và gợi mở kinh nghiệm cho Việt Nam – TS. Nguyễn Minh Tuấn
  • So sánh một số quy định về hòa giải trong lĩnh vực tư pháp hình sự của Cộng hòa liên bang Đức và Việt Nam – ThS. Nguyễn Sơn Phước
  • Pháp luật quốc tế, châu âu về hòa giải trong lĩnh vực hình sự và kinh nghiệm cho Việt Nam – TS. Lê Huỳnh Tấn Duy

Các nước Civil law kiểu Đức quan niệm rằng giải thích pháp luật có liên quan mật thiết đến tính bất khả vẹn toàn của pháp luật. Bởi nếu pháp luật hoàn thiện và không có bất kỳ một sai sót nào thì cơ quan áp dụng pháp luật sẽ áp dụng trực tiếp mà không cần giải thích. Ngược lại, nếu thừa nhận pháp luật có khiếm khuyết, nói khác đi là mang tính bất khả vẹn toàn, thì pháp luật khi được áp dụng cần phải được giải thích. Giải thích pháp luật rõ ràng là không thể tách rời khỏi văn bản pháp luật. Hơn nữa, giải thích pháp luật phải được tiếp cận dưới cả hai góc độ là nội hàm và ngoại diễn của điều khoản cần giải thích. Điều này cũng có nghĩa rằng cơ quan giải thích pháp luật phải tìm hiểu và giải thích cho được cả nội dung và hình thức của cầu từ, đồng thời nắm bắt được các ý nghĩa và mục đích của văn bản. Ngoài ra, khi giải thích pháp luật, cơ quan giải thích cần phải sử dụng một biện pháp mang tính đa diện, kết hợp hài hòa giữa các thành tố: Ngữ pháp, mục đích luận và lịch sử.

Giải thích pháp luật tại một số nước theo hệ thống pháp luật Civil Law kiểu đức ở Châu Âu: Nhìn từ việc sử dụng các thuật ngữ latinh

Xem thêm tài liệu liên quan:

  • Giải thích pháp luật là gì? Phân biệt giải thích pháp luật chính thức với giải thích pháp luật không chính thức?
  • So sánh một số quy định về hòa giải trong lĩnh vực tư pháp hình sự của Cộng hòa liên bang Đức và Việt Nam
  • Quan điểm của Tòa án công lý Châu Âu ngày 16/5/2017 về Hiệp định thương mại tự do giữa liên minh Châu Âu và Singapore: Nội dung chính và các tác động
  • Nguyên tắc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại đối với nhãn hiệu hàng hóa Liên minh Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
  • Thẩm quyền giải thích pháp luật: Cơ sở lý luận, thực tiễn và giải pháp
  • Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương trong giai đoạn hiện nay – Bài học từ nghiên cứu lịch sử và so sánh kinh nghiệm một số quốc gia Châu Âu
  • Một niềm tin, bốn triển vọng và năm thách thức trong tiến trình thừa nhận quyền giải thích pháp luật của Tòa án
  • Một số vấn đề lý luận về giải thích pháp luật
  • Pháp luật quốc tế, Châu Âu về hòa giải trong lĩnh vực hình sự và kinh nghiệm cho Việt Nam
  • Bàn về vấn đề tự do chọn luật áp dụng điều chỉnh quan hệ trách nhiệm ngoài hợp đồng trong pháp luật Liên minh Châu Âu

1. Tính bất khả vẹn toàn của pháp luật và khả năng giải thích pháp luật

Trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử pháp luật thế giới, bất kể pháp luật được hình thành từ nguồn nào (lẽ công bằng, khế ước hay do nhà nước ban hành), pháp luật đều được xem xét dưới lăng kính của tính bất khả vẹn toàn. Tại các nước civil law kiểu Đức, tồn tại hai học thuyết hoàn toàn trái ngược nhau, học thuyết thứ nhất xem pháp luật là toàn mỹ và hoàn thiện (học thuyết bất khả khiếm khuyết), ngược lại, học thuyết thứ hai cho rằng nội tại của pháp luật luôn chứa đựng những yếu tố khiếm khuyết học thuyết bất khả vẹn toàn). Sự khác biệt một cách căn bản về mặt quan niệm giữa hai học thuyết này ảnh hưởng đến việc pháp luật có khả năng được giải thích hay không.

1.1. Các luật gia theo học thuyết bất khả khiểm khuyết

Tiêu biểu là Carl von Savigny, tin tưởng rằng pháp luật là toàn vẹn và không thể có một sự khiếm khuyết nào. Bởi vì pháp luật sự luật hóa ý chí và nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Tiến trình luật hóa này vô cùng phức tạp, từ việc các nhà làm luật phải ghi nhận các ước vọng của nhân dân, rồi hoạch định và dự liệu các ước vọng này thành một dự thảo luật (dự luật). Dự luật này sau khi được hình thành phải được đem ra bàn bạc, chỉnh sửa, thêm bót các điều khoản để cho phù hợp với từng điều kiện và hoàn cảnh nhất định. Cuối cùng, chính những người đại diện cho quyền lợi và ý chí của nhân dân (đại biểu quốc hội/dân biểu/nghị sỹ) sẽ là những người bỏ phiếu để thông qua dự luật. Chính vì quy trình tạo ra luật chặt chẽ và thể hiện ý chí của người dân từ bước khởi thảo cho đến bước thông qua như vậy, nên trên thực tế luật sẽ không thể nào có khiếm khuyết được.

Chính vì tính toàn vẹn và chuẩn mực của pháp luật như vậy nên vấn đề giải thích pháp luật sẽ không được đặt ra, vì sự giải thích một văn bản đã toàn vẹn và chuẩn mực là điều không những không cần thiết mà còn có khả năng gây ra những tác động xấu đến pháp luật, như tinh thần của thuật ngữ Latin Maledicta expositioquae corrumpit textum (sự giải thích sai lầm làm hỏng tinh thần của văn bản).

1.2. Các luật gia theo học thuyết bất khả vẹn toàn thì hoàn toàn khác

Những luật gia này cho rằng pháp luật, về cơ bản, là không thể vẹn toàn được. Bởi vì mặc dù luật thể hiện và hiện thực hóa ý chí của nhân dân. Nhưng, từ những ý niệm cơ bản và sơ khởi ban đầu trong nhận thức của nhân dân đến việc hình thành và thông qua một dự luật cụ thể, chi tiết phải đi qua rất nhiều công đoạn. Số lượng công đoạn càng nhiều thì sự khác biệt giữa ý định của nhà lập pháp (ratio legis) và việc diễn tả ý định này thông qua các từ ngữ pháp lý (wordings) càng cao, vì sở dĩ câu từ không thể nào diễn tả được hết ý). Thêm nữa, luật với tư cách là văn bản mang tính quy phạm chỉ có thể dự liệu và hạn định trong một số trường hợp nhất định, không thể và cũng không nên quy định quá chi tiết về từng vấn đề nhỏ trong nội dung văn bản pháp luật. Ví dụ, khi văn luật đề cập đến các thuật ngữ như “important cause” (nguyên nhân quan trọng), “inadequateness” (không rõ ràng), “reasonableness” (hợp lý), “morality” (đạo đức), “good faith” (thiện chí)… thì việc áp dụng trên thực tế sẽ thực sự khó khăn vì chúng đều là các từ định tính, chứ không phải định lượng.

Chính vì tính không thể vẹn toàn của pháp luật, nên pháp luật luôn luôn mang theo mình những “sự khiếm khuyết” (legal gaps) nhất định. Văn bản luật càng nhiều điều khoản, càng chứa đựng nhiều chế định, càng điều chỉnh nhiều quan hệ pháp luật thì sự khiếm khuyết càng cao. Học thuyết về tính khiếm khuyết của pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng, vì một mặt học thuyết này phủ định hoàn toàn thuyết bất khả khiếm khuyết như phần trên trình bày, mặt khác gợi mở và đưa ra giải pháp hợp lý và xác đáng, đó là vấn đề “giải thích pháp luật” (legal interpretation). Chỉ sự giải thích và làm sáng tỏ những sự khiếm khuyết, thiếu sót của luật mới giúp văn bản luật thực sự phát huy được hết hiệu quả điều chỉnh của mình. Sự giải thích này không phải được tiến hành bởi bất cứ chủ thể nào, mà phải được thực hiện một cách chính thức thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phù hợp. Vậy, giải thích pháp luật là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm sáng tỏ tinh thần và ý nghĩa của văn bản luật căn cứ vào câu từ của văn bản đó, qua đó cơ quan giải thích đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục và hoàn thiện những khiếm khuyết của pháp luật). Việc khắc phục những khiếm khuyến này cũng đã góp phần tu chỉnh luật và kết quả là nền pháp chế có những quy định luật mới, mang tính phái sinh, phát xuất trên nền tảng là các từ ngữ trong một văn bản nhất định trước đó.

2. Một số nguyên tắc của giải thích pháp luật

2.1. Tính tương hỗ giữa giải thích pháp luật và luật thực định

Luật thực định của các nước châu  u, mà nhất là các nước civil law kiểu Đức như Đức, Áo, Thụy Sỹ và Bồ Đào Nha chỉ ra rằng pháp luật hoặc giải thích pháp luật sẽ trả lời cho tất cả các câu hỏi pháp lý phát sinh từ một điều khoản nào đó. Tuy nhiên, theo nhiều tác giả, thì chữ “hoặc” phải hiểu là “và” vì chữ “hoặc” không phù hợp về mặt ngữ pháp và không thể tách bạch giữa việc áp dụng pháp luật với giải thích pháp luật. Hai nhân tố này dựa trên mối quan hệ cộng sinh, tương hỗ và không thể tách rời nhau (“symbiotic relationship”).

Chúng tôi chia sẻ với nhận định này vì một số lý do như sau:

(i) Theo nguyên tắc hình thành dựa trên tính tối thượng của văn bản (decisiveness of clear wordings), nếu văn bản luật đã rõ ràng rồi thì không cần giải thích nữa. Văn bản luật mang những từ ngữ rõ ràng sẽ được áp dụng một cách trực tiếp mà không cần phải thông qua việc giải thích bất cứ điều gì, vì tính rõ ràng và không mập mờ của văn bản sẽ có hiệu lực ràng buộc các chủ thể (clear and unambiguous legal wording), kể cả cơ quan áp dụng pháp luật và các đương sự trong mối quan hệ được pháp luật điều chỉnh.

(ii) Nếu từ ngữ của văn bản luật đã minh bạch thì việc giải thích pháp luật rõ ràng là không cần thiết vì việc giải thích không những không làm từ ngữ của luật rõ ràng hơn, mà trái lại, nếu giải thích sai lầm và phiến diện sẽ phá hủy hay thậm chí là “ăn mòn” văn bản (như cách diễn đạt của thuật ngữ Latin Viperina est exposition, quae corrodit viscera textus).

(iii) Việc giải thích pháp luật phải căn cứ vào nền tảng là luật thực định, phải giải thích câu từ theo nghĩa hẹp và sát nhất, như tinh thần của thuật ngữ Statuta sunt stricte interpretanda). Việc càng mở rộng nội hàm chứa đựng trong câu từ của luật, thông qua việc giải thích, sẽ càng đi xa tinh thần cơ bản và nhiệm vụ chính yếu của luật khi được thiết lập, điều này mang lại nhiều rủi ro pháp lý hơn cho cả cơ quan áp dụng pháp luật và các đương sự.

2.2. Giải thích pháp luật trong trường hợp còn hồ nghi

Khi giải thích pháp luật, không phải lúc nào cơ quan giải thích cũng đối mặt với sự hiện diện của các điều khoản trong văn bản luật. Nhiều khi, cơ quan giải thích phải giải thích pháp luật trong tình huống còn hồ nghi. Tình huống hồ nghi này sẽ gây ra ít nhiều khó khăn cho cơ quan áp dụng pháp luật vì cơ quan này phải đưa ra phán quyết căn cứ vào những sự nghi ngờ, bất hợp lý. Trong những tình huống như vậy, cơ quan giải thích có thể đưa ra phán quyết thông qua việc giải thích pháp luật được thiết lập bởi quan niệm của một số thuật ngữ Latin như sau:

(i) Nguyễn tắc chung của luật La Mã áp dụng cho cả luật và giải thích pháp luật là Favores ampliandi, odia restringenda (mở rộng ân huệ, hạn chế bất lợi). Nghĩa là, luật ban hành nhằm để tăng cường và mở rộng các quyền lợi, cũng như hạn chế những bất lợi, chế tài mà các chủ thể chịu sự quy định của pháp luật gặp phải. Khi áp dụng vào việc giải thích pháp luật, các luật gia La Mã có quan niệm cụ thể hơn là Dubia in meliorem partem interpretari debentº (pháp luật phải được giải thích theo hướng tốt nhất). Quan niệm này nói rằng hướng tốt nhất mà cơ quan giải thích có thể áp dụng khi giải thích pháp luật trong tình trạng còn hồ nghi chính là “giải thích theo hướng có lợi nhất cho chủ thể bị điều luật tác động”. Quan niệm này được củng cố bởi một thuật ngữ khác là Verba accipienda sunt secundum subjectam materiam (từ ngữ phải được giải thích theo chủ thể). Quan niệm, hay nói khác đi là nguyên tắc này vừa mang tính nhân đạo, thể hiện tinh thần bảo vệ các quyền tài sản và nhân thân của đương sự, vừa mang tính hợp lý. Bởi lẽ luật được lập ra, dù là trong địa hạt dân sự, cũng đã hạn chế một phần nào đó các quyền cơ bản của chủ thể, vốn được điều chỉnh bởi luật tự nhiên. Hơn nữa, khi luật còn có điểm hồ nghi, tính “có lợi (hay ân huệ)” (favor) mà cơ quan áp dụng pháp luật dành cho các đương sự mang tính chủ quan của cơ quan áp dụng, vì vậy nếu không tuân thủ nguyên tắc này, cơ quan áp dụng pháp luật dễ áp đặt những bất lợi cho các đương sự khi giải thích pháp luật.

(ii) In dubio semper id, quod minus est, deletur (khi còn hồ nghi thi áp dụng nghĩa vụ nhẹ hơn). Có thể thấy rằng, nguyên tắc này là nguyên tắc phái sinh từ chính nguyên tắc ở trên. Nếu như nguyên tắc Dubia in meliorem partem interpretari debent là quan niệm được áp dụng chung cho tất cả các khía cạnh pháp lý của chủ thể, thì nguyên tắc In dubio semper id, quod minus est, debetur là sự cụ thể hóa và chỉ giới hạn trong vấn đề nghĩa vụ. Theo đó, nếu một chủ thể có nghĩa vụ, nhưng vẫn còn hồ nghi, thì sẽ được cơ quan giải thích áp dụng theo hướng nhẹ hơn. Ví dụ: trong một hợp đồng mua bán hàng hóa, bên bán hàng đã vận chuyển hàng đến kho của bên mua, nhưng giữa đường xảy ra các tình huống bất khả kháng (thiên tai, địch hoạn…) (force majeure) thì những tình huống bất khả kháng này phải được cơ quan giải thích áp dụng một cách tối đa để giảm thiểu nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và/hoặc phạt vi phạm của bên bán, nếu bên bán chứng minh được những tình huống bất khả kháng này.

(iii) Khi đối mặt với những ngoại lệ, những vấn đề cá biệt thì cơ quan giải thích pháp luật chỉ áp dụng những giải thích này cho chính vấn đề cá biệt đó, chứ không được phép mở rộng sang những vấn đề khác như tinh thần của thuật ngữ Expressio specialis omnem impedit extensionem. Thuật ngữ này có mối liên hệ hết sức mật thiết với một tục dao khác là Indusio unius est exclusio alterius (quy định cho việc này thì không mở rộng sang những việc khác)2). Một vấn đề pháp lý đã gọi là cá biệt được luật định thì vôn dĩ chỉ có thể áp dụng ở mức độ hạn hữu đối với chính vấn đề đó, việc mở rộng sang những vấn đề khác không những là bất hợp lý mà còn mang lại nhiều rủi ro pháp lý. Khi áp dụng vào việc giải thích pháp luật, vấn đề này càng phải được cơ quan giải thích chú ý hơn nữa, vì việc giải thích trước hết là phải xuất phát từ chính tinh thần của luật, sau đến là phải chiếu cố đến trạng thái đặc thù của từng vấn đề cần giải thích. Ví dụ: luật quy định rằng bên bán hàng được miễn hoặc giảm nghĩa vụ bồi thường thiệt hại hoặc phạt vi phạm nếu xảy ra tình huống bất khả kháng, tuy nhiên việc giải thích mức độ thực hiện nghĩa bồi thường thiệt hại của bên bán không thể được áp dụng cho nghĩa vụ phạt vi phạm, vì hai loại nghĩa vụ này về bản chất là khác nhau hoàn toàn, mặc dù cùng chịu tác động của tình huống bất khả kháng.

3. Phương thức giải thích pháp luật

Như phần trên đã trình bày, việc giải thích pháp luật của cơ quan giải thích không thể tách rời khỏi nội hàm của văn bản cần được giải thích, cả về mặt nội hàm và ngoại diễn (nghĩa là cả về mặt câu từ cũng như là ý nghĩa nội tại của văn bản). Tuy vậy, khi giải thích, vì lý do cơ quan giải thích thực hiện hành vi của mình thông qua những con người cụ thể, nên không thể tránh khỏi việc giải thích pháp luật sẽ chịu sự tác động và ảnh hưởng của các tác nhân mang tính ngoại lai như: tính thất THƯỜNG (arbitrariness), tính tùy tiện (spontaneity) và cảm xúc (feeling)”). Chính vì thế, các luật gia tại các nước civil law kiểu Đức đề xuất một phương thức mang tính đa diện (pluralistic method) bao hàm một số thành tố để giúp cho cơ quan giải thích pháp luật có thể tránh được sự tác động của các tác nhân ngoại lai nhưng lại ảnh hưởng rất lớn đến việc giải thích pháp luật như vừa nêu. Các thành tố này không thể tách rời nhau, vì chúng tạo nên tính tổng thể của một phương thức giải thích thống nhất. Các thành tố này sắp theo mức độ từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, cũng như sự ưu tiên áp dụng căn cứ vào tiến trình giải thích pháp luật, bao gồm):

3.1. Thành tố ngữ pháp (grammatical element)

Thành tố này đòi hỏi việc giải thích pháp luật phải được dựa trên cách thức sử dụng từ ngữ và bố cục ngữ pháp, nghĩa là đi tìm cái ngoại diễn, của điều khoản luật cần giải thích. Thành tố này bao gồm các yếu tố tiên quyết như cấu trúc từ ngữ (structure of wordings) và cấu trúc câu (structure of sentence). Trước hết, cơ quan giải thích phải chú trọng vào từ ngữ, nếu vấn đề cần giải thích thuộc địa hạt của pháp luật về hợp đồng (contract) thì các danh từ cần phải cân nhắc là bên có nghĩa vụ (debtor), bên có quyền (creditor), phạt vi phạm (contractual penalty), nghĩa vụ liên đới (joint obligation)… Việc sử dụng từ ngữ nằm trong một điều khoản nhất định phải được xem xét và giải thích trong mối quan hệ với việc sử dụng chính từ ngữ đó không chỉ trong một điều khoản khác, mà còn trong cả chế định, cả văn bản luật chứa đựng điều khoản đó. Giải thích từ ngữ không thể tách rời khỏi việc giải thích cấu trúc ngữ pháp của câu văn và của cả đoạn văn nằm trong điều luật. Nếu câu văn dùng thì quá khứ, nghĩa là một sự kiện hay hành vi pháp lý đã diễn ra rồi thì cơ quan giải thích không thể quan niệm rằng hành vi hay sự kiện sẽ diễn ra mới cấu thành quyền và nghĩa vụ của các bên. Hơn nữa, khi điều khoản chứa nhiều đoạn văn thì phải xem xét các đoạn văn thật kỹ càng, theo trình tự từ trên xuống dưới và không được bỏ sót bất kỳ câu từ nào, vì tính liên kết (coherence) giữa các đoạn văn trong cùng một điều luật nói lên sự ăn khớp và ràng buộc lẫn nhau giữa các ý, do đó không thể giải thích pháp luật mà bỏ qua sự gắn kết này.

3.2. Thành tố mục đích luận (teleogical element)

Nếu đã căn cứ vào từ ngữ và ngữ pháp của điều khoản mà chưa thể giải thích được, cơ quan giải thích cần phải đi đến một bước cao hơn là xét xem tính mục đích luận (Teleology) của điều khoản là gì. Khác với gramatisches Element, vốn hướng vào tính ngoại diễn của các điều khoản, thành tố mục đích luật không còn nằm trong bản thân của câu từ nữa, nó thuộc về phạm trù nội hàm, do đó thành tố này chứa đựng yếu tố tinh thần (spirit), ý nghĩa (meanning) hay thậm chí là tính mục đích luận của điều khoản. Tinh thần hay ý nghĩa của một điều khoản thể hiện việc điều khoản này chứa đựng những thực thể tinh thần nào, những thực thể tinh thần đó tác động, ảnh hưởng và phản ánh lẫn nhau ra sao). Phương pháp này trên thực tế thực sự rất hiệu quả, vì như đã trình bày, từ ngữ không thể diễn đạt hết tất cả ý của nhà làm luật, nhưng tinh thần và ý nghĩa của nhà làm luật luôn luôn có thể nhận biết được. Nếu tinh thần và ý nghĩa của văn bản còn mù mờ, cơ quan giải thích có thể dựa vào cứu cánh là tính mục đích luận của điều khoản. Tính mục đích luận sẽ cung cấp cho cơ quan giải thích các câu hỏi góp phần vào việc giải thích pháp luật như: Điều khoản được ban hành để làm gì? Nếu không có điều khoản thì vấn đề pháp lý có được giải quyết hay không? Tại sao điều khoản lại quy định như vậy? Chủ thể hoặc/và khách thể nào có thể bị tác động bởi điều khoản? Việc tác động có mục đích gì và tại sao lại như vậy?… Việc trả lời một cách rành mạch, rốt ráo những câu hỏi này sẽ giúp ích rất nhiều cho cơ quan giải thích trong việc đưa ra các quyết định của mình, thông qua việc giải thích một điều khoản mà việc xem xét câu từ là chưa đủ.

3.3. Thành tố lịch sử (historical element)

Điều trước hết cần phải khẳng định là thành tố lịch sử (historical element) với tư cách là một bộ phận của phương thức giải thích pháp luật đa diện không nên bị nhầm lẫn với Phương pháp lịch sử (historical method). Phương pháp lịch sử trong lĩnh vực luật học được xây dựng dựa trên việc so sánh, đánh giá, bình luận các vấn đề cần nghiên cứu dưới lăng kính so sánh giữa luật hiện tại và luật trong quá khứ, qua đó có thể nêu lên tiến trình thay đổi (bao hàm cả phát triển và suy thoái) của chế định cần nghiên cứu. Khi thực hiện phương pháp lịch sử này, người nghiên cứu cùng lúc đóng hai vai trò là luật gia và sử gia vì phải sử dụng song hành các phương pháp thuộc chuyên ngành luật học cũng như chuyên ngành lịch sử. Phương pháp này đặc biệt quan trọng khi vấn đề cần nghiên cứu là một chế định thuộc chuyên ngành về lịch sử nhà nước và pháp luật, cũng như bất cứ chuyên ngành nào khác khi cần phải xem xét đến sự tiến triển của một vấn đề nhất định nào đó.

Ngược lại, thành tố lịch sử chỉ là một thành tố nằm trong phương pháp giải thích mang tính đa diện, bản thân thành tố này không thể là một phương pháp riêng biệt vì phải chịu sự tác động và điều chỉnh của các thành tố khác. Thành tố lịch sử đóng góp vào việc giải thích pháp luật thông qua việc căn cứ vào ý chí của nhà làm luật tại thời điểm ban hành văn bản luật. Thành tố này được phát triển trên tinh thần của các tục dao Latin Quilibet verborum suorum optimus interpres (người giải thích từ ngữ tốt nhất chính là người viết) và Contemporanea exposition est optima (hoàn cảnh đương thời là tối thượng). Hoàn cảnh ban hành và tồn tại của luật có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc giải thích pháp luật vì nếu cơ quan giải thích muốn giải thích đúng tinh thần của văn bản luật, cơ quan này không thể căn cứ vào các điều kiện kinh tế – xã hội đương thoi, mà trái lại phải đặt việc giải thích luật vào bối cảnh phù hợp với sự hình thành và tồn tại của văn bản luật. Có thể thấy rằng, thành tố lịch sử là sự kết hợp hài hòa giữa thành tố ngữ pháp và thành tố mục đích luận, khi thành tố này vừa căn cứ vào câu chữ của điều khoản luật vừa căn cứ vào mục đích, ý chí của nhà làm luật. Mặt khác, thành tố lịch sử cũng nêu lên mối quan hệ giữa nội hàm, ngoại diễn của các câu từ được trình bày và dự luật trong các điều khoản luật./.

Nguyễn Ngọc Kiện – Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Huế & Lê Nguyễn Gia Thiện – Thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế – Luật ĐHQG.

Share by Fanpage Tạp chí Pháp luật và Thực tiễn

Chia sẻ bài viết:
  • Share on Facebook

Bài viết liên quan

Thực trạng áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và hòa giải trực tuyến ở EU
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và hòa giải trực tuyến ở EU
Căn cứ và Thẩm quyền giải thích pháp luật hình sự
Căn cứ và Thẩm quyền giải thích pháp luật hình sự
Quyền giải thích pháp luật của Tòa án nhân dân
Quyền giải thích pháp luật của Tòa án nhân dân
Bồi thường thiệt hại do ô tô tự lái gây ra trong pháp luật Đức và Nhật Bản
Bồi thường thiệt hại do ô tô tự lái gây ra trong pháp luật Đức và Nhật Bản
Văn minh Tây Âu trung đại
Văn minh Tây Âu trung đại
Giải thích pháp luật là gì? Phân tích khái niệm giải thích pháp luật. Phân biệt giải thích pháp luật chính thức với giải thích pháp luật không chính thức?
Giải thích pháp luật là gì? Phân biệt giải thích pháp luật chính thức với giải thích pháp luật không chính thức?

Chuyên mục: Kiến thức chung/ Lý luận Nhà nước - Pháp luật Từ khóa: Cộng hòa liên bang Đức/ Giải thích pháp luật/ Hệ thống dân luật - Civil Law/ Liên minh Châu Âu - EU/ Pháp luật Đức

Previous Post: « Những điểm mới về tội phạm môi trường theo Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017
Next Post: Những nội dung mới của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 của Việt Nam nhằm thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm »

Reader Interactions

Trả lời Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Primary Sidebar

Tìm kiếm nhanh tại đây:

Tài liệu học Luật

  • Trắc nghiệm Luật | Có đáp án
  • Nhận định Luật | Có đáp án
  • Bài tập tình huống | Đang cập nhật
  • Đề cương ôn tập | Có đáp án
  • Đề Thi Luật | Cập nhật đến 2021
  • Giáo trình Luật PDF | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | MIỄN PHÍ
  • Sách Luật PDF chuyên khảo | TRẢ PHÍ
  • Từ điển Luật học Online| Tra cứu ngay

Tổng Mục lục Tạp chí ngành Luật

  • Tạp chí Khoa học pháp lý
  • Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
  • Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
  • Tạp chí Kiểm sát
  • Tạp chí nghề Luật

Chuyên mục bài viết:

  • An sinh xã hội
  • Cạnh tranh
  • Chứng khoán
  • Cơ hội nghề nghiệp
  • Dân sự
    • Luật Dân sự Việt Nam
    • Tố tụng dân sự
    • Thi hành án dân sự
    • Hợp đồng dân sự thông dụng
    • Pháp luật về Nhà ở
    • Giao dịch dân sự về nhà ở
    • Thừa kế
  • Doanh nghiệp
    • Chủ thể kinh doanh và phá sản
  • Đất đai
  • Giáo dục
  • Hành chính
    • Luật Hành chính Việt Nam
    • Luật Tố tụng hành chính
    • Tố cáo
  • Hiến pháp
    • Hiến pháp Việt Nam
    • Hiến pháp nước ngoài
    • Giám sát Hiến pháp
  • Hình sự
    • Luật Hình sự – Phần chung
    • Luật Hình sự – Phần các tội phạm
    • Luật Hình sự quốc tế
    • Luật Tố tụng hình sự
    • Thi hành án hình sự
    • Tội phạm học
    • Chứng minh trong tố tụng hình sự
  • Hôn nhân gia đình
    • Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam
    • Luật Hôn nhân gia đình chuyên sâu
  • Lao động
  • Luật Thuế
  • Môi trường
  • Ngân hàng
  • Quốc tế
    • Chuyển giao công nghệ quốc tế
    • Công pháp quốc tế
    • Luật Đầu tư quốc tế
    • Luật Hình sự quốc tế
    • Thương mại quốc tế
    • Tư pháp quốc tế
    • Tranh chấp Biển Đông
  • Tài chính
    • Ngân sách nhà nước
  • Thương mại
    • Luật Thương mại Việt Nam
    • Thương mại quốc tế
    • Pháp luật Kinh doanh Bất động sản
    • Pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm
    • Nhượng quyền thương mại
  • Sở hữu trí tuệ
  • Kiến thức chung
    • Đường lối Cách mạng ĐCSVN
    • Học thuyết kinh tế
    • Kỹ năng nghiên cứu và lập luận
    • Lý luận chung Nhà nước – Pháp luật
    • Lịch sử Nhà nước – Pháp luật
    • Lịch sử văn minh thế giới
    • Logic học
    • Pháp luật đại cương
    • Tư tưởng Hồ Chí Minh
    • Triết học

Quảng cáo:

Copyright © 2023 · Luật sư Online · Giới thiệu ..★.. Liên hệ ..★.. Tuyển CTV ..★.. Quy định sử dụng